Wednesday,
December 12, 2012
Đường
lưỡi bò Trung cộng xuất xứ là Cửu đoạn tuyến, còn gọi là Đường chữ
U, là tên gọi dùng để chỉ đường quốc giới hải vực biển Đông mà Trung cộng chủ
trương nhằm để biến cả Biển Đông thành ao nhà của mình.
Đường
chín đoạn được hình thành dựa trên cơ sở "đường mười một đoạn" của
chính phủ Trung Hoa Dân Quốc. Đường mười một đoạn là đường quốc giới trên biển
Đông do mười một đoạn liên tục tạo thành, xuất hiện công khai lần đầu tiên vào
tháng 2 năm 1948 trong phụ đồ "Bản đồ vị trí các đảo Nam Hải" của
"Bản đồ khu vực hành chính Trung Hoa Dân Quốc" do Cục Phương vực Bộ
Nội chính Trung Hoa Dân Quốc phát hành. Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tức Trung
cộng sau khi thành lập vẫn xác định cương vực trên biển Đông theo "đường
mười một đoạn" của Trung Hoa Dân Quốc, đến năm 1953 thì bỏ hai đoạn trong
vịnh Bắc Bộ và trở thành "đường chín đoạn".
Công Hàm Bán Nước
Cũng
cần nhắc lại rằng Ngày 15 tháng 6 năm 1956, hai tuần lễ sau khi Việt Nam Cộng
Hoà (RVN) tái xác nhận chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Trường Sa, thì tại
Bắc Việt, Thứ trưởng Ngoại giao của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (DRV) đã nói với
Ban Thường Vụ của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa (PRC) rằng “theo những dữ kiện
của Việt Nam thì quần đảo Hoàng Sa (Xisha) và quần đảo Trường Sa (Nansha) là
một bộ phận lịch sử của lãnh thổ Trung quốc”. Rồi hai năm sau đó,
Trung cộng đã ra bản tuyên bố xác định lãnh hải của họ. Bản tuyên bố này đã
vạch ra rõ ràng khoảng khu vực của lãnh hải Trung quốc có bao gồm cả Trường Sa.
Để đáp lễ, Thủ tướng Viêt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (DRV), Phạm Văn Đồng đã gởi một
bản công hàm đến Thủ tướng Trung cộng Chu Ân Lai, vào ngày 14 tháng 9 năm 1958
nhấn mạnh rằng “Chính Phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà tán thành và tôn trọng
quyết định này”. Bản Công Hàm này của Phạm Văn Đồng chính là cơ sở để Trung
Cộng khẳng định quyền sở hữu đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng
như đối với cả đường Lưỡi Bò và cũng là nguyên nhân chính của những tranh chấp,
xung đột nổi lên trong quan hệ Việt Nam và Trung Cộng trong thời gian gần đây,
như việc Trung cộng cản trở hợp đồng của British Petroleum (BP) với Việt Nam
tại khu vực bồn trũng Nam Côn Sơn năm 2007, cản trở hợp đồng của Exxon Mobil
với Việt Nam năm 2008, vụ tàu Trung Quốc bắn ngư dân Việt Nam năm 2007, vụ căng
thẳng giữa tàu thăm dò đại dương USNS Impeccable của Mỹ với một số tàu Trung
Quốc đầu năm 2009 v.v… đều nằm trong ranh giới đường chín đoạn trên biển này.
Ngày
23 tháng 6 năm 2012, Tổng công ty Dầu khí hải dương Trung Cộng công bố mời thầu
quốc tế với chín lô dầu khí. Các lô dầu khí này, chiếm diện tích tới 160.129
km2, thuộc nội vùng biển của đường chín đoạn nhưng nằm sâu trên thềm lục địa
của Việt Nam. Chồng lên các lô từ 128 đến 132 và từ 145 đến 156 mà Tập đoàn Dầu
khí Quốc gia Việt Nam đã và đang tiến hành các hoạt động khai thác dầu khí cùng
đối tác của mình.
Sau
vụ đụng độ giữa Hải quân Trung cộng và Hải quân Việt Nam năm 1988, một số học
giả Trung Cộng tuyên bố rằng ranh giới chín đoạn là ranh giới biển
lịch sử của Trung Cộng. Tại cuộc Hội thảo lần thứ nhất về vấn đề tranh chấp chủ
quyền tại biển Đông tổ chức tại Hà Nội tháng 3 năm 2009, báo cáo của ông Hoàng
Việt thuộc Quỹ Nghiên cứu biển Đông, đã phân tích các yêu sách của Trung Quốc
về khu vực “đường lưỡi bò” theo luật quốc tế, khẳng định đường lưỡi bò vi phạm
Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982. Cho nên chỉ một ngày sau khi Trung
cộng trình tấm bản đồ 9 đường gián đoạn trên Biển Đông lên Tổng thư ký Liên
Hiệp Quốc, ngày 7 tháng 5 năm 2009, nhiều quốc gia liên quan trong khu vực gồm
Việt Nam, Malaysia và tiếp đó là Indonesia đã phản đối, bác bỏ.
Đó
là Lưỡi Bò Trung Cộng, một vấn đề còn nhiều tranh cãi tranh chấp, và chắc chắn
là còn tốn nhiều giấy mực của những người quan tâm.
Về
phía Việt Nam, mặc dù người đứng đầu chính phủ Việt Nam hiện nay là ông Nguyễn
Tấn Dũng từng tuyên bố trước Quốc Hội nước CHXHCN Việt Nam vào ngày 25 tháng 11
năm 2011 rằng: "Việt Nam có đủ căn cứ pháp lý và lịch sử khẳng định rằng
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chúng ta làm chủ
thực sự, ít nhất từ thế kỷ 17 khi hai quần đảo này chưa thuộc bất kỳ quốc gia
nào. Chúng ta đã làm chủ trên thực tế và liên tục hòa bình, năm 1974
Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa lúc đó trong sự
quản lý của chính quyền Sài Gòn. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa lúc đó phản đối,
lên án việc làm này và đề nghị Liên Hợp Quốc can thiệp. Lập trường nhất quán
của chúng ta là quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chúng ta có đủ
căn cứ và lịch sử pháp lý để khẳng định điều này. Nhưng chúng ta chủ trương đàm
phán giải quyết, đòi hỏi chủ quyền với quần đảo Hoàng Sa bằng biện pháp hòa
bình. Chủ trương này phù hợp với Hiến chương Liên Hợp Quốc, phù hợp với Công
ước Luật biển. Đối với quần đảo Trường Sa, năm 1975 hải quân Việt Nam đã tiếp
quản 5 đảo do quân đội của chính quyền Sài Gòn đang quản lý. Sau đó, với chủ
quyền của Việt Nam, chúng ta tiếp tục mở rộng thêm lên 21 đảo với 33 điểm đóng
quân. Ngoài ra, Việt Nam còn xây dựng 15 nhà giàn để khẳng định chủ quyền của
chúng ta ở vùng biển này - vùng biển trong phạm vi 200 hải lý thuộc thềm lục
địa và vùng đặc quyền kinh tế của chúng ta. Như vậy, trên quần đảo Trường Sa,
Việt Nam là quốc gia có số đảo đang đóng giữ nhiều nhất... Việt Nam cũng là
quốc gia duy nhất có cư dân đang làm ăn sinh sống trên một số đảo, trong đó có
6 nhân khẩu đã sinh ra và lớn lên trên các đảo này. Việt Nam chủ trương nghiêm
túc thực hiện công ước Luật biển, công ước ứng xử của các bên liên quan ở biển
Đông (DOC) và các nguyên tắc thỏa thuận mới đây đã ký với Trung Quốc. Việt Nam
yêu cầu các bên giữ nguyên trạng, không làm phức tạp thêm để gây ảnh hưởng đến
hòa bình, ổn định khu vực này. Việt Nam cũng tiếp tục đầu tư nâng cấp hạ tầng
kinh tế xã hội và cơ sở vật chất kỹ thuật ở những nơi đang đóng giữ, để cải thiện
đời sống và tăng cường khả năng tự vệ đối của quân dân trên đảo Trường Sa”.
Cái lưỡi của Nguyễn
Tấn Dũng
Đó
là lưỡi của Nguyễn Tấn Dũng, lưỡi của người đứng đầu chính phủ Việt Nam hiện
thời khiến nhiều người phải suy nghĩ. Điều suy nghĩ đầu tiên khi Nguyễn Tấn
Dũng xác nhận rằng: “năm 1974 Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần
đảo Hoàng Sa lúc đó trong sự quản lý của chính quyền Sài Gòn. Chính quyền Việt
Nam Cộng hòa lúc đó phản đối, lên án việc làm này và đề nghị Liên Hợp Quốc can
thiệp.” Như vậy chính phủ cộng sản Bắc Việt thuở ấy cũng hiểu rằng Hoàng Sa là
một hải đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa, vậy Phạm Văn Đồng và chính
quyền cộng sản Bắc Việt lấy tư cách gì để tán thành quyết định lãnh hải 12 hải
lý của Chu Ân Lai, để Hoàng Sa, Trường Sa và cả toàn bộ hải phận của Việt Nam
đều trở thành của Trung cộng? Rằng với công hàm ngày 14 tháng 9 năm 1958 của
Thủ tướng Phạm Văn Đồng, cộng sản Hà Nội đã dâng hết hải phận Việt Nam cho
Trung cộng như thế, người Việt Nam chúng ta đã có đủ cơ sở pháp lý để khẳng
định rằng chính phủ cộng sản Việt Nam đã bán nước có văn tự, có công hàm được
hay chưa?. Vấn đề cần suy nghĩ tiếp theo là thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng
định rằng: “Việt Nam có đủ căn cứ pháp lý và lịch sử khẳng định rằng quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam…” cớ sao khi xây dựng thành
phố TAM SA Trung cộng đã công khai khẳng định rằng Hoàng Sa – Trường Sa và Việt
Nam là thuộc chủ quyền của Trung cộng mà phía chính quyền cộng sản Việt Nam
cũng không có bất cứ một động thái tích cức nào để phản bác lại điều đó. Tại
sao nhà nước Việt Nam không những không tổ chức cho người dân Việt Nam biểu
tình chống trung cộng xâm lược mà lại còn ngăn cấm, bắt bớ những người tham gia
biểu tình chống giặc ngoại xâm? Tại sao những bích chương, khẩu hiệu của người
dân việt “HOÀNG SA, TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM” đều bị ngăn cấm, những người lưu
hành và phổ biến những khẩu hiệu như trên đều bị bát bớ tra tấn? Phải chăng
chính quyền cộng sản Việt Nam muốn người dân Việt Nam phải nói rằng “HOÀNG SA,
TRƯỜNG SA LÀ CỦA TRUNG CỘNG”? rằng “BIỂN ĐÔNG LÀ CỦA TRUNG CỘNG” hay sao?
Thật
là ô nhục khi Hội Nghị Trung Ương 6 vừa kết thúc, và một tháng sau,
khi gặp Tập Cận Bình, Nguyễn Tấn Dũng đã tuyên bố rằng: "Trên tinh thần
đồng chí, anh em và thỏa thuận cấp cao giữa hai nước, trên cơ sở luật pháp quốc
tế, hai bên cần bàn bạc, thảo luận, đàm phán để tìm ra giải pháp thỏa đáng, lâu
dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được; không để vấn đề về biển Đông làm ảnh
hưởng đến quan hệ hai nước." Tuyên bố của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
xảy ra cùng lúc với chủ trương của Nhà nước tiếp tục sách nhiễu, trấn áp người
dân phản đối động thái hung hãn và tham vọng bành trướng của Trung Quốc trên
Biển Đông. Khi nói “không để vấn đề về biển Đông làm ảnh hưởng đến quan hệ hai
nước”, ông Nguyễn Tấn Dũng ít nhất gián tiếp cho Trung Quốc biết là lãnh đạo
Việt Nam đặt quan hệ giữa hai nước lên trên tranh chấp chủ quyền.
Ông Nguyễn Tấn Dũng và lãnh đạo đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam có biết rằng “Lịch sử thế giới nói chung và lịch sử Việt Nam nói riêng cho thấy rằng sự yếu kém của lãnh đạo, của nhà nước, sự phân hoá trong xã hội, là yếu tố mời gọi ngoại bang xâm phạm chủ quyền, thôn tính lãnh thổ của một nước.” ?
Và, như để đáp trả lại thiện chí của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Trung cộng không ngừng đẩy mạnh các hoạt động phi pháp của họ ở Hoàng Sa và Trường Sa qua việc làm cho thế giới bất ngờ bởi một động thái ngoại giao: Công bố hộ chiếu của công dân nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa có in hình đường lưỡi bò ôm trọn 80% diện tích biển Đông-vùng biển đã và đang trở thành điểm nóng tranh chấp giữa Trung cộng và các nước Asean bao gồm Việt Nam, Phillippines, Malaysia, Brunei, mà theo tờ Daily Telegrap ngày 22/11/2012, Trung cộng đã cấp khoảng 6 triệu hộ chiếu loại này. Và điều “nguy hiểm” hơn là công dân nước họ đã bắt đầu sử dụng nó để đi sang Việt Nam. Lãnh đạo đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam đang nghĩ gì về việc này? Các ông có nhìn thấy một đại họa mất nước đang đến rất gần hay không? Sao các ông vẫn cứ giữ thái độ im lặng đáng sợ như vậy?
Trong
khi cùng thời gian này, cựu Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân cùng phu nhân
là bà Vương Ích Bình cùng một số các quan chức cấp cao của đảng và nhà nước
Trung cộng khi đón tiếp các lãnh đạo của Đại Học Hải Dương Thượng Hải ở Bắc
Kinh, đến dự kỷ niệm tròn một trăm năm của trường đại học này hôm 9 tháng 10
vừa qua, ông Giang Trạch Dân đã dõng dạc tuyên bố rằng: “thế kỷ 21 là kỷ nguyên
biển” và rằng “là một quốc gia hiếm hoi tài nguyên thiên nhiên, Trung Quốc phải
rất coi trọng việc phát triển trên biển”. Liệu các trí tuệ đỉnh cao của nhà
nước cộng sản Việt Nam có hiểu được thâm ý của nhà lãnh đạo kỳ cựu của Trung
cộng khi phát biểu mang tính chỉ đạo cho một chiến lược bành trướng ra biển
đông của Trung cộng hay không? Riêng toàn dân Việt Nam đều hiểu được rằng Trung
cộng đang chủ trương thôn tính Việt Nam và toàn dân của họ cũng đều đang đồng
tình với chiến lược đó của đảng và nhà nước Trung cộng.
Gần
đây, hai chữ "ai-guo" (ái quốc), được nhắc đến nhiều ở Trung Quốc,
nhất là khi đảng cầm quyền của nước này vừa tổ chức Đại hội để bầu ra ban lãnh
đạo mới.
Xin
mời các trí tuệ đỉnh cao của Việt Nam nghe những phát ngôn của một số “đồng
chí” trẻ của Mẫu quốc Trung cộng” rằng: "Các nước yếu như Việt Nam và
Philippines không đời nào dám đối đầu Trung Quốc nếu không có giúp đỡ của Mỹ và
những nước giàu như Nhật chẳng hạn."
"Để
dạy cho chúng một bài học, thì không có cách nào khác là đánh. Phải đánh!"
Dương
Chu Hiểu thì ví von: "Mấy nước nhỏ đó mà không đánh thì sẽ tiếp tục sủa
bậy, đánh thì chúng sẽ chạy thôi".
Còn
Tôn Hải Lâm thì tuyên bố chắc nịch như đinh đóng cột: "Cái gì của Trung
Quốc thì Trung Quốc phải lấy lại. Điếu Ngư Đài là của chúng tôi, chúng tôi phải
giành lại nó. Các đảo ở Nam Hải mà Philippines và Việt Nam chiếm đóng cũng vậy".
Trương
Khải, 25 tuổi, một hướng dẫn viên du lịch thì ngạo mạn tuyên bố rằng: "Đặng
Tiểu Bình đã có cuộc chiến dạy cho Việt Nam một bài học, chúng ta cần một cuộc
chiến nữa."
"Chúng
ta hãy làm như chính phủ dạy, chúng ta không muốn chiến tranh, nhưng không sợ
phải chiến đấu."
Cùng
với thái độ hiếu chiến đó của những người dân Trung cộng là hành vi gây hấn
trên biển Đông của đảng và nhà nước trung cộng bằng việc cắt cáp của tàu thăm
do dầu khí của Việt Nam Petrolimex ở gần đảo cồn cỏ, trên thềm lục địa
Việt Nam, chỉ cách trung tâm thành phố Huế non 60 km vào hôm 03 tháng 12. Theo
đó một chính sách chận bắt tàu của ngư dân Việt ngay trong lãnh hải của Việt
Nam cũng sẽ được áp dụng vào tháng 01 năm 2013 sắp tới đây.
Ôi!
Nhục quá! Nhục quốc thể quá!
Thưa
các trí tuệ đỉnh cao, trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, ông
cha ta chịu đựng bao mất mát hy sinh, xương của cha ông ta đã chất thành núi,
máu của cha ông ta đã chảy thành sông là để đời con, đời cháu không
phải nô lệ giặc Nam Hán, giặc Nguyên Mông, giặc Minh, Thanh. Và ngày nay tinh
thần hào hùng của Trưng Triệu, của Ngô Quyền, của Trần Hưng Đạo, của Lê Lợi,
của Quang Trung vẫn luôn cháy bừng trong tim của mỗi người dân Việt. Ải Chi
Lăng vẫn còn lưu dấu tích của Lê Sát chém cụt đầu Liễu Thăng, Gò Đống Đa vẫn
còn đó dấu tích của bại tướng Sầm Nghi Đống phải treo cổ để khỏi phải mất đầu
và dòng Bạch Đằng Giang vẫn cuồn cuộn máu giặc Tàu từ hai lần xâm lược của quân
Nam Hán và Nguyên Mông. Hào khí dân Nam bao giờ cùng bừng bừng trong từng ống
máu, luồng xương, thớ thịt của mỗi người dân, sao các trí tuệ đỉnh cao lại nhu
nhược lại đớn hèn, lại khom lưng, cúi đầu trước ngụy Hán Bắc phương suốt 70 năm
qua, để cho chúng gặm dần đất đai bờ cõi của ông cha để lại? Các trí tuệ đỉnh
cao còn tiếp tục khom lưng, cúi đầu để dâng bán hết cả giang sơn Đại Việt này
cho ngụy Hán, để cho Việt Tộc phải thêm một ngàn năm nữa nô lệ giặc Tàu chăng?
Đảng
cộng sản ơi! Bao dân người dân Việt mới rửa sách nổi nhục này?
Ngày
07 tháng 12 năm 2012
Nguyễn Thu Trâm
No comments:
Post a Comment