08:05:am
14/12/12
Ngày
27-1-2013 sắp đến sẽ đánh dấu 40 năm ký kết Hiệp Định Paris 1973, một biến cố
lịch sử vô cùng quan trọng đối với Việt Nam vì những hậu quả của nó áp đặt trên
mảnh đất này trong gần bốn thập niên cho tới ngày nay. Thay vì đưa đến “hòa
bình trong danh dự”, hiệp định này mở đường cho CSVN xâm chiếm trọn vẹn miền
Nam Việt Nam trong vòng hơn hai năm sau.Những tài liệu về chiến tranh Việt Nam
được bạch hóa trong thời gian gần đây cho thấy những sự thật phũ phàng đã đưa
đến Hiệp Định Paris 1973.
Tóm
tắt diễn tiến Hiệp Định Paris 1973
Hiệp Định Paris 1973
được thỏa hiệp tại Bắc Kinh, chứ không phải tại Paris. Từ trái: Cố Vấn An Ninh
Quốc Gia Henry Kissinger, Thủ Tướng Chu Ân Lai, và Chủ Tịch Mao Trạch Đông, Bắc
Kinh, 1972.
Cuộc
hòa đàm tại Paris bắt đầu từ 1968 vào cuối thời Tổng thống Lyndon Johnson và
tiếp tục tiếp diễn dưới thời Tổng Thống Richard Nixon nhưng không đạt được tiến
bộ nào cả cho đến cuối nhiệm kỳ I của Ông Nixon khi Ông Henry Kissinger, Cố Vấn
An Ninh Quốc Gia của Tổng Thống Nixon đạt được một số đồng thuận trong những
phiên họp bí mật với Ông Lê Đức Thọ, Trưởng Phái Đoàn Thương Thuyết của Cộng
Sản Bắc Việt (CSBV) và trong cuộc tiếp súc bí mật với các Ông Mao Trạch Đông và
Chu Ân Lai tại Bắc Kinh. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu không đồng ý những điều
kiện do CSBV đưa ra và đòi hỏi nhiều thay đổi. Hà Nội phản ứng bằng cách công
bố chi tiết về những điều hai Ông Kissinger và Lê Đức Thọ đã đồng ý. Cuộc hòa
đàm trở nên bế tắc.Một mặt Ông Nixon ra lệnh ném bom Hà Nội và Hải Phòng liên
tục trong 12 ngày vào cuối năm 1972.Mặt khác, Chính quyền Hoa Kỳ áp lực VNCH
chấp nhận điều kiện ngưng chiến.
Ngày
23-1-1973, hai Ông Lê Đức Thọ và Kissinger đồng ý về một thỏa hiệp sơ bộ.Bốn
ngày sau đó, Hiệp Định Paris được chính thức ký kết vào 27-1-1973. Hiệp Định
này đòi hỏi ngưng bắn toàn diện tại miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ rút hết số quân
còn lại tại Việt Nam trong vòng 60 ngày, quân CSBV (khoảng 150,000 binh sĩ)
được phép ở lại miền Nam Việt Nam tại những vùng CSBV đã chiếm đoạt, và tất cả
tù binh Hoa Kỳ được hồi hương. Hiệp Định Paris cũng kêu gọi Chính Phủ VNCH và
Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam thực hiện một cuộc bầu cử dân
chủ và tự do tại miền Nam Việt Nam để chấm dứt cuộc xung đột. Tổng Thống Nixon
hứa sẽ sử dụng Không Lực Hoa Kỳ để bảo đảm sự thi hành hiệp định này.
Trong
khi đàm phán, Hoa Kỳ tiếp tục rút quân và thi hành chương trình Việt Nam hóa để
quân lực VNCH dần dần thay thế quân lực Hoa Kỳ.
Khoảng
cách chạy tội
Việc
mất miền Nam Việt Nam ít người Việt thời đó có thể dự đoán, nhưng không phải là
điều ngạc nhiên đối với Hoa Kỳ mặc dù đã có Hiệp Định Paris. Thật vậy, chánh
quyền Nixon không muốn thấy miền Nam Việt Nam sụp đổ trước cuộc bầu cử tổng
thống Hoa Kỳ vào tháng 11, 1972, vì như thế có nghĩa là hi vọng thắng cử nhiệm
kỳ II của Ông Nixon cũng sẽ sụp đổ theo.
Hiệp Định Paris được
ký kết ngày 27-1-1973.
Vì
muốn bảo vệ thanh danh cho Hoa Kỳ và sự nghiệp chính trị của mình, Ông Nixon đã
làm đủ mọi thứ để giữ miền Nam Việt Nam khỏi phải rơi vào tay CSVN trong nhiệm
kỳ I (1969-1972). Trong cuộc họp bí mật đầu tiên với Thủ Tướng Chu Ân Lai vào
tháng 7, 1971 tại Bắc Kinh, Ông Kissinger bán đứng miền Nam Việt Nam cho Cộng
Sản.
Trên
một tài liệu thuyết trình cho chuyến đi Bắc Kinh bí mật đầu tiên, Ông Kissinger
ghi chú rằng Hoa Kỳ cần một thời gian chạy tội. Trung Quốc có sự cam kết của
Hoa Kỳ. Ông Kissinger viết nguyên văn như sau:
“We
need a decent interval. You have our assurance.”
Theo
những tài liệu do các phụ tá của Ông Kissinger ghi chép lại những lời đối thoại
của ông với Thủ Tướng Chu Ân Lai, Ông Kissinger nói rằng Hoa Kỳ sẽ ấn định thời
hạn chót cho việc rút quân và trong thời gian rút quân sẽ có ngưng bắn trong
khoảng 18 tháng và đàm phán. Nếu thỏa hiệp thất bại, dân Việt Nam sẽ tự giải
quyết. Nếu chính phủ miền Nam Việt Nam không được quần chúng ưa chuộng, lực
lượng của Hoa Kỳ càng rút nhanh, chính phủ này càng sớm bị lật đổ và Hoa Kỳ sẽ
không can thiệp.
Ông Lê Đức Thọ và
Ông Henri Kissinger tại cuộc hòa đàm Paris.
Nguyên
văn bằng tiếng Anh như sau:
“We
will set a deadline for withdrawals, and during withdrawals there should be a
cease-fire, and some attempt at negotiations. If the agreement breaks down then
it is quite possible that the people in Vietnam will fight it out. If the
[South Vietnamese] government is as unpopular as you seem to think, then the
quicker our forces are withdrawn the quicker it will be overthrown. And if it
is overthrown after we withdraw, we will not intervene. We can put on a time
limit, say 18 months or some period [for a cease-fire]. National Security
Advisor Henry Kissinger, Beijing, July 9, 1971.
Hoa
Kỳ cũng không muốn miền Nam Việt Nam mất nhanh chóng trong vòng sáu tháng sau
khi Hiệp Định Paris ký kết để Hoa Kỳ không bị mang tiếng thua trận.Nhưng nếu là
hai năm, sẽ không có vấn đề gì cả.VNCH cần phải tự lực chiến đấu trong một thời
gian đủ dài để chịu trách nhiệm về cuộc bại trận cuối cùng.Sau đây là phần phát
biểu thâu băng của Ông Nixon về vấn đề này:
“The
country would care if South Vietnam became Communist in a matter of six months.
They will not give a damn if it’s two years.” President Richard M. Nixon, March
17, 1973.
Ông
Kissinger trước đó cũng có quan điểm tương tự về việc mua thời gian để tháo
chạy mà không bị bẽ mặt:
“We’ve
got to find some formula that holds the thing together a year or two, after
which–after a year, Mr. President, Vietnam will be a backwater. If we settle
it, say, this October, by January ’74 no one will give a damn.” National Security
Adviser Henry A. Kissinger, August 1972.
Cả
hai ông Nixon và Kissinger đều đồng ý rằng VNCH có thể sẽ mất sau cuộc bầu cử
tại Hoa Kỳ vào tháng 11, 1974. Nếu xẩy ra vào mùa xuân 1975, thời điểm này tốt
hơn là mùa xuân 1976.
Nhà
Sử Học Ken Hughes thuộc University of Virginia nhận xét rằng:
“Nhiều
người có tư tưởng phóng khoáng nghĩ rằng Ông Nixon thật sự cương quyết muốn
ngăn chặn Cộng Sản thắng ở Việt Nam.Nhưng Ông ta chỉ cương quyết ngăn chặn Đảng
Dân Chủ thắng tại Hoa Kỳ mà thôi.” Sử Gia Ken Hughes, June 2010.
Vào
tháng 2, 1972, Ông Nixon viếng thăm Bắc Kinh lần đầu tiên, làm thân với Trung
Quốc, khởi sự thảo luận với Chủ Tịch Mao Trạch Đông và Thủ Tướng Chu Ân Lai về
chính sách một nước Trung Hoa, và đạt được sự bảo đảm của Bắc Kinh về giải pháp
hòa bình trong danh dự đối với Việt Nam với một khoảng cách chạy tội (decent
interval).
Kéo
dài chương trình Rút Quân và Việt Nam Hóa chiến tranh
Những
tài liệu mới giải mật cũng cho thấy Ông Nixon và Ông Kissinger tin rằng:
Chương
trình Việt Nam hóa chiến tranh sẽ không làm cho miền Nam Việt Nam có đủ khả
năng để tự bảo vệ.
Những
điều kiện “hòa bình” mà Ông Kissinger đã thương thuyết sẽ làm miền Nam Việt Nam
sụp đổ sau một thời gian một hoặc hai năm (khoảng cách chạy tội).
Để
che đậy sự thất bại của chiến lược Việt Nam Hóa và thương thuyết, Ông Nixon với
sự khuyến cáo của Ông Kissinger, kéo dài cuộc chiến tranh đến năm thứ tư (1972)
của nhiệm kỳ tổng thống đầu tiên – dài đủ để tránh sự sụp đổ của VNCH trước
ngày bầu cử nhiệm kỳ II. Chính vì vậy mà Ông Nixon kéo dài chương trình rút
quân qua nhiều năm.
Trong
cuốn băng thâu bí mật tại phòng bầu dục trong Tòa Nhà Trắng, Ông Nixon nói:
“We’ve
got dates in mind. We’ve got dates everywhere [from] July to August to
September [to] October [to] November to December [to] January of 1973.” President Richard
Nixon, September 4, 1971.
Quân
số Hoa Kỳ ở Việt Nam bắt đầu giảm từ cao điểm 543,000 người vào năm 1968 và đến
đầu năm 1973 mới chấm dứt, tức là sau cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ vào tháng
11, 1972.
Đối
với công chúng, Ông Nixon phải rút một số quân về nước đủ để thỏa mãn hai mục
tiêu:
Chứng
tỏ chương trình Việt Nam hóa thành công.
Giữ lời hứa khi tranh cử.
Giữ lời hứa khi tranh cử.
Đối
với sự nghiệp chính trị, Ông Nixon hoàn toàn bám vào lịch trình tranh cử để
hoạch định chương trình rút quân, dù có đạt được thỏa thuận với Hà Nội hay
không (Theo Ông Nixon sắc xuất chỉ có 40% – 55 %) và bất kể VNCH có đứng vững
sau khi quân Hoa Kỳ rút về nước hay không.
Hãy
nghe cuộc đối thoại giữa Tổng Thống Nixon và Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Kissinger
vào ngày 11-3-1971:
Nixon:
“We’ve got to get the hell out of there.”
Kissinger:
“No Question.”
Tuy
nhiên trước công chúng Hoa Kỳ, Ông Nixon vẫn hứa một giải pháp hòa bình trong
danh dự. Theo đó, Hoa Kỳ sẽ rút quân ra khỏi Việt Nam chỉ khi nào chương trình
Việt Nam hóa hoặc cuộc thương thuyết thành công – khi miền Nam Việt Nam có thể
tự bảo vệ và tự quản trị.
Hoa
Kỳ thất hứa không can thiệp trong trường hợp Hiệp Định Paris bị vi phạm
Tổng
Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu tin rằng những điều kiện Hoa Kỳ cho phép 150,000
quân CSBV ở lại miền Nam sẽ khiến VNCH sụp đổ. Theo tài liệu mới được bạch hóa,
trong buổi họp với Tướng Alexander Haig, phụ tá Cố Vấn An Ninh Quốc Gia, tại
Saigon vào ngày 4-10-1972, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố rằng theo đề
nghị của Hoa Kỳ, chính phủ VNCH tiếp tục tồn tại. Nhưng đây chỉ là giải pháp
đau lòng và sớm muộn chính phủ này sẽ sụp đổ và theo đó Ông Thiệu sẽ phải tự
sát.
Nguyên
văn bằng tiếng Anh như sau:
“In
the proposal you have suggested, our Government will continue to exist. But it
is only an agonizing solution, and sooner or later the Government will crumble
and Nguyen Van Thieu will have to commit suicide somewhere along the line.” President Nguyen
Van Thieu, Saigon, October 4, 1972.
Ông
Thiệu cực lực phản đối đề nghị hòa bình giả tạo của Hoa Kỳ làm cho cuộc hòa đàm
ở Paris ngưng lại. Ông Nixon phải hứa sẽ tăng viện trợ quân sự và Hoa Kỳ sẽ trở
lại Việt Nam nếu CSBV tấn công. Đồng thời Ông Nixon đe dọa sẽ cắt viện trợ để
buộc Ông Thiệu phải chấp nhận đề nghị của Hoa Kỳ. Một tài liệu mới được bạch
hóa cho thấy rằng Ông Nixon đe dọa đến cả tính mạng của Ông Thiệu:
“I
don’t know whether the threat goes too far or not, but I’d do any damn thing,
that is, or to cut off his head if necessary.” President Richard
Nixon, January 20, 1973.
Hiệp Định Paris chỉ giúp Hoa Kỳ rút
được quân ra khỏi Việt Nam an toàn, chấm dứt việc can thiệp trực tiếp của Hoa
Kỳ vào cuộc chiến tại Việt Nam, nhưng đã không mang lại hòa bình cho Việt Nam. Thật vậy, khoảng
một năm sau, vào tháng 1, 1974, Tổng Thống Thiệu tuyên bố Hiệp Định Paris không
còn giá trị sau khi Cộng quân lợi dụng cuộc ngưng chiến trong năm 1973, tiến
hành những trận đánh nhỏ để chiếm những vùng xa xôi hẻo lãnh.
Trong
khi đó Quốc Hội Hoa Kỳ tiếp tục giảm viện trợ cho Việt Nam từ 2.2 tỉ Mỹ kim cho
tài khóa 1973, 1.1 tỉ Mỹ kim cho tài khóa 1974, và 700 triệu Mỹ kim cho tài
khóa 1975. Tình trạng miền Nam Việt Nam trở nên nghiêm trọng hơn vào cuối năm
1974 khi Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua đạo luật 1974 Foreign Assistance Act, chấm
dứt tất cả những viện trợ quân sự. Điều này có nghĩa là Hoa Kỳ không thể thể
dùng không lực để trợ giúp miền Nam Việt Nam khi CSBV vi phạm Hiệp Định Paris.
Sau
khi Đạo Luật Viện Trợ Ngoại Quốc 1974 ban hành ít lâu, CSBV tiến đánh và chiếm
tỉnh Phước Long vào đầu năm 1975 và bẩy ngày sau tỉnh Bình Long thất thủ. Khi
không thấy Hoa Kỳ có phản ứng nào cả, ngày 8-1-1975 Hà Nội ra lệnh tổng tấn
công để giải phóng miền Nam bằng cách xua quân ngang nhiên vượt qua biên giới
Bắc Nam, tấn công toàn diện Vùng I và II Chiến Thuật vào tháng 3, 1975 và cuối
cùng chiếm Saigon vào 30-4-1975 đúng với thời hạn mà hai Ông Nixon và Kissinger
dự đoán.
Bộ
Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ James Schlesinger điều trần trước Quốc Hội vào ngày
14-1-1975 rằng Hoa Kỳ không giữ lời hứa với Tổng Thống Thiệu. Bẩy ngày sau,
Tổng Thống Gerald Ford, người thay thế ông Nixon từ chức vì vụ Watergate, tuyên
bố rằng Hoa Kỳ không sẵn sàng tái tham chiến tại Việt Nam.
Kết
luận
Hoa
Kỳ dưới thời Nixon đã bỏ rơi đông minh của mình là một điều đáng hổ thẹn đối
với một quốc gia biết tôn trọng những giá trị cao quý. Nhưng may thay, những sử
gia và những nhà phân tách Hoa Kỳ ngày nay đã phanh phui ra sự thật và lên
ánnặng nề những lỗi lầm đó. Về phía người Việt, hơn ai hết, chúng ta cũng có
trách nhiệm về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam và đưa phần đất này vào tay Cộng
Sản. Một bài học lớn là đừng bao giờ chui vào vòng nô lệ của bất cứ ngoại bang
nào dù là đồng minh.
Gần
đây, có vài nhóm người Việt tại hải ngoại chủ trương vận động quốc tế để phục
hồi lại Hiệp Định Paris 1973, đặc biệt mới đây nhất là Ủy Ban Lãnh Đạo Lâm Thời
VNCH (UBLĐLTVNCH), một hình thức chính phủ lưu vong nhưng không dùng danh xưng
tổng thống hay thủ tướng, của Ông Nguyễn Ngọc Bích (75 tuổi). Các tổ chức này
tin rằng nếu vận động quốc quốc tế làm sống lại Hiệp Định Paris 1973 (nhưng
không nói gì đến Hiệp Định Geneva 1954 mà chính VNCH đã xé bỏ), Hà Nội sẽ phải
trả lại miền Nam Việt Nam cho VNCH.
Giả
sử rằng UBLĐLTVNCH có khả năng làm chuyện này, mặc dù tôi nghĩ là không có một
cơ may nào cả, Ông Nguyễn Ngọc Bích sẽ không thâu tóm phần đất dưới vĩ tuyến
thứ 17 cho chính phủ của ông ngay được. Hiệp Định Paris đòi hỏi tổng tuyển cử ở
miền Nam Việt Nam, UBLĐLTVNCH sẽ phải ra tranh cử với Chính Phủ Cách Mạng Lâm
Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam. Nhưng trước hết, UBLĐLTVNCH sẽ phải đưa hàng
triệu người Bắc 75 về nguyên quán ngoại trừ 150,000 quân CSBV được Ông
Kissinger và Ông Chu Ân Lai cho phép ở lại miền Nam từ 1973 đến nay. Để đỡ tốn
giấy mực, tóm tắt lại, ý tưởng phục hồi Hiệp Định Paris là hoang tưởng nếu
không muốn nói là bệnh hoạn. Ngay cả nước Mỹ cũng muốn quên Hiệp Định Paris
1973 khốn nạn này do chính họ dựng lên.
©
Nguyễn Quốc Khải
©
Đàn Chim Việt
————————————————–
Tài
liệu tham khảo:
Larry
Berman, “No Peace No Honor, Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam,” The Free
Press, 2001.
Finding
Dulcinea, “On this Day: Paris Peace Accords Signed, Ending American Involvement
in Vietnam War,” January 27, 2012.
Trọng
Đạt, “Nixon và Hòa Bình Trong Danh Dự,” 27-01-2012.
Kennedy
Hickman, “Vietnam War end of conflict, 1973-1975,” Military History.
Ken
Hughes, “Fatal Politics: Nixon’s Political Timetable For Withdrawing From
Vietnam,” Diplomatic History, Vol. 34, No. 3, June 2010.
Stanley
Karnow, “Vietnam A History,” Penguin Books, 1997.
Jeffrey
Kimball, “Decent Interval or Not? The Paris Agreement and the End of the
Vietnam War,”December 2003.
Henry
Kissinger, “Years of Renewal,” Simon & Schuster, 1999.
Richard
Nixon, “No More Vietnam,” Arbor House, New York 1985.
10.
Frank Snepp, “Decent Interval,” Random House, 1977.
11.
Global Security, “A Decent Interval – Who Lost Vietnam?” May 7, 2011.
12.
Bách Khoa Toàn Thư Wikipedia, “Hiệp Định Paris 1973.”
THEO DÒNG SỰ KIỆN:
No comments:
Post a Comment