Được đăng ngày Thứ tư, 05 Tháng 12 2012 22:27
Tháng trước, một bức hình của tỳ kheo Thích
Pháp Định và ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng hôn môi nhau đã trở thành một đề tài đàm tiếu
trong mọi tầng lớp dân gian. Mỗi ngày, rất nhiều hình ảnh đã được chỉnh sửa
nhằm lăng mạ Phật Giáo được gởi lên internet nhưng bức hình hôn môi là một bức
hình thật và câu chuyện hôn môi cũng là câu chuyện thật. Người Phật Tử nào khi
xem bức ảnh cũng có thể tự hỏi làm thế nào một bậc tăng sĩ đã thọ tỳ kheo lại
hành xử thiếu suy nghĩ đến mức như vậy.
Tỳ kheo Pháp Định hẳn đã thuộc lòng lời dạy
cuối cùng của Đức Phật: “Các pháp hữu vi là vô thường, hãy tinh tấn, chớ có
phóng dật!” Giới luật là cốt lõi của tu tập. Trong suốt bốn mươi lăm năm
gieo rắt hạt giống từ bi, Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni dành chuyến hoằng pháp
cuối cùng từ thành Vương Xá đến xứ Kusinara để nhắc nhở ba điểm bất di bất dịch
của một tu sĩ Phật Giáo: Giới, Định, Huệ. Một Phật Tử tại gia phải giữ năm
giới, một tu sĩ bậc Sa Di giữ mười giới, một tăng sĩ như Tỳ Kheo Pháp Định đã
thọ đại giới, tức phải giữ 250 giới.
Sau đó tôi được biết Tỳ Kheo Pháp Định, thế
danh Phan Văn Triển, sám hối và đã chọn cách trả lại y bát để trở về đời sống
thường tục. Đức Phật dạy trong kinh Pháp Cú: “Người kia ở chiến trường, tuy
thắng trăm muôn giặc, chưa bằng thắng chính mình, là chiến sĩ bậc nhất.” Anh
Phan Văn Triển không chiến thắng được chính mình, không vượt qua được những cám
dỗ xã hội. Anh không thấy đúng, nghĩ đúng, nói đúng, làm việc đúng, sống
đúng, chuyên cần đúng, nhớ đúng, tập trung đúng theo tinh thần Bát Chánh
Đạo mà đức Phật đã dạy. Nhiều người trước đó chê bai anh, nay khen anh vì biết
lỗi lầm và ra đi. Nhưng ra đi chưa hẳn là chọn lựa tích cực nhất. Lần té ngã
nào cũng có một sức bật để vươn lên. Nếu anh Triển thay vì hoàn tục mà ở lại
chùa, dùng lầm lỗi của mình như một liều thuốc để tự chữa trị vết thương, đóng
cửa tu học, biết đâu năm hay mười năm nữa anh chẳng những vượt qua mà còn chứng
nghiệm được nhiều ý nghĩa vi diệu trong Phật Pháp.
Người Phật tử kính trọng tăng không phải
chỉ vì chiếc y các thầy đắp mà còn vì hạnh nguyện các thầy đã chọn để dâng hiến
đời mình. Hành trạng các thầy đang bước qua khỏi chiếc cầu trần gian đầy cám dỗ
này vô cùng khó khăn và đầy thử thách. Mỗi chúng ta là một con người sinh ra
với hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục và bắt đầu hành trình tu học như một con người
mang tất cả đặc tính đó. Có vị đi được vài năm như anh Triển và cũng có vị bỏ
cuộc sau khi đã đi gần hết cuộc đời mình. Trước anh Triển đã có nhiều người
thất bại như anh và sau này cũng sẽ có nhiều người như thế. Trước anh Triển đã
có nhiều người vượt qua được bể trầm luân và sau anh Triển cũng sẽ có nhiều
người vượt qua được. Sự tha hóa qua chuyện “Ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng và Tỳ Kheo Pháp
Định hôn môi” đáng buồn nhưng không thể gọi là xấu hổ cho Phật Giáo nói chung.
Sự tha hóa đáng
xấu hổ là sự tha hóa trong hàng ngũ lãnh đạo của “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam”
tại Việt Nam.
Thật
vậy, từ khi được đảng CSVN thành lập ngày 7 tháng 11 năm 1981 tại chùa Quán Sứ
Hà Nội và được xếp vào một trong 37 thành viên của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam” chỉ là một đoàn thể xã hội
giống như các đoàn thể khác trong mặt trận như Hội Người cao tuổi Việt Nam, Hội
Châm cứu Việt Nam, Hội nghề cá Việt Nam, Hội Làm vườn Việt Nam, Hội kế hoạch
hoá gia đình Việt nam v.v.. Một tôn giáo có lịch sử hai ngàn năm và đã đóng góp
một phần không nhỏ cho mảnh đất hình chữ S này còn tồn tại trên bản đồ thế
giới, bị đặt vào vị trí ngang hàng với một hội làm vườn, cắt cỏ nhưng không một
lãnh đạo Phật Giáo nào phàn nàn hay thắc mắc.
Sự tuân phục, phụ thuộc của hàng ngũ lãnh
đạo “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam” vào Đảng CS trầm trọng đến mức nhiều văn kiện
từ một bài văn, bài báo bình thường cho đến đạo từ quan trọng nhân đại lễ Phật
Đản của Pháp Chủ tối cao cũng không quên dành một phần lớn để ca ngợi công ơn
cao dày của Đảng. Đạo từ của Pháp Chủ Thích Phổ
Tuệ “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam” công bố nhân mùa Phật Đản Phật Lịch 2556,
tháng 5 năm 2012 là một bằng chứng.
Thông điệp Phật Đản lẽ ra là một cơ hội để
nhắc đến công ơn của Đức Phật đã thị hiện trên thế gian để cứu vớt chúng sinh
bị đắm chìm trong ô trược, soi rọi ánh sáng từ bi trí tuệ vào nhận thức con
người đang lạc loài trong tăm tối vô minh, khơi mạch suối tình thương chảy vào
thung lũng hận thù giết chóc.
Nhưng không, Đạo từ của Pháp Chủ Thích Phổ Tuệ, vỏn vẹn
chỉ một trang nhưng phân đoạn dài nhất được dành để ghi ơn Đảng Cộng Sản Việt
Nam trao tặng cho giáo hội “huân chương Hồ Chí Minh”, các huân chương và bằng
khen khác “…Trong
suốt 30 năm xây dựng và phát triển, Tăng Ni, Cư sỹ, Phật tử các cấp Giáo hội Phật
giáo Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu Phật sự trên tất cả các lĩnh vực Đạo
pháp và Dân tộc cũng như quan hệ đối ngoại Phật sự quốc tế; được Đảng, Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cộng đồng xã hội đánh giá cao vị thế của
Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Nhân dịp này, Đảng và Nhà nước đã quyết định trao
tặng Huân Chương Hồ Chí Minh lần thứ hai cho Giáo hội, cùng một số chư Tôn đức,
Cư sỹ, Phật tử có nhiều thành tựu Phật sự ích đời lợi đạo đã được trao tặng
Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập, Huân chương Đại đoàn kết Dân tộc,
Bằng khen của Thủ Tướng Chính Phủ và Chính quyền các cấp. Đây là minh chứng ghi
nhận những đóng góp to lớn của giới Tăng Ni, Cư sỹ, Phật tử Giáo hội Phật giáo
Việt Nam đối với sự nghiệp Cách mạng của Đảng và của Dân tộc.”
Huân chương để làm gì? Bằng khen để làm gì?
Là tu sĩ, có gì cao quý hơn vinh dự được mang họ Thích, được đắp y truyền thừa
của Phật, được nương tựa vào Chánh Pháp? Danh lợi, quyền lực là một trong những
giới cấm tối quan trọng của một bậc xuất gia. Đại lão hòa thượng Phổ Thoại, 95
tuổi, xuất gia khi chỉ mới 6 tuổi đầu, ngài tu cả đời người dưới mái chùa cong,
trong tiếng chuông tiếng mõ, bên ngoài vòng danh lợi. Với tuổi tác và thời gian
trụ thế của ngài, tôi không nghĩ hòa thượng tự tay cầm bút viết những dòng trơ
trẽn đó nhưng rõ ràng các lãnh đạo của “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam” phải chịu
trách nhiệm cho nội dung mâu thuẫn với những lời dạy xa lánh danh lợi, khước từ
quyền lực của Đức Phật mà một người học đạo bình thường nào cũng biết.
Điều mỉa mai hơn, đạo từ nhằm đề cao danh
lợi, đánh bóng quyền lực lại được công bố đúng trong ngày một bậc thánh nhân ra
đời chỉ để rồi 29 năm sau từ bỏ mọi quyền uy bậc nhất dành cho ngài, rời cung
vàng điện ngọc, cắt mái tóc đông cung thái tử trả lại vua cha, khoát lên người
một mảnh áo vàng và đi bằng đôi chân đất vào lòng thế gian đau khổ. Hai ngàn
năm trăm năm từ ngày đại nguyện đó, trên đất nước Việt Nam có những kẻ tự nhận
là con Phật, chọn ngày sinh của ngài để vinh danh, ca ngợi tầng lớp cai trị
đang chà đạp lên những quyền căn bản của con người mà đức Phật đã dành 45 năm
để xiễn dương giá trị. Một câu cũng Đảng, hai câu cũng Đảng, không một dòng nào
trong đạo từ nhắc đến ý nghĩa sự ra đời của Thái tử Tất Đạt Đa và bảy bước đi
trên bảy đoá sen màu nhiệm. Không một câu nào trong đạo từ giải thích ý nghĩa
vi diệu của câu nói đầu đời “Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn” mà Thái Tử
Tất Đạt Đa cất lên.
Sự suy thoái của Phật Giáo từ cuối thời nhà
Trần như cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Thiện Hoa viết trong Lịch sử Phật Giáo
Việt Nam không chỉ là một bằng chứng mà còn là bài học “Thế mà Ðạo Phật
trong đời nhà Trần, chỉ thịnh phát trong khoảng 50 năm đầu, rồi dừng lại và
thoái bộ mãi. Vì hai lý do làm cho Ðạo Phật không thể tiến phát được là ở bên
ngoài, sự cạnh tranh ráo riết, có nhiều khi là cả một sự đàn áp của Khổng-Giáo;
và ở bên trong, giáo lý Ðạo Phật dần dần bị xen lẫn mê tín, dị đoan của những
tà giáo, ngoại đạo mà các vua chúa trong đời nhà Trần rất sùng mộ.”
Hôm
nay, một lần nữa, thỏa hiệp với giới cai trị và biến đạo Phật thành một loại tà
đạo mê tín dị đoan là hai hiện tượng tha hóa phổ biến của “Giáo Hội Phật Giáo
Việt Nam” tại Việt Nam.
Việc thỏa hiệp với
giới cầm quyền có thể tìm thấy trong câu hỏi của “đại biểu quốc hội” Thích
Thanh Quyết với Nguyễn Tấn Dũng trong kỳ họp quốc hội vừa qua: “Nhiều mạng thông tin Internet đăng tải nhiều thông
tin không đúng sự thật, truyền bá văn hóa đồi trụy, độc hại, trái thuần phong
mỹ tục, bịa đặt xuyên tạc, gây dư luận xấu hoài nghi đối với các lãnh đạo Đảng,
Nhà nước. Chính phủ có giải pháp gì để ngăn chặn tình trạng không lành mạnh
này, xử lý thế nào những người đưa thông tin không đúng sự thật?” Theo cách
hỏi của Thích Thanh Quyết, các quan điểm đi ngược với chính sách độc tài toàn
trị của đảng CS, phê bình chỉ trích giới lãnh đạo đảng, nhà nước CS là những
lời “bịa đặt”, “xuyên tạc”, “gây dư luận xấu”, “hoài nghi” và cần phải có biện
pháp trừng trị thích đáng. Ngoài ra, khi trả lời câu hỏi của báo chí vào tháng
Tư năm nay Thích Thanh Quyết phát biểu về tự do tôn giáo tại Việt Nam:“Tôi
thấy, ở nước ta, tín ngưỡng, tôn giáo rất được tự do, tự do đến mức độ được tôn
trọng. So với các nước trong khu vực, tự do tôn giáo, tín ngưỡng của Việt Nam
ít nhất là không kém, thậm chí còn nhiều mặt cao hơn và thể hiện rõ nhất niềm
tin của nhân dân đối với Nhà nước”. Đạo Phật suy vi, thoái hóa không phải
chỉ vì những ác ma, tà đạo bên ngoài nhưng vì những ung nhọt làm băng hoại Phật
chất từ bên trong tăng đoàn. Thích Thanh Quyết còn trẻ, một ngày không xa, khi
chế độc tài này sụp đổ, chắc y còn sống và phải trả lời trước Phật tử Việt Nam
về những lời nịnh bợ hôm nay.
Thích Thanh Quyết cùng với ông Nguyễn Thế Thảo
Nhưng sự nịnh bợ
bốc mùi nhất có thể đọc trong bài “An lạc Phật giáo hòa trong vinh quang của
Đảng” của Thích Giác Phú viết trong tạp chí Xây Dựng Đảng số xuân Tân Mão và được nhiều trang web đăng lại: “Có thể nói, đất
nước, dân tộc Việt Nam từ ngày có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đến nay đã
đứng trên một vị thế mới – vị thế một quốc gia xã hội chủ nghĩa độc lập, tự chủ
– trong thế giới hội nhập, sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước cùng phát
triển. Đó cũng là cơ duyên, vận hội để Phật giáo ngày càng gắn bó với dân tộc,
đồng hành cùng dân tộc, phụng sự dân tộc vì cuộc sống hạnh phúc, an lạc. Thật
sung sướng thay, trên mảnh đất hình chữ S thân yêu của chúng ta hôm nay: đất
nước phồn vinh, thịnh vượng, Phật pháp xương minh phát triển trong ánh vinh
quang Đảng Cộng sản Việt Nam”. Những nhận xét vô cùng ngu xuẩn, ấu trĩ,
phản đạo như thế và đăng trong các báo quan trọng nhất nước mà không một lãnh
đạo Phật Giáo nào lên tiếng phê bình.
Ngoài những đạo từ, bài viết, phát biểu
nịnh bợ Đảng và nhà nước CS của lãnh đạo giáo hội trung ương cũng như của giáo
hội địa phương vừa nêu, còn rất nhiều thông điệp, đạo từ, bài văn, bài báo
tương tự, bắt đầu bằng ca ngợi đảng và chấm dứt bằng tung hô đảng không thể nào
trích hết ra đây.
Nhiều người có thể phê bình tôi khi nhắc
đến vài hiện tượng tiêu cực mà bỏ qua những “thành tựu to lớn” mà Phật Giáo đã
đem lại trong 37 năm qua với nhiều chùa, nhiều tu viện, thiền viện và hơn bốn
chục ngàn tăng ni. Vâng, to lớn và đông đảo, nhưng để làm gì? Phật Giáo đã đến
Việt Nam và đã đi vào lòng lịch sử dân tộc Việt Nam bằng những tấm lòng vị tha
cao quý chứ không phải bằng con số và những cuộc tranh giành, thắng thua. Phát
triển trên sự chịu đựng đau thương triền miên của dân tộc, phát triển dưới lọng
tàng của chế độ độc tài, đảng trị không phản ảnh tinh thần “vị chúng sanh thị
hiện” của đức Phật. Có gì xứng đáng để khoe khoang?
Phương châm “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội” của
“Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam” cũng không đại diện cho truyền thống của một tôn
giáo đã gắn liền với dòng sinh mệnh Việt Nam mà chỉ nói lên sự sợ hãi, phụ
thuộc, nô lệ vào đảng CS. Đảng CS và dân tộc Việt Nam không đồng hành về tương
lai mà cũng chưa hề đồng hành trong quá khứ.
Nhân dân Việt Nam muốn gì? Nhân dân Việt Nam muốn có một
cuộc sống an bình thịnh vượng trong một cơ chế chính trị dân chủ pháp trị và
phát triển toàn diện phù hợp với thời đại văn minh dân chủ. Chính quyền trong cơ chế chính trị dân chủ có nhiệm vụ
ngăn chận mọi hình thái độc quyền, bảo đảm công bằng xã hội và bình đẳng cơ hội
cho mọi thành phần dân tộc và mọi miền đất nước, tạo dựng môi trường, điều kiện
và cơ hội đồng đều để mỗi người phát huy khả năng và sở thích đặc thù, đóng góp
vào việc xây dựng nền văn minh mới cho toàn dân và cho nhân loại.
Đảng CS muốn gì? Sau
hơn 80 năm qua nhiều lần thay màu đổi dạng nhưng Đảng vẫn duy trì một mục đích
áp đặt quyền cai trị tuyệt đối lên toàn dân tộc Việt Nam, sống giàu sang phú quý trên mồ hôi nước mắt và xương máu
nhân dân, kiểm soát mọi sinh hoạt vật chất cũng như tinh thần của đời sống con
người, áp dụng mọi biện pháp để tiêu diệt một cách không nương tay các hành vi
chống đối, mọi tiếng nói bất đồng phát sinh từ trong lòng dân tộc.
Phân tích để thấy, dân tộc Việt Nam và chủ
nghĩa Cộng Sản chẳng những không chia sẻ một mục đích cuối cùng chung mà còn
mâu thuẫn đối kháng ngay từ trong căn bản. Do đó, về lý luận cũng như về thực
tế, không bao giờ có chuyện “đảng song hành cùng dân tộc” như các lãnh đạo
“Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam” lập đi lập lại khẩu hiệu tuyên truyền mị dân của
đảng CS.
Lịch sử nhân loại đã chứng minh, niềm tin
vào chân lý từ bi bao giờ cũng mạnh hơn cường quyền và bạo lực. Tình thương rồi
sẽ thắng. Tự do rồi sẽ thắng. Bao nhiêu chế độ độc tài hà khắc được dựng lên
bằng bạo lực và đã sụp đổ trước sức mạnh của nhân dân. Chế độ độc tài Cộng Sản
Việt Nam rồi cũng thế. Họ chỉ có thể kéo dài hơi thở bằng bộ máy công an kìm
kẹp, bằng nhà tù, sân bắn, bằng vuốt ve, dụ dổ nhưng không thoát ra khỏi quy
luật xã hội. Các thầy
không làm được như Phật Giáo Miến Điện, Phật Giáo Tây Tạng, Phật Giáo Nepal thì
cũng không nên phạm vào giới vọng ngữ, một trong bốn giới hàng đầu của đại
giới, làm nặng nghiệp cho chính mình và hại cho người khác.
Ngày nay, tình trạng “giáo lý Ðạo Phật dần
dần bị xen lẫn mê tín, dị đoan của những tà giáo, ngoại đạo” cũng trầm trọng
không kém cuối đời nhà Trần như cố đại lão Hòa Thượng Thích Thiện Hoa đã phân
tích. Ngày rằm tháng Giêng chùa nào cũng đông đúc người sắp hàng xin xăm bói
quẻ nhưng không lâu trước đó đại lễ Phật Thành Đạo mùng 8 tháng Chạp, ngày đạo
Phật chính thức có mặt trên cõi ta bà này, lại thưa vắng người đi. Trong nhiều
trường hợp, các lãnh đạo “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam” chẳng những không ngăn
chận tình trạng mê tín dị đoan mà còn khai thác sự mê muội của người dân vốn đã
nghèo để thu góp tiền cúng sao, giải hạn.
Cũng Thích Thanh Quyết, Ủy viên Hội đồng
Trị sự của “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam” khi trả lời phỏng vấn của báo Tiền
Phong, đã hãnh diện về tệ trạng mê tín dị đoan gia tăng “Năm nay số lượng
người đăng kí giải sao, cầu an tại chùa khoảng 23 vạn người, tăng 5% so với năm
ngoái. Số sớ được viết cân lên cũng phải được con số hàng tạ”, và y khoe
khoang về mức thu nhập cao “Trước khi tôi về làm trụ trì tại chùa Phúc Khánh
thì tiền công đức tại chùa rất ít nhưng khi tôi về làm trụ trì thì ngay lập tức
có người đến công đức tại đây hàng chục tỷ đồng”.
Qua đó, phóng viên bài phóng sự phân tích
số tiền thu “Do giá cả mọi thứ đều tăng nên tiền cúng giải sao, cầu an năm
nay cũng tăng 30% so với năm ngoái. Giải sao đầu năm là: 100.000 đồng/người,
cầu an: 100.000 đồng/hộ; còn giải sao cả năm là: 700.000 đồng/người, cầu an:
400.000 đồng/hộ….Thông thường, người đến cầu an sẽ giải hạn luôn. Bởi theo giới
thiệu của người giúp nhà chùa thu tiền, thì phải làm đồng thời cầu an và giải
hạn luôn mới nghiệm. Nếu tính toán, với 23 vạn người, chỉ riêng thu từ tiền cầu
an, giải hạn, đã lên đến khoảng 4-5 tỷ đồng.” Nhìn cảnh đồng bào nghèo khó
xác xơ, chen lấn nhau nộp tiền “cầu sao giải hạn”, một người có chút nhận thức
và lương tâm không khỏi đau lòng.
Lịch sử đạo Phật
đã cho thấy, trong thời đại nào và ở đâu, các hàng tăng sĩ lãnh đạo Phật Giáo
thỏa hiệp với tầng lớp thống trị, bị lôi cuốn vào vòng lợi danh và quyền lực,
lợi dụng nỗi khổ đau bất hạnh của con người, giáo hội Phật Giáo đó không còn là
đại diện cho đạo từ bi của đức Phật nữa mà đã bị tha hóa thành công cụ của bộ
máy cầm quyền.
Dĩ nhiên, không thể quy kết bốn chục ngàn
tăng ni Phật Giáo tại Việt Nam là bốn chục ngàn “đại biểu quốc hội” háo danh
Thích Thanh Quyết hay bốn chục ngàn ma tăng Thích Giác Phú. Ẩn mình trong đám
mây đen là ánh sáng của vầng dương trí tuệ. Che giấu dưới lớp rêu xanh là những viên ngọc từ bi nhẫn nhục.
Hàng ngàn Như Lai Trưởng Tử thật sự đang dâng hiến cuộc đời cho Phật Giáo Việt
Nam và Dân tộc Việt Nam trong nhiều cách khác nhau trên khắp ba miền đất nước.
Các bậc tăng tài chân chính đó là những mạch nước đang âm thầm chảy trong lòng
dân tộc, khó khăn nhưng vẫn phải chảy để giữ gìn Chánh Pháp của đức Thế Tôn.
Trần Trung Đạo
Nguồn: Facebook
Nguồn: Facebook
No comments:
Post a Comment