Minh Anh - RFI
Đăng ngày 15-10-2015
Đối
với người Pháp, thuật ngữ « Đông Dương » gợi nhắc đến vùng đất
thuộc địa tại Châu Á hay được bảo hộ cho đến tận năm 1954. Nhưng đối với các
nhà địa lý, từ này bao trùm cả một vùng bán đảo đi từ biên giới tây bắc Miến Điện
đến biên giới phía bắc Việt Nam, bắc ngang qua cả Malaysia và Thái Lan. Và vùng
đất rộng lớn này chính là đấu trường tranh giành ảnh hưởng thường trực của hai
người khổng lồ Trung Quốc và Ấn Độ. Một cuộc đọ sức đã có từ xa xưa, từ thế kỷ
thứ II, sau Công nguyên.
Michel Nazet, tốt nghiệp về lịch sử - địa lý, luật,
khoa học chính trị (Viện nghiên cứu Chính trị IEP Paris), chuyên nghiên cứu về
các vấn đề địa chính trị và địa kinh tế Châu Á, có bài viết trên tạp chí địa
chính trị Conflits của Pháp, số ra cho quý IV/2015, cho rằng « Giữa Ấn
Độ và Trung Quốc là Đông Nam Á ». Theo ông, sự tranh giành ảnh hưởng
của hai cường quốc này diễn ra liên tục từ lâu đời, chỉ bị gián đoạn một thời
gian, thời điểm ASEAN được thành lập năm 1967 với một trong số các mục tiêu chống
sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam.
Nhưng vào những năm 1990, cả hai cường quốc Châu Á
này đã nhận thức được về những biến đổi do hiện tượng toàn cầu hóa gây ra. Do
đó, việc có mặt trong những khu vực lân cận đã trở thành một vấn đề mấu chốt.
Mà sự hiện diện đó đây của Trung Quốc và Ấn Độ trong khu vực, cận kề địa lý, tiềm
năng phát triển về kinh tế giải thích rõ cho mối bận tâm này.
Các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á là những quốc
gia sản xuất quan trọng về dầu khí (Indonesia, Malaysia, Brunei, chưa kể đến tiềm
năng của Miến Điện), về gạo (Thái Lan, Việt Nam, các quốc gia xuất khẩu hàng đầu),
về thủy hải sản tươi sống (Thái Lan), về nhiều khoáng sản khác nhau (đồng, thiếc...)
Kinh
tế : Cuộc đọ sức bất cân xứng giữa Bắc Kinh và New Dehli
Đối với Bắc Kinh, lợi ích địa chính trị là rất đáng
kể. Eo biển Malacca cần cho vận chuyển dầu hỏa. Vùng Indochine có nhiều tuyến
đường vòng quan trọng mà Trung Quốc rất muốn xây dựng. Giả như cả khu vực này nằm
hoàn toàn dưới tầm ảnh hưởng của Hoa Kỳ, đối với Bắc Kinh đấy là một mối đe dọa,
dọc theo trục sống còn cho nền kinh tế và cận kề với biên giới phía nam của đất
nước.
Tại một số quốc gia, Bắc Kinh đã khẳng định thành
công vị thế của mình. Chẳng hạn như trường hợp nước Lào. 40% khoản đầu tư nước
ngoài là từ Trung Quốc. Đặc biệt là đặc khu kinh tế Boten, phía bắc Lào. Khu vực
này giờ gần giống như là một thành phố của Trung Quốc. Tương tự đối với Miến Điện.
Quốc gia này đã ngả sang Trung Quốc sau các lệnh trừng phạt của phương Tây.
Nhưng hiện nay Hoa Kỳ và Ấn Độ dường như bắt đầu lo chống lại sự ảnh hưởng của
Trung Quốc.
Trên bình diện rộng hơn, Bắc Kinh có những chính
sách đối tác với cả khu vực: hình thành Greater Mekong Subregion nhằm khuyến
khích phát triển các dự án đường bộ và đường sắt, ký kết thỏa thuận trao đổi tự
do mậu dịch với 6 quốc gia thành viên trong khối ASEAN (2010), tham gia hội nghị
ASEAN + 3 (cùng với Hàn Quốc và Nhật Bản) trong khuôn khổ thỏa thuận Chiang Mai
năm 2000, dự trù một sự hỗ trợ tiền tệ lẫn nhau giữa các thành viên.
Ấn Độ cũng không thể để đối thủ tự do tung hoành
trong khu vực và bắt đầu vươn ra ngoài khu vực Nam Á, ngoài Hiệp hội hợp tác
khu vực vùng Nam Á, được thành lập năm 1983. Vấn đề là phần trao đổi mậu dịch
giữa Ấn Độ với khu vực lại quá ít ỏi. Tệ hơn nữa, nhiều nước vì e sợ ảnh hưởng
quá mạnh của New Dehli nên đã tìm cách chuyển sang bắt tay với Bắc Kinh như trường
hợp của Nepal hay Bangladesh chẳng hạn. Nhưng hai quốc gia này giờ đây cũng bắt
đầu cảm thấy do dự về sự chuyển hướng đó.
Năm 1992, Ấn Độ hình thành "Chính sách hướng
Đông". Dựa theo mô hình của Trung Quốc, một loạt các sáng kiến ra đời:
khởi động chương trình Sáng kiến vùng vịnh Bengal về Hợp tác Kinh tế và Kỹ thuật
đa khu vực BIMSTEC (Bay of Bengal Initiative for MultiSectoral Technical and
Economic Cooperative - năm 1997), Hợp tác sông Hằng - Mekong (MGC - 2000) hay
như Đối thoại Hợp tác Châu Á (ACD) do Thái Lan khởi xướng năm 2002. Năm 2009,
New Dehli ký kết một thỏa thuận trao đổi tự do mậu dịch với ASEAN, nhưng hiện
chỉ có hiệu lực với mỗi Indonesia.
Cả hai quốc gia này tiến hành hai hướng đi song song
với nhau nhưng đối lập nhau. Cả hai đều có được quy chế đối tác đối thoại ASEAN
năm 1996 và đều là thành viên của diễn đàn khu vực của ASEAN (ARF), chuyên xử
lý các vấn đề an ninh chng cho toàn Châu Á. Ngoài thỏa thuận khu vực với
ASEAN, Trung Quốc còn gia tăng các thỏa thuận song phương với Thái Lan (2003)
và Singapore (2009). Ấn Độ cũng không chịu thua, ký kết với Singapore năm
(2005) và Malaysia (2010), và hiện đang có những tiến bộ trong thương lượng với
Thái Lan và Indonesia.
Một
vành đai, một lộ trình
Trong dài hạn, Bắc Kinh đặt cuộc nhiều vào những con
đường tơ lụa trên bộ và hàng hải. Lộ trình thứ nhất sẽ liên quan vùng Trung Á,
nhưng cũng có cả Pakistan, Nepal và Ấn Độ. Con đường thứ hai, xuất phát từ những
cảng biển lớn của TRung Quốc, sẽ phải đi dọc theo bờ biển các nước Việt Nam,
Thái Lan, Malaysia, Singapore, Indonesia và thông qua ngả Ấn Độ Dương nối liền
với Sri Lanka. Các dự án này được tài trợ từ Silk Road Company, thành lập
vào tháng Ba năm 2015 và có nguồn vốn ban đầu là 4à tỷ đô-la. Bên cạnh đó còn
có Ngân hàng Đầu tư Hạ tầng Châu Á đang trong quá trình hình thành.
Theo tác giả, với các dự án này, vị thế của TRung Quốc
sẽ phải được củng cố hơn nữa. Bắc Kinh không những chỉ dựa vào vành đai
"chuỗi ngọc" mà còn dựa vào trao đổi mậu dịch: thương mại ASEAN-Trung
Quốc (hơn 380 tỷ đô-la trong năm 2015), cao hơn gấp năm lần so với ASEAN-Ấn Độ
(chỉ ở khoảng 75 tỷ đô-la). Lưu ý là mức trao đổi giữa Ấn Độ với ASEAN đã tăng
vọt rất nhanh (tăng 30 lần kể từ năm 1990 và gấp 10 lần kể từ năm 2000) và số
lượng các doanh nghiệp Ấn Độ lập cơ sở trong khu vực cũng đã tăng tốc nhiều, nhất
là tại Singapore.
Trong trước mắt, lợi thế dường như đang nghiêng về
phía Trung Quốc. Nhờ có đối trọng về kinh tế và sức mạnh quân sự, Trung Quốc hiện
tạm thống trị Đông Nam Á và đến lấn quyền New Dehli tại Nam Á. Tình hình rất có
thể sẽ còn chuyển hướng trong một tương lai không xa.
Phạm
vi hoạt động nào cho ngoại giao Ấn Độ ?
Bởi trong những năm gần đây, quan hệ đối ngoại giữa
Trung Quốc với các nước thành viên trong khối ASEAN đã trở nên xấu đi do chủ
nghĩa bành trướng của Bắc Kinh. Đối với Ấn Độ thì đây lại là một cơ hội để kéo
dài hơn nữa sự hiện diện của mình trên Ấn Độ Dương.
Kể từ khi đắc cử đến nay, Thủ tướng Narendra Modi đã
không thể hay không biết cải thiện quan hệ với Pakistan, cũng như không tìm được
một đồng thuận với Trung Quốc trong vấn đề tranh chấp biên giới. Nhưng ông đã
thành công trong việc xích lại gần với Hoa Kỳ và Nhật Bản, và nhất là tỏ ra rất
tích cực hơn trong vùng Đông Nam Á, với một chính sách đối ngoại mới mang tên
« Hành động ở phía Đông » (Act East Policy), tiếp nối với
chính sách « Nhìn sang phía Đông » (Look East Policy).
Học thuyết ngoại giao mới này bao gồm việc tăng cường
hợp tác trên các phương diện an ninh, thương mại, đầu tư và kết nối mạng (qua
việc thành lập một quỹ tài trợ đặc biệt cho chính sách này). Cụ thể hơn là, một
vị trí thường trực cho Ấn Độ tại ASEAN đã được tiến hành vào tháng 4/2015 và
nhiều thỏa thuận hợp tác trong các lãnh vực quốc phòng, khai thác dầu khí đã được
ký kết với Việt Nam, một trong những quốc gia chống đối Bắc Kinh nhiều nhất.
Với Bangladesh, Thủ tướng Ấn Độ cũng đã giải quyết thành công vấn đề biên giới với nước này, sau gần 40 năm căng thẳng.
Nói tóm lại, Ấn Độ và Trung Quốc từ gần hai thập
niên nay đang cố làm hết sức để thâm nhập vào khu vực mà họ rất khát khao điều
khiển được toàn bộ. Tuy nhiên, việc thiết lập một vùng thương mại hội nhập khu
vực rộng lớn ASEAN-Trung Quốc - Ấn Độ đã gây ra những khoản nợ lớn do bởi sự việc
cả hai quốc gia lớn này vừa là đối tác nhưng cũng vừa là đối thủ cạnh tranh lẫn
nhau trên bình diện khu vực, thậm chí cả trên thế giới.
No comments:
Post a Comment