DCVOnline
| Phỏng vấn
Posted on September 30, 2015 by Editor — 0
Comments
“Tôi đã giúp sinh viên của tôi học tiếng Anh, tôi đã
giúp cho người tị nạn chiến tranh và những người tàn tật và trẻ mồ côi. Nhưng
nhìn chung, tôi e rằng tôi đã nhận được nhiều hơn tôi đóng góp, và tôi vẫn cảm
nhận sâu xa món nợ của tôi với người dân Việt Nam.” – Hope Benne.
*
DCVOnline | 2015 dánh dấu 40 năm chiến tranh Việt Nam chấm dứt. 2015 cũng
đánh dấu 50 năm lần đầu tiên Mỹ đưa quân tác chiến vào Việt Nam: 3500 lính Thuỷ
quân Lục chiến Mỹ đổ bộ ở bờ biển Mỹ Khê, Đà Nẵng ngày 8 tháng 3, 1965.
Trong khung cảnh đó, từ đầu năm nay, không ngày nào
báo giới Hoa Kỳ không có tin tức về sinh hoạt kỷ niệm chiến tranh, về cựu chiến
binh Hoa Kỳ, và còn có cả một trang mạng “Kỷ niệm Chiến tranh Việt Nam”.
Một số sách có cách nhìn khác về cuộc chiến đã phát
hành trong những năm gần đây. Ví dụ, “Ride the Thunder” (2009)
của Ritchard Botkin đã làm thành phim cùng tên (2015), “Uphill Battle” (2014)
của Frank Scotton. Cả hai cuốn vừa kể đều được một số người Việt dịch sang tiếng
Việt [Lý Văn Quý, Nguyễn Hiền, Nguyễn Hoàng Diệu, và Trịnh Bình An, “Cưỡi
Ngọn Sấm” Tập I (2015); Phan Lê Dũng, “Cuộc chiến Leo dốc” (2015)].
Về nghiên cứu lịch sử, gần đây có hai tác phẩm đáng
để ý là “Hanoi’s War: An International History of the War for
Peace in Vietnam” (2012) của tác giả Lien-Hang T. Nguyen, và “Hanoi’s
Road to the Vietnam War, 1954-1965” (2013) của Pierre Asselin. Cả hai
đã đưa ra những nhận định khác về cuộc chiến không chỉ dùng tài liệu của Hoa Kỳ
mà còn dựa trên nhiều nguồn tài liệu của những quốc gia khác.
Tuy thế, một sinh hoạt không bom đạn của Chiến tranh
Việt Nam có lẽ đã bị bỏ quên hay được coi là không quan trọng. Đó là những đóng
góp của những thanh niên nam nữ làm việc tình nguyện ở Việt Nam. Họ có thể là
nhân viên của Hội Hồng Thập Tự Hoa Kỳ, y sĩ tình nguyện của Hội Y sĩ Mỹ (AMA),
tình nguyện viên của tổ chức CARE hay của International Volunteer Services
(IVS, Đoàn Thanh niên Chí Nguyện Quốc tế), v.v.
Hôm nay DCVOnline xin giới thiệu đến bạn đọc một khoảng
rất nhỏ trong mảng thực tế bị bỏ quên đó của Chiến tranh Việt Nam. Dưới đây là
bài phỏng vấn với bà Hope Benne, một phụ nữ tình nguyện làm việc ở Việt Nam
trong tổ chức IVS từ 1966-1970.
bà Hope Benne
International Voluntary Services được các giáo hội
Mennonite, Brethren, Quaker thành lập vào năm 1953 và hiến chương IVS ghi rằng
tổ chức này được thành lập
“để sử dụng đóng góp của các tình nguyện viên một
cách có tổ chức để chống nghèo đói, bệnh tật và mù chữ ở các khu vực kém phát
triển trên thế giới và do đó mang lại hòa bình, hạnh phúc và thịnh vượng cho
người dân.”
IVS có mặt tại Việt Nam từ năm 1957 đến năm
1975 cùng thời điểm chấm dứt hoạt động của tổ chức này tại các nước vùng “Đông
Dương”. IVS hoàn toàn giải thể vào năm 2002. Peace Corps có thể xem là một
tổ chức hậu thân của IVS.
Bà Hope Benne hiện là giáo sư dậy Sử Thế giới và
Nghiên cứu Hoà bình tại Salem State University và là Viện trưởng của Peace
Institute tại đây.
Cô Hope Benne, giáo
sư Anh ngữ, và sinh viên trường Đại học Sư Phạm Sài Gòn (Circa
1967). Nguồn: H.B.
Today DCVOnline would like to present to our
readership a very small part of the neglected segment of the Vietnam War. Below
is the interview with Ms. Hope Benne, a volunteer who worked in Vietnam with
the International Volunteer Services, IVS, from 1966-1970. Ms. Benne
is currently teaching world history, peace studies and also the Chair of
Peace Institute at Salem State University.
1. DCVOnline: Xin bà vui lòng cho độc giả DCVOnline biết
bà là ai và tại sao bà đã chọn đến Việt Nam làm việc khi chiến tranh đang xảy
ra. Giá trị gia đình và ảnh hưởng của sự giáo dục tôn giáo của bà đã ảnh hưởng
đến quyết định này như thế nào?
Hope
Benne: Gia đình tôi sống một cuộc sống du mục (gypsy), di
chuyển từ nơi này đến nơi khác, vì cha tôi là một sĩ quan quân đội. Vì cứ phải
di chuyển như thế, chúng tôi dễ dàng thích ứng và rất cởi mở. Tôi là con cả
trong 7 chị em, vì thế tôi đã lớn lên với một vị trí danh dự, mà tôi học được từ
các gia đình người Việt Nam, là “Chị Hai”. Chúng tôi là tín hữu
Công giáo, vì vậy tôi đã được giáo dục với ý thức đạo đức rõ rệt. Ở đại học,
khi đọc về những bất công của chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc, tôi thề
sẽ làm những gì có thể để giải quyết vấn đề khoảng cách giữa người giàu và người
nghèo trên thế giới. Sau khi học chuyên ngành lịch sử Châu Á, tôi muốn đi đến
châu Á. Tìm được International Voluntary Services (IVS), một tổ chức phi chính
phủ (NGO) có tình nguyện viên làm việc trong khu vực Đông Nam Á, và tôi quyết định
tham gia. Khi đến Việt Nam vào năm 1966, tôi đã không nhận thức đầy đủ hết được
tầm cỡ của cuộc chiến tranh Việt-Mỹ.
2. DCVOnline: Thưa bà, có nhiều tình nguyện viên phụ nữ
tại Việt Nam không? Thường thì họ làm những loại công tác/dịch vụ nào và nơi họ
làm việc để giúp người Việt Nam ở những đâu?
Hope
Benne: Có rất ít tình nguyện viên phụ nữ ở Việt Nam trong
chiến tranh. Có khoảng 15 phụ nữ trong đoàn IVS, trong khi có khoảng 135 đàn
ông thanh niên – tất cả chúng tôi là 150 tình nguyện viên. Phụ nữ chúng tôi đều
là giáo viên, nhân viên cứu trợ, và cố vấn nông nghiệp. Công việc chính thức của
tôi là dạy tiếng Anh tại Trường Sư Phạm Sài Gòn và sau đó giảng dạy tiếng Anh
chuyên về từ y khoa tại Trường Y khoa Sài Gòn. Nhưng tôi cũng đã làm công việc
cứu trợ như đem thực phẩm cho người tị nạn, giúp đỡ ở trại trẻ mồ côi, và người
lái xe đưa người đi gắn chân tay giả. Tôi khóc mỗi khi những ký ức của tất cả
những khổ đau ấy trở về, và tôi đã dành cả cuộc đời trưởng thành của tôi để là
người tận tuỵ với chủ nghĩa hoà bình và vận động hòa bình. Vấn đề là, rất khó để
thay đổi một quốc gia đã quá quân sự hoá và tạo nên một nền văn hóa hòa bình. Một
số người cảm thấy bị đe dọa và muốn có súng và có một quân đội thường trực lớn.
Cô Hope và trẻ mồ
côi. Sài Gòn 1966-1970. Nguồn: Hope Benne.
3.
DCVOnline: Khi ấy là một sinh viên trẻ vừa tốt nghiệp đại học,
bà đã cảm thấy gì khi đến một vùng đất hoàn toàn xa lạ xa với những người mà bà
chưa bao giờ gặp?
Hope
Benne: Tôi chưa bao giờ cảm thấy thoải mái hơn thế. Nghe có
vẻ khó tin, nhưng tôi có thể thành thật nói rằng 4 năm sống ở Việt Nam là những
năm hạnh phúc nhất đời tôi. Tôi đã học tiếng Việt ở Đà Lạt trong 6 tuần đầu
tiên khi mới đến, và tôi đã học đủ để có thể trò chuyện hàng ngày. Khi người Việt
Nam gặp tôi và thấy tôi cố gắng nói tiếng Việt, họ rất mến tôi, và đã thật sự
quan tâm đến tôi. Tôi chưa bao giờ cảm thấy an tâm, được quý mến, và được
đón nhận như thế. Tôi đã có cảm nghiệm sâu sắc về sự yên ổn. Tưởng tượng
xem, tôi khẳng định là tôi đã cảm nghiệm sâu sắc về sự bình an ngay ở một đất
nước đang bị chiến tranh tàn phá. Nhưng đó là sự thật.
4.
DCVOnline: So với các cựu chiến binh Mỹ, tại sao lại có sự thiếu
công nhận những đóng góp của những tình nguyện viên người Mỹ ở Việt Nam khi cuộc
chiến đã kết thúc từ 40 năm trước
Hope
Benne: Hoa Kỳ là một quốc gia quân sự hóa. Từ nguồn gốc
khai phá rừng sâu, vượt vùng Đồng bằng Lớn và bất chấp núi non hiểm trở, chúng
tôi đã chiến đấu để bình định châu lục này. Ở những nơi xa xôi và cằn cỗi đó
không có luật pháp và trật tự bảo vệ người dân. Vì thế đã mở đường cho bạo lực ở
mức tương đối cao. Những người tiên phong đã xúc phạm những cảm nhận sâu sắc của
những lý tưởng về tâm linh và tôn giáo khi họ phải thảm sát, chém giết, và cướp
bóc. Chúng cho phép sự vô luân và bạo lực tồn tại ở một mức độ cao. Chúng đã trở
thành những tiền lệ của nền văn hoá mà ngày hôm nay chúng tôi vẫn sống trong
đó.
5.
DCVOnline: Xin bà vui lòng cho độc giả DCVOnline biết những gì
bà nhớ nhất, những gì có thể được gọi là “khác thường” trong 4 năm sống tại Việt
Nam.
Hope
Benne: Tôi có thể viết cả cuốn sách về tất cả nững khía cạnh
về đời sống tuyệt vời của Việt Nam đã làm tôi say mê. Có thể nói sức hấp dẫn và
niềm vui của người Việt Nam thu hút tôi nhất. Tôi chưa bao giờ gặp những con
người vui tươi sâu sắc như thế. Niềm vui sống, joie de vivre của người Việt Nam
quá mạnh, và đáng ngạc nhiên là gần như sự giận dữ và tủi thân hoàn toàn vắng mặt
trong lúc những bi kịch khủng khiếp đang diễn ra.
Ánh sáng, cảnh đẹp, và màu sắc rực rỡ của cây cỏ
vùng nhiệt đới là những kinh nghiệm tuyệt vời; và không khí dịu mát có tác dụng
làm người ta thanh thản.
Âm nhạc Việt Nam, với sự lãng mạn và đam mê, và đặc
biệt là những ca khúc của Phạm Duy và Trịnh Công Sơn, làm tôi cảm thấy hạnh
phúc. Và cách nấu ăn thịnh soạn chắc chắn là một trong những văn hoá ẩm thực
hàng đầu trên thế giới.
6.
DCVOnline: Tại sao bà rời khỏi Việt Nam vào năm 1970? Ai là các
cơ quan, tổ chức – kể cả những cơ quan chính phủ và phi chính phủ – đã tài trợ
cho các tình nguyện viên và nhân viên của IVS?
Hope
Benne: Tôi trở lại Mỹ để lên tiếng chống lại cuộc chiến
tranh bi thảm và tàn khốc. Tôi đã ký 2 hợp đồng hai năm, và rời Việt Nam vào cuối
hợp đồng thứ hai của tôi.
Tình nguyện viên IVS được 80 đô-la mỗi tháng và nhân
viên IVS có mức lương tối thiểu. Nói cách khác, những phí của tổ chức IVS là tối
thiểu. Tài trợ cho IVS là từ một số nhà thờ Mỹ và từ Cơ quan Phát triển Quốc tế
(USAID), một cơ quan của chính phủ Mỹ.
7.
DCVOnline: Làm việc ngay tại Sài Gòn từ năm 1966, có
bao giờ bà nghe nói về một dự án phát triển cộng đồng tại quận 8 Sài Gòn đã bắt
đầu một năm trước đó và kéo dài trong khoảng 6 năm? Có bất kỳ sự tham gia nào của
IVS với dự án đó hay không? (Ông Don Luce có thể biết một số tác nhân chính.)
Bằng điện thư, bà Hope Benne cho hay là theo ông Don
Luce thì một tình nguyện viên của IVS đã cộng tác với Chương trình Phát triển Cộng
đồng ở Quận 8, Sài Gòn là ông Charlie Sweet; tuy nhiên ông Sweet đã qua đời.
Ông Don Luce không nhớ những dự án nào đã dược thực hiện ở Quận 8.
8.
DCVOnline: Về IVS, bà có nghĩ rằng nó là một tổ chức xã hội dân
sự độc lập trên nguyên tắc và trong thực tế? (Nguyên nhân của các cuộc xung đột
giữa IVS với USAID và quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam là những gì?)
Hope
Benne: Đúng, IVS nói chung là tổ chức độc lập. Nhưng, khi
tình nguyện viên IVS lên tiếng chống lại chiến tranh, như đã làm khi 49 người
chúng tôi viết một bức thư cho Tổng thống Lyndon Johnson vào năm 1969 yêu
cầu chấm dứt chiến tranh, IVS đã nhận lãnh hậu quả. Và Don Luce, một trong những
người tuyệt vời nhất mà tôi biết, đã đến tận cùng giới hạn khi ông đưa phái
đoàn thượng nghị sĩ và dân biểu Mỹ đến đảo Côn Sơn(1) để cho họ thấy điều kiện
sống khủng khiếp trong nhà tù một phần do chính phủ Mỹ tài trợ. Các người tù Việt
Nam ở đó, sống trong điều kiện tồi tệ nhất, là những tù nhân chính trị của
chính quyền miền Nam Việt Nam.
Chuồng cọp tại Nhà
tù Côn Sơn – Tiger Cages at Con Son Prison. Nguồn/Source: LIFE Magazine, Vol.
69, No 3, July 17, 1970. pages 26-7. Photos by Tom Harkin (1)
9.
DCVOnline: 40 năm sau khi chiến tranh kết thúc, bà có nhìn thấy
thành quả của công việc tình nguyện của mình ở Việt Nam không? Một Việt Nam dưới
chế độ cộng sản, như ngày hôm nay, có tốt cho người Việt Nam hơn (miền Nam) Việt
Nam mà bà đã biết 50 năm trước đây không?
Hope
Benne: Tôi chỉ biết Việt Nam trong thời gian chiến tranh.
Chiến tranh Việt Nam xẩy ra như là một phần của Chiến tranh Lạnh – một cuộc
tỉ thí của hai ý thức hệ, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản. Những ý thức
hệ đó cực đoan và cần phải được sửa đổi và nhuận sắc để làm cho chúng thực tế
và thân thiện với con người hơn. Tôi muốn nghĩ rằng Việt Nam ngày nay đang kết
hợp chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản ở Việt Nam hôm nay, và tôi hy vọng người
Việt Nam tự vẽ đường cho mình theo những truyền thống lịch sử và kinh tế Trung
Quốc-Phật giáo của riêng họ chứ không phải dựa vào truyền thống phương Tây.
Nhưng tôi không biết hiện nay điều gì đang thực sự xảy ra ở đó.
Tôi muốn nghĩ rằng tôi đã làm một số việc tốt trong
suốt 4 năm tôi ở Việt Nam. Tôi đã giúp sinh viên của tôi học tiếng Anh, tôi đã
giúp cho người tị nạn chiến tranh và những người tàn tật và trẻ mồ côi. Nhưng
nhìn chung, tôi e rằng tôi đã nhận được nhiều hơn tôi đóng góp, và tôi vẫn cảm
nhận sâu xa món nợ của tôi với người dân Việt Nam.
Để trả món nợ này, tôi đã làm tất cả những gì tôi biết
để lên tiếng chống lại chiến tranh, bạo lực và chủ nghĩa quân phiệt. Phụ nữ
chúng tôi có một trách nhiệm đặc biệt để lên tiếng nói, về mặt lịch sử, chúng
tôi không liên hệ đến vũ khí và chiến đấu như nam giới.
10.
DCVOnline: Bà nghĩ gì về tuyên bố của Ivan Illich (trong “Ý tốt
chả là cái gì cả”, bài phát biểu tại Cuernavaca, Mexico, vào ngày 20 tháng 4
năm 1968) cho rằng, “không có cách nào cho bạn thực sự gặp những người
nghèo khổ, vì chẳng có điểm chung nào để các bạn gặp nhau”? Bà có đồng ý rằng
không có điểm chung? Liệu nó có thể áp dụng cho cá nhân và/hoặc với tất cả các
tình nguyện viên IVS tại Việt Nam?
Hope
Benne: Tôi tự hỏi Ivan Illich ngụ ý gì khi nói về những người
nghèo khổ? Tôi đã gặp những người Việt Nam có thể coi là thuộc giới người
nghèo, nhưng họ là những người đầy vui tươi và sống động nhất mà tôi từng gặp.
Một số trong số họ rất nghèo, họ đã phải nhặt thức ăn từ các bãi rác. Tuy
nhiên, họ là những người nhiều nhân bản hơn so với những người giầu có mà tôi
đã gặp. Họ gắn liền chứ không xa lìa cuộc sống. Họ hân hoan chào đón tôi với nụ
cười rạng rỡ, hỏi thăm về gia đình tôi, và nhận xét về mái tóc vàng với tàn
nhang tên mặt của tôi. Họ rạng rỡ niềm vui mà tôi sẽ không bao giờ quên được.
Khi Illich nói “Ý tốt chả là cái gì cả” Tôi
chỉ có thể tự hỏi làm thế nào ông ấy có thể thành thật khẳng định như vậy. Tôi
cảm thấy hầu hết mọi người trên thế giới đều có ý tốt đối với những người khác.
Họ nhìn thấy những người khác như người đồng loại và chúc lành cho họ. Trong thế
giới toàn cầu ngày nay con người có tính quốc tế. Họ muốn bầu bạn với nhau và học
hỏi với nhau. Tôi cảm thấy người Việt Nam là thiên tài trong việc đi tìm điểm
tương đồng và yêu mến người khác. Người Việt Nam là dân tộc thân thiện và xây dựng
nhất mà tôi từng gặp.
11.
DCVOnline: Làm thế nào có thể huấn luyện tình nguyện viên để đi
phục vụ? Sự huấn luyện này nên có những yếu tố nào?
Hope
Benne: Huấn luyện ngôn ngữ sẽ là đào tạo hiệu quả nhất cho
các tình nguyện viên tương lai. Đối với chúng tôi những người trong IVS, biết
tiếng Việt đã mở ra những con đường chính để giao tiếp. Chúng tôi đã rất may mắn
được học tiếng Việt. Đó là một ngôn ngữ tuyệt vời, đầy tính hài hước, ngôn từ lịch
sự, và thơ mộng.
DCVOnline: Cảm ơn bà đã chia sẻ kinh nghiệm và ký ức về Việt Nam với bạn đọc
DCVOnline.
Professor Hope
Benne, Chair of SSU Peace Institue – Viện trưởng Peace Institute, Salem State
University, Boston. Nguồn: H.B.
© 2015 DCVOnline
Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”
Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”
DCVOnline: (1) Theo Ralph Graves, Chủ biên Điều hành của Tạp chí
LIFE trong “Lời Chủ biên” thì qua Don Luce, Tom Harkin, một cựu phi công Hải
quân, một người chụp ảnh không chuyên nghiệp, là phụ tá trong phái đoàn của
một uỷ ban Hạ viện Hoa Kỳ đang thăm Việt Nam vào tháng
6 năm 1970 đã rủ được hai dân biểu cùng đi thăm nhà tù Côn Sơn. Lúc
đó Don Luce là Tổng Thư Ký của Hội đồng Thế giới các Giáo phái (World Council
of Churches) và cũng là một ký giả.
1957-1968, mười một năm đầu tiên tại Việt
Nam, Don Luce là tình nguyên viên rồi Trưởng đoàn Thanh Niên Thiện chí Quốc
tế (IVS). 1968 Don Luce phản đối chiến tranh đã từ chức Trưởng đoàn
IVS và trở về trường cũ (Cornell) ở Mỹ và làm phụ tá nghiên cứu cho Dự án về
Quan hệ Quốc tế của Đông Á tại Trung Tâm Nghiên cứu Quốc tế của Đại học
Cornell.
Sau một năm tại Cornell, 1969 Don Luce trở lại Việt
Nam làm ký giả điều tra cho đại học Cornell và Dự án Giáo dục của United
Methodist Church tại Hoa Kỳ.
Don Luce là thông dịch viên trong nhóm bốn người Mỹ
có mặt trong chuyến viếng Nhà tù Côn Sơn. Người chụp ảnh “Chuồng Cọp” tại đây
là Tom Harkin. Ngoài Tom Harkin, hai người còn lại là dân biểu William R.
Anderson (R., Tennessee) and Augustus T. Hawkins (D., California). Phái
đoàn 4 người Mỹ này đã tìm được, quan sát và chụp hình “Chuồng Cọp” ở
Nhà tù Côn Sơn trong 30 phút. Kết quả là 5 tấm hình cùng hai đoạn văn ngắn mô tả
Nhà tù ở Côn Sơn (trang 26-29) và bài “Họ đã khám phá Chuồng Cọp như thế
nào” do Ralph Graves viết ở trang 24, đăng trên Tạp chí LIFE, bộ 69, số 3, ngày
17 tháng Bảy, năm 1970 .
Đến 17 tháng Tư, 1971 Don Luce nhận được giấy báo của
Bộ Nội vụ chính phủ VNCH yêu cầu ông rời khỏi Việt Nam trước ngày 16 tháng 5,
1971 “vì lý do đặc biệt”. Vào thời điểm này ông Don Luce không
còn giấy phép hoạt động như một ký giả từ phía chính phủ VNCH và chiếu khán của
ông đã hết hạn từ giữa tháng 2, 1971. Đồng thời JUSPAO tại Sài Gòn cũng
không gia hạn giấy phép hoạt động như ký giả của Don Luce.
Thomas Richard “Tom” Harkin sau này trở thành
Dân biểu Hoa Kỳ (1975-1985) và là Thượng Nghị sĩ đảng Dân chủ, tiểu bang
Iowwa, January 3, 1985 – January 3, 2015.
Đáng lưu ý là những tấm ảnh “Chuồng
Cọp” có tù nhân ở Côn Sơn do Tom Harkin chụp năm 1970 hoàn toàn không giống
với hình tượng và ảnh nhà nước CHXHCN Việt Nam dựng nên để triển lãm như di
tích lịch sử tù nhân ở Côn Sơn.
Sources:
- Ralph Graves, “How they unearthed the tiger cages”, LIFE Magazine, vol. 69, no. 3, July 17, 1970, p. 24, 26-29
- Holt Ruffin, “Don Luce”, To the Editors, The New York Review of Books, January 7, 1971 Issue
- Don Luce, “Letter from Don Luce: Farewell to Vietnam”, The Village Voice – May 27, 1971, page 11.
------------------------
Bản
Tiếng Anh :
Today DCVOnline would like to present to our
readership a very small part of the neglected segment of the Vietnam War. Below
is the interview with Ms. Hope Benne, a volunteer who worked in Vietnam with
the International Volunteer Services, IVS, from 1966-1970. Ms. Benne
is currently teaching world history, peace studies and also the Chair of
Peace Institute at Salem State University.
1. DCVOnline: Please tell DCVOnline readers who you are
and why you chose to go to Vietnam when there was a war going on. How do your
family values and your religious upbringing influence this decision of yours?
Hope
Benne: My family lived a gypsy life, moving from
place to place, because my father was an army officer. Because of all the
travel, we adapted easily and were very outgoing. I am the eldest of 7
children, so I grew up with an honored position I learned was “Chi Hai” in
Vietnamese families. We are Roman Catholic, so I was educated with a strong
moral awareness. In college, upon reading about the injustices of colonialism
and imperialism, I vowed to do what I could to address the gap between rich and
poor in the world. Having majored in Asian history, I wanted to go to Asia. I
discovered International Voluntary Services, an NGO with volunteers in
Southeast Asia, and decided to join. I was not fully aware of the magnitude of
the Vietnam-American war when I went there in 1966.
2.
DCVOnline: Were there many woman volunteers in
Vietnam? What kind of tasks/services and where are they doing their work to
help Vietnamese?
Hope
Benne: There were very few women volunteers in
Vietnam during the war. There were about 15 women in IVS, while there were
about 135 men – 150 volunteers in all. We women were teachers, relief workers,
and agricultural advisors. My official job was teaching English at Truong Su
Pham in Saigon and later teaching medical English at the Saigon Medical School.
But I also did relief work such as taking food to refugees, helping at
orphanages, and driving people to get fitted with artificial limbs. I weep
every time I recall these memories of all the suffering, and I have spent my
adult life as a committed pacifist and peace activist. The trouble is, it’s
very hard to change a highly militarized nation and create a culture of peace.
Some people feel threatened and want to own guns and have a large standing
military.
3.
DCVOnline: You were a young student just graduated
from university, how did you feel being in a far away totally strange land with
people you never met?
Hope
Benne: I never felt better. It may seem incredible
for you to believe, but I can honestly say the 4 years I spent in Vietnam were
the happiest years of my life. I studied Vietnamese in Dalat for 6 weeks when I
first arrived, and learned enough to be able to converse on an everyday basis.
Once the Vietnamese people I met heard me trying to speak Vietnamese, they
loved me and took a genuine interest in me. I never felt so safe, appreciated,
and accepted. I acquired a deep sense of security. Imagine, I assert I felt a
deep sense of security in a war-torn country. But it is the truth.
4.
DCVOnline: Why is there is a lack recognition of
American volunteer contributions to Vietnam during the war that ended 40 years
ago in comparison to that of the US veterans?
Hope
Benne: The US is a militarized country. From our
origins cutting down thick forests and crossing the Great Plains and braving
rugged mountain chains, we struggled our way to settle the continent. In these
remote and barren places, there was no law and order to support people. That
made way for relatively high levels of violence. Pioneers violated deeply felt
spiritual and religious ideals when they resorted to massacre, slaughter, and
plunder. They allowed high levels of immorality and violence. These were
precedents set in our culture which we still live with today.
5.
DCVOnline: Please tell DCVOnline readers of what you
remember most, what could be called “out of the ordinary” in your 4 years in
Vietnam.
Hope
Benne: I could write a book about all the
extraordinary aspects of Vietnamese life which enchanted me. I would say the
charm and joy manifested by the people attracted me most. I have never met such
deeply joyful people. The joie de vivre was so strong there was, surprisingly,
nearly a complete absence of anger and self-pity in light of the terrible
tragedy which unfolded.
The luminosity, scenic beauty, and brilliant colors
of the tropical plants were just wonderful to experience; and the balmy air had
a calming effect.
Vietnamese music, with its romanticism and passion,
and especially songs by Pham Duy and Trinh Cong Son, made me so happy. And the
sumptuous cuisine is certainly one of the most extraordinary in the world.
6.
DCVOnline: Why did you leave Vietnam in 1970? Who are
the agencies, organizations – both governmental and non-governmental – that
funded IVS for volunteers and staff?
Hope
Benne: I returned to the US to speak out against the
tragic and destructive war. I had signed 2 two-year contracts, and left at the
end of my second contract.
IVS volunteers earned $80 per month and IVS staff
earned minimal. In other words, the overhead of IVS was minimal. Funding came
from several US churches and from the US Agency for International Development,
a US government agency.
7.
DCVOnline: Working right in Saigon since 1966, have
you ever heard about a community development project in Saigon’s District 8
that started a year earlier and lasted for about 6 years? Is there any
involvement by IVS with that project? (Mr. Don Luce probably know of some
principle participants.)
By Email, Hope Benne writes,
“He told me there was one IVS volunteer who worked
in the 8th district. That was Charlie Sweet. But Charlie has died. Don didn’t
remember what projects were undertaken in that district.”
8.
DCVOnline: IVS, do you think it is an independent
civil society organization in principle and in practice? (What were the causes
of the conflicts between IVS with USAID and the US army in Vietnam?)
Hope
Benne: Yes, IVS was mainly independent. But, when
IVSers spoke out against the war, as we did when 49 of us wrote a letter to
President Lyndon Johnson in 1969 pleading for an end to the war, there were
repercussions. And Don Luce, one of the most wonderful people I’ve known, did
push limits when he took US Senators and Congressmen to Con Son Island(1) to
show them horrific prison conditions partly paid for by the US government. The
Vietnamese prisoners there, living in the most wretched conditions, were
political prisoners of the South Vietnamese government.
9.
DCVOnline: 40 years after the war ended, did you see
the fruit of your voluntary work in Vietnam? Is a Vietnam under communism, as
it is today, better for Vietnamese than a (South) Vietnam that you knew of 50
years ago?
Hope
Benne: I only knew Vietnam in war time. The Vietnam
War came about as part of the Cold War – a competition of two powerful
ideologies, Capitalism and Communism. These ideologies were extreme and needed
to be modified and nuanced to make them more realistic and people-friendly. I
like to think Vietnamese today are combining socialism and capitalism in
today’s Vietnam, and I hope Vietnamese are drawing on their own Sino-Buddhist
historical and economic traditions and not western ones. But I do not know what
is really going on there now.
I’d like to think I did some good during my 4 years
in Vietnam. I did help my students learn English, and I lent a hand to refugees
and orphans and amputees. But overall, I’m afraid I gained more than I
contributed, and I still feel deeply in the debt of the Vietnamese people.
To repay this debt, I have done all I know how to
speak out against warfare, violence, and militarism. We women have a special
responsibility to speak out since, historically, we are not as associated with
weaponry and combat as men are.
10.
DCVOnline: What do you think of Ivan Illich’s (in “To
Hell with Good Intentions” speech in Cuernavaca, Mexico, on April 20, 1968)
claim that “there is no way for you to really meet with the underprivileged,
since there is no common ground whatsoever for you to meet on”? Do you agree
that there is no common ground? Does it applicable to your personal and / or
that of all IVS volunteer in Vietnam?
Hope
Benne: I wonder what Ivan Illich means by under-privileged?
I met Vietnamese he may have deemed under-privileged, but they were some of the
most joyful and lively people I have ever met. Some of them were so poor they got
their food from garbage dumps. Yet, they had more humanity about them than
over-privileged people I have met. They were connected to life and were not
alienated. They would joyfully greet me with beaming smiles, ask about my
family, and remark about my blond hair and freckles. They radiated joy I will
never forget.
When Illich says “to hell with good
intentions” I can only wonder how he could honestly assert that. I
feel most people the world over have good intentions toward other people. They
see other people as fellow human beings and wish them well. People in today’s
global world are cosmopolitan. They want to enjoy each other’s company and
learn from them. I feel Vietnamese are geniuses at finding common ground and
valuing others. Vietnamese are the friendliest and most constructive people
I’ve ever met.
11.
DCVOnline: How can volunteers be trained to serve?
What should this training entail?
Hope
Benne: Language training would be the most fruitful
training for prospective volunteers. Knowing Vietnamese opened up the primary
avenues of communication for those of us in IVS. We were so fortunate to learn
Vietnamese. It is a magnificent language, full of humor, polite forms, and
poetic formulations.
DCVOnline: Thank you for sharing your Vietnam experiences and memories with
DCVOnline readers.
No comments:
Post a Comment