Phạm Đình Trọng
Posted by adminbasam on
13/10/2015
Bài thơ đại ngôn, sáo ngữ tầm thường Tổ Quốc Gọi Tên
bỗng trở nên nổi lềnh bềnh như phao bởi đề tài biển đảo của bài thơ là đề tài
đang được bộ máy tuyên truyền tập trung khai thác.
Không dám làm phật lòng nước cộng sản đàn anh Tàu
Công nên “dân chài bám biển, quân đội bám bờ”. Đẩy dân thuyền gỗ, tay không ra
bám biển, đương đầu với pháo hạm của kẻ cướp Tàu Cộng hung hãn. Giặc Tàu Cộng cứ
mặc sức bắn giết, bắt bớ, đánh đập, cướp bóc tài sản, đòi tiền chuộc mạng sống
của người dân Việt khốn khổ. Còn quân đội cứ án binh bất động trong bờ. Sợ làm
phật lòng nước cộng sản đàn anh đến mức kẻ đã bắn giết người dân Việt Nam làm
ăn trên biển của ông cha, của lịch sử Việt Nam, kẻ đã bắn giết người lính Việt
Nam , cướp biển, cướp đảo Việt Nam nhưng cả hệ thống truyền thông Việt Nam
không dám chỉ mặt vạch tên kẻ cướp mà chỉ gọi một cách dửng dưng, mơ hồ, vô cảm:
Nước lạ! Tàu lạ! Kẻ lạ!
Nhưng để yên lòng dân thì phải tỏ ý chí quyết bảo vệ
độc lập toàn vẹn lãnh thổ và chỉ bảo vệ bằng ngôn từ, bằng tuyên truyền. Ngôn từ
hùng hồn, đao to búa lớn của Tổ Quốc Gọi Tên rất phù hợp, rất cần thiết với
tuyên truyền lúc này. Tổ Quốc Gọi Tên in sách. Tổ Quốc Gọi Tên phổ nhạc tấu lên
rộn rã, thống thiết trong các chương trình ca nhạc.
Tổ Quốc Gọi Tên càng ồn ào, om sòm hơn khi có cuộc
tranh chấp bản quyền giữa một cựu chiến binh dân thường, tỉnh lẻ, thấp cổ bé họng
với một người đàn bà có danh có phận, có thế có lực, có vây có cánh, lại có cả
bộ máy tuyên truyền chính thống, khổng lồ hỗ trợ, hậu thuẫn. Một cuộc tranh chấp
quá bất cân xứng mà phần hơn, phần ưu thế, phần áp đảo nghiêng hẳn về phía người
đàn bà nhiều thần thế, đa ngôn, mạnh miệng.
Cuộc tranh chấp chủ quyền bài thơ đang nghiêng hẳn về
phía người đàn bà, nghiêng hẳn về phần âm tính. Nhưng tôi lại thấy bài thơ đầy
dương khí, đầy cốt cách đàn ông.
Xin hãy đọc lại bài thơ :
TỔ
QUỐC GỌI TÊN
Đêm qua tôi nghe Tổ quốc gọi tên mình
Bằng tiếng sóng Trường Sa, Hoàng Sa dội vào ghềnh đá
Tiếng Tổ quốc vọng về từ biển cả
Nơi bão tố dập dồn, chăng lưới, bủa vây
Tổ quốc của tôi, Tổ quốc của tôi
Bốn nghìn năm chưa bao giờ ngơi nghỉ
Thắp lên ngọn đuốc Hòa bình, bao người đã ngã
Máu của người nhuộm mặn sóng biển Đông
Ngày hôm nay kẻ lạ mặt rập rình
Chúng ngang nhiên chia cắt tôi và Tổ quốc
Chúng dẫm đạp lên dáng hình đất nước
Một tấc biển cắt rời, vạn tấc đất đớn đau
Sóng chẳng còn bình yên dẫn lối những con tàu
Sóng quặn đỏ máu những người đã mất
Sóng cuồn cuộn từ Nam chí Bắc
Chín mươi triệu môi người thao thức tiếng “Việt Nam”
Chín mươi triệu người lấy thân mình chở che Tổ quốc
linh thiêng
Để giấc ngủ trẻ thơ bình yên trong bão tố
Ngọn đuốc Hòa bình trên tay rực lửa
Tôi lắng nghe
Tổ quốc
gọi tên mình
1. CẢM
HỨNG NAM NHI
“Tổ quốc gọi tên” là tâm thế, là cảm hứng của đấng
nam nhi, không thể là tâm thế, là cảm hứng của nữ nhi thường tình.
Tâm thế, cảm hứng, sĩ khí của kẻ làm trai là:
Làm trai cho đáng
nên trai
Phú Xuân cũng trải,
Đồng Nai cũng từng. (Ca dao)
Và:
Làm trai cho đáng
nên trai
Xuống Đông, Đông
tĩnh. Lên Đoài, Đoài yên. (Ca dao)
Tâm thế, cảm hứng của kẻ làm trai là hướng ngoại, hướng
tới lí tưởng lớn lao, cao cả: Tổ quốc, Nhân dân. Kẻ làm trai có lí tưởng nào
cũng cần thể hiện mình, xác định sự có mặt trong cuộc đời bằng trách nhiệm.
Trách nhiệm với cuộc đời, với non sông đất nước. “Quốc gia hưng vong, thất phu
hữu trách” là vậy.
Còn tâm thế, cảm hứng của người đàn bà là:
Có con chăm chút
cho con
Có chồng gánh vác
giang san nhà chồng. (Ca dao)
Tâm tính trời phú cho người đàn bà là hướng nội, hướng
vào thân phận cá thể bé mọn, hướng vào gia đình riêng tư. Nếu người đàn ông có
lí tưởng luôn ý thức về trách nhiệm với đất nước, với nhân dân thì người đàn bà
thảo hiền luôn canh cánh với bổn phận trong gia đình. Bổn phận con ngoan. Bổn
phận vợ đảm. Bổn phận dâu thảo. Bổn phận mẹ hiền.
Giặc cướp nước rình rập ở biên cương, ở cửa biển, vận
mệnh đất nước bị đe dọa thì người đàn bà trước tiên nghĩ đến sự an nguy của gia
đình, sự li tán của vợ chồng, sự sống chết của người đàn ông trong gia đình phải
ra trận tiền.
Tâm thế, cảm hứng đó ở người đàn bà dân dã được ca
dao ghi nhận:
Trời ơi sinh giặc
làm chi
Cho chồng tôi phải
ra đi chiến trường
Còn người đàn bà quyền quí, có học, có chữ thì tự họ
ghi lại tâm thế đó thành văn chương và trở thành áng văn bất hủ của văn chương
Việt Nam:
Thuở trời đất nổi
cơn gió bụi
Khách má hồng nhiền
nỗi truân chuyên.
(Đoàn Thị Điểm. Chinh Phụ Ngâm)
Phong trào “Thanh niên ba sẵn sàng, phụ nữ ba đảm
đang” được phát động và hưởng ứng rộng rãi, có hiệu quả trong suốt thời chiến
tranh kéo dài vừa qua chính là từ tâm thế giới tính này. Đất nước đang cơn binh
lửa, thanh niên sẵn sàng lên đường ra mặt trận theo tiếng gọi của Tổ quốc, để lại
việc của người đàn ông trong gia đình cho người đàn bà ở phía sau đảm đang gánh
vác.
Trong khi người đàn ông có lí tưởng luôn có ý thức về
trách nhiệm với cái chung, hướng ra xã hội thì người đàn bà có giáo dục cứ thường
trực lo lắng về bổn phận với gia đình riêng. Tâm thế của họ, vui buồn của họ là
soi vào lòng mình và soi vào gia đình mình. Vì thế, “Tổ quốc gọi tên” là tư thế,
là tâm thức, là cảm hứng chỉ có ở đàn ông. Đàn bà không thể có cảm hứng “Tổ
quốc gọi tên”.
2.
NGÔN TỪ SÁO RỖNG, KHOA TRƯƠNG
Ngôn ngữ Tổ Quốc Gọi Tên chỉ là thứ ngôn ngữ chính
trị, tuyên huấn, là vốn từ, cách tư duy của một người lính, một thanh niên sống
trong hệ thống tuyên truyền giáo dục cộng sản, không phải là ngôn ngữ văn
chương, càng không phải ngôn ngữ nghệ thuật.
Từ ngữ đao to búa lớn của Tổ Quốc Gọi Tên quá dễ
dãi, hời hợt, và trống rỗng, đọc lên cứ thấy loảng xoảng của chiếc thùng rỗng
đang bị đập mạnh hết cỡ. Hình ảnh bão tố mòn cũ sử dụng một lần đã là sự lười
biếng, dễ dãi trong tư duy sáng tạo, vậy mà Tổ Quốc Gọi Tên cứ lặp đi lặp lại
thứ bão tố cải lương đó. Vừa mới mang bão tố ra làm nền cho người lớn diễn tích
anh hùng “Nơi bão tố dập dồn, chăng lưới, bủa vây”, lại mang bão tố ra để trẻ
thơ cũng trở thành diễn viên cải lương ngủ trong bão tố cho thêm kịch tính, gay
cấn “Để giấc ngủ trẻ thơ bình yên trong bão tố”.
Bão tố cải lương đã thừa thãi, lại thừa thãi cả máu
nhân tạo đổ tùm lum trong Tổ Quốc Gọi Tên
Máu của người nhuộm mặn sóng biển đông
. . .
Sóng quặn đỏ máu những người đã mất
Máu người không phải nước lã. Máu của những người
ngã xuống cho đất nước càng linh thiêng. Nhưng không phải cứ mang dòng máu
thiêng đó ra là gây được nỗi xót xa, xúc động, là tạo được không khí bi tráng lịch
sử. Giữa mớ ngôn từ khoa trương, lên gân, sáo rỗng, trong cái tình cảm hời hợt,
thiếu trung thực, coi kẻ cướp bắn giết đồng bào chiến sĩ Việt Nam, cướp biển cướp
đảo Việt Nam đã nhẵn mặt nhẵn tên từ trong lịch sử chỉ là “kẻ lạ mặt” vu vơ thì
dòng máu kia cũng chỉ là máu đạo cụ, máu giả, tạo ra bởi phẩm màu cho xuất diễn
mà thôi!
Không phải là nhà thơ chuyên nghiệp, tính nghiệp dư
của người viết Tổ Quốc Gọi Tên còn nhận ra ở sự thiếu tinh tế trong sử dụng
ngôn từ. Nhuộm phải đi với màu sắc. Nghiệp dư, thiếu tinh tế nên mới viết “Máu
của người nhuộm mặn sóng biển đông”. “Mặn sóng biển đông” thì phải thay động từ
“nhuộm” bằng động từ “pha”: Máu của người pha mặn sóng biển đông.
Ngôn ngữ lên gân, đại ngôn, khoa trương cũng rất đàn
ông, một người đàn ông quen sống trong môi trường chính trị, môi trường tuyên
huấn.
Cảm hứng của đấng nam nhi và ngôn ngữ đao to búa lớn
của kẻ mày râu, hai điều lồ lộ trong Tổ Quốc Gọi Tên đã khẳng định rằng Tổ Quốc
Gọi Tên không thể là sản phẩm của nữ nhi
3.
CHỈ CÓ GIÁ TRỊ TUYÊN TRUYỀN CHỐC LÁT
Từ văn bản, từ hiện vật ngôn từ bài thơ chứng minh rằng
Tổ Quốc Gọi Tên là sản phẩm của đấng nam nhi, nhưng là đấng nam nhi nghiệp dư
văn chương. Tổ Quốc Gọi Tên chỉ có giá trị tuyên truyền nhất thời, hoàn toàn
không có giá trị nghệ thuật.
Không có giá trị nghệ thuật thì tranh chấp làm chi hỡi
đấng nam nhi!
No comments:
Post a Comment