RFI
ĐIỂM BÁO :
Thụy My - RFI
Đăng ngày 05-08-2015
Vườn rau mọc lên
bên cạnh các tòa nhà mới xây không người mua ở Côn Minh, Vân Nam. Ảnh chụp ngày
05/08/2015. REUTERS/Wong Campion
Liên
quan đến châu Á, nhật báo Le Monde trong bài viết mang tựa đề « Thế giới
trước mối nguy Trung Quốc » nhận định việc nền kinh tế khổng lồ châu Á
bị chựng lại sẽ còn kéo dài, và những nước bị ảnh hưởng nhiều nhất là các quốc
gia xuất khẩu nguyên vật liệu.
Một sự sụp đổ gây choáng váng. Trong tháng Bảy, các
cổ phiếu Trung Quốc bị sụt giá mạnh nhất kể từ tháng 8/2009. Chỉ số thị trường
chứng khoán Thượng Hải bị giảm đến 15%, mặc cho sự can thiệp liên tục của Nhà
nước để cố trấn an. Và theo các nhà kinh tế, xu hướng này còn tiếp tục trong
tháng Tám. Thị trường chứng khoán Thượng Hải và Thâm Quyến thụt lùi vào thứ Hai
đầu tuần này, lần lượt là 1,11% và 2,72%.
Cổ phiếu sụt giá chỉ là một trong những dấu hiệu cho
thấy kinh tế Trung Quốc đang chậm lại. Patrick Artus, kinh tế gia trưởng của
Natixis giải thích : « Bắc Kinh run sợ vì các biện pháp để tái thúc đẩy
tăng trưởng cho đến nay không còn hữu hiệu nữa ».
Về mặt chính thức, tổng sản phẩm nội địa (GDP) Trung
Quốc tăng, ở mức 7,5% trong quý II. Nhưng các chuyên gia cho rằng mức tăng này
không vượt quá từ 4 đến 5%. Adam Slater thuộc Oxford Economics dự báo : «
Tăng trưởng chỉ vào khoảng 5% trong những năm tới, kém xa mức 10% trước khủng
hoảng ». Đối với các nhà phân tích của Natixis, trong thập niên tới tăng
trưởng Trung Quốc sẽ sụt xuống còn 3%.
Theo chỉ số PMI do cơ quan Markit công bố hôm 3/8, sản
xuất công nghiệp Trung Quốc trong tháng Bảy đạt mức thấp nhất kể từ hai năm
qua.
Lý do của tình trạng tăng trưởng chậm lại, trước hết
là cơ cấu. Ông Jean-Joseph Boillot, chuyên gia về Trung Quốc và là cố vấn của
câu lạc bộ Cepii giải thích : « Tăng trưởng mạnh vào đầu thập niên liên
quan đến hiệu quả về dân số ». Đi lên cho đến nay, nhờ xuất khẩu và đầu tư,
nền kinh tế Trung Quốc đang hướng về một mô hình khác cân bằng hơn, dựa trên
tiêu dùng. Và điều này lại diễn ra lúc kho lao động của Trung Quốc bị thiếu hụt,
do hiện tượng lão hóa dân số. Lương bình quân tăng (11,6% một năm trong 10 năm
qua) cũng làm giảm tính cạnh tranh trong xuất khẩu.
« Trước sự thay đổi chủ chốt này, việc kinh tế Trung
Quốc khựng lại là điều không thể tránh khỏi ». William de Vijlder và Christine Peltier của ngân hàng BNP Paribas kết
luận.
Hậu
quả : Các quốc gia xuất khẩu nguyên liệu thiệt thòi nhất
Hậu quả đối với nền kinh tế thế giới sẽ như thế nào
? Hai nhà kinh tế trên cho rằng : « Khó thể hiểu thấu được, điều này còn tùy
thuộc vào các điều kiện đi kèm quá trình hạ cánh này ». Nếu Trung Quốc suy sụp
nặng nề cùng với bùng nổ bong bóng nợ nần của các doanh nghiệp, thương mại thế
giới sẽ khựng lại hẳn, đầu tư giảm. Còn ngược lại, nếu quá trình này diễn ra từ
từ, được điều khiển đúng đắn, thì tác động sẽ nhẹ nhàng hơn.
Ảnh hưởng đối với các nước sẽ không giống nhau. Bị
thiệt thòi nhiều nhất là các quốc gia cung cấp nguyên vật liệu. Để phục vụ nhu
cầu cơ sở hạ tầng khổng lồ, Bắc Kinh đã nuốt chửng đến 51% lượng tiêu thụ trên
thế giới về than đá, 50% lượng đồng và 11% nhu cầu dầu lửa toàn cầu trong những
năm gần đây. Brazil là nước bị ảnh hưởng nhiều nhất, rồi đến Úc và các nước
vùng Vịnh.
Kịch bản tệ hại nhất là khi sự suy sụp của kinh tế
Trung Quốc đi kèm với việc Mỹ tăng lãi suất – có thể diễn ra vào cuối năm nay,
khiến vốn đầu tư chảy về New York và Washington. Ông Boillot nhấn mạnh : «
Ngược lại, việc giá nguyên vật liệu giảm làm các nước tiêu thụ hưởng lợi, tức hầu
hết các quốc gia công nghiệp hóa ».
Điều còn lại là việc giảm giá này có bù đắp được xuất
khẩu sang Trung Quốc giảm hay không. Câu trả lời là « không » đối
với các đối tác châu Á gần gũi nhất của Bắc Kinh : Hàn Quốc, Singapore, New
Zealand, mà giá trị xuất khẩu trên GDP lần lượt là 10,1%, 16,7% và 4,2%. Khu vực
đồng euro và Hoa Kỳ ít bị thiệt hại nhất, vì xuất khẩu sang Bắc Kinh chỉ chiếm
1,5% và 0,7% GDP.
Theo Insee, nếu nhu cầu nội địa Trung Quốc giảm 3 điểm
mỗi năm tương đương với Pháp mất đi tối đa 0,1 điểm GDP. Tương tự đối với Đức,
cho dù Trung Quốc là thị trường xuất khẩu đứng thứ ba của nước này.
Chuyển
dịch sản xuất sang các nước lao động rẻ hơn
Sản xuất công nghiệp giảm, nhưng tiêu thụ ở Trung Quốc
vẫn duy trì nhờ tiền lương tăng. Như vậy các tập đoàn nước ngoài trông cậy vào
nhu cầu các hộ gia đình Trung Quốc vẫn ít bị thiệt hại, tuy theo ông
Slater, « với điều kiện Nhà nước chuyển đổi được mô hình mà không bị trắc
trở ». Chẳng hạn xây dựng mạng lưới phúc lợi xã hội, để người dân chi
tiêu thay vì tiết kiệm.
Kinh tế Trung Quốc chậm lại cũng sẽ làm thay đổi
phân bổ sản xuất trên thế giới. Agatha Kratz, chuyên gia về Trung Quốc của cơ
quan tư vấn European Council on Foreign Relations nhấn mạnh: « Đã bắt đầu
rồi ! Lương tăng khiến các nhà máy Trung Quốc ít tính cạnh tranh hơn đối với
các sản phẩm ít giá trị gia tăng ».
Một phần năng lực sản xuất sẽ chuyển dịch sang các
nước giá lao động rẻ. Năm 2010, 40% giày hiệu Nike được làm tại Trung Quốc, còn
tại Việt Nam chỉ có 13% nhưng đến năm 2013, tỉ lệ sản xuất tại Trung Quốc giảm
còn 30% còn Việt Nam tăng vọt lên 42%. Khuynh hướng này sẽ tiếp tục, có thể có
lợi cho Trung Âu và Đông Âu.
Cùng lúc đó, các nhà máy Trung Quốc không còn muốn
chỉ là một mắt xích trong dây chuyền, phải tiếp tục nâng chất. Như vậy có nghĩa
Bắc Kinh sẽ ngưng đầu tư ồ ạt ra nước ngoài ? Theo Le Monde, điều đó chưa hẳn.
Bởi vì nếu ban đầu Trung Quốc đầu tư để đảm bảo nguồn cung nguyên vật liệu, thì
nay nhằm đưa các nhãn hiệu của mình chiếm lĩnh những thị trường mới và đa dạng
hóa đầu tư.
Xe
hơi hạng sang Đức, nạn nhân của kinh tế Trung Quốc
« Kinh tế Trung Quốc xuống dốc đe dọa xe hơi hạng
sang của Đức », đó là một hậu quả khác, theo Le Monde. Lợi nhuận của
hãng BMW giảm hẳn, còn Audi lần đầu tiên phải giảm chỉ tiêu đối với thị trường
này.
Tập đoàn xe sang hàng đầu thế giới BMW tuy doanh số
vẫn tăng 15% nhờ đồng euro giảm giá, nhưng lợi nhuận quý I lại giảm 3,6% so với
cùng kỳ năm ngoái. BMW bắt đầu bị ảnh hưởng trước tình trạng kinh tế Trung Quốc
chậm lại, và cuộc chiến chống tham nhũng của Bắc Kinh – mà đối tượng thấy rõ là
các siêu xe. Trên đường phố, ít thấy nhưng chiếc xe hơi sang trọng hay xe địa
hình, là những kiểu xe lời nhiều nhất, mà thay vào đó là những loại xe có giá rẻ
hơn.
Tập đoàn Audi, mà thị trường Trung Quốc chiếm một phần
ba doanh số, lại còn khó khăn hơn, và năm nay không thể bán ra 600.000 chiếc xe
tại đây như dự kiến. Ngược lại, nhãn hiệu Mercedes lại ăn nên làm ra. Tuy
nhiên, đó là do Mercedes chỉ vừa mới ngoi lên, sau nhiều năm xung đột với các
nhà phân phối địa phương.
Châu
Á không hề rút ra bài học từ Hiroshima
Dành trang nhất cho chủ đề « Hiroshima : Nếu nhân loại
quên lãng thì sẽ suy vong » nhân 70 năm ngày Mỹ thả hai quả bom nguyên tử xuống
nước Nhật kết thúc Đệ nhị Thế chiến, nhật báo Libération nhận xét, ngược với
Nga và Mỹ, các cường quốc châu Á hiện nay lại tìm cách tăng cường năng lực vũ
khí hạt nhân.
Bên cạnh lời chứng của ba nhân chứng người Nhật, hãy
còn là trẻ con lúc quả bom nguyên tử Mỹ được thả xuống Hiroshima, thông tín
viên của Libération tại Vienna và Kyoto cho biết, nếu Matxcơva và Washington giảm
số vũ khí hạt nhân từ hai mươi năm qua, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Ấn Độ và
Pakistan lại sở hữu gần 400 đầu đạn nguyên tử, so với tổng số 15.850 đầu đạn
trên toàn thế giới.
Chuyên gia Bruno Tertrais cho biết, Bình Nhưỡng đã
chế tạo được 6 đến 8 đầu đạn nguyên tử, và có thể được Iran cố vấn kỹ thuật
phóng hỏa tiễn. Nhà sử học Andrei Lankov, trường đại học Kookmin ở Seoul nhận
xét, Bắc Triều Tiên đã rút ra bài học từ trường hợp Kadhafi : không bao giờ nên
tin tưởng phương Tây, không có lợi lộc gì trong việc thương lượng giải trừ hạt
nhân, nếu không muốn nói là tự sát.
Riêng Bắc Kinh nắm trong tay 260 đầu đạn, nhưng
không ai biết được hiện số lượng này có tăng lên hay không và lô-gic chiến lược
như thế nào. Các chuyên gia cho rằng trong số các cường quốc nguyên tử, Trung
Quốc là thiếu minh bạch nhất.
Bắc Kinh bán các nhà máy điện nguyên tử cho Pakistan
trong các điều kiện không rõ ràng, có nguy cơ phổ biến vũ khí hạt nhân. Ấn Độ
thì cố chạy đua với người láng giềng Hồi giáo, với số đầu đạn xấp xỉ 90-100,
trong khi Pakistan sở hữu khoảng 100-120. Chỉ duy nhất Miến Điện, đã từ bỏ
chương trình nguyên tử mini của mình sau chuyến viếng thăm lịch sử của Tổng thống
Mỹ Barack Obama năm 2012.
Putin
: « Tiên hạ thủ vi cường » ở Gruzia rồi Crimée
Nhìn sang châu Âu, Libération trong bài xã luận mang
tựa đề « Bảy năm trước, Putin đã làm một cú nổi bật ở Gruzia », nhắc
nhở việc Matxcơva đổ quân sang nước láng giềng, và không hề có ý định tháo bớt
gọng kìm đối với quốc gia này.
Thứ Bảy tới là đúng bảy năm, ngày Matxcơva can thiệp
quân sự vào Gruzia. Tuy không sáp nhập Nam Ossetia như sau đó đã làm với Crimée,
nhưng Nga đã đặt chân vào lãnh thổ láng giềng, để rồi lưu lại đến nay.
Lần đầu tiên kể từ khi quân Liên Xô vội vã rút khỏi
Afghanistan, cũng như rút quân khỏi các nước anh em, ngày 08/08/2008 Matxcơva
cho xuất quân khỏi biên giới. Đó là những đội quân được huấn luyện thuần thục,
các đơn vị đặc biệt vũ trang đầy đủ, kỷ luật tốt. Chỉ trong vòng năm ngày, quân
Nga đã cắt Gruzia làm đôi, đe dọa thủ đô Tbilissi.
Quá bất ngờ, châu Âu không biết phản ứng thế nào trước
một Putin quyết tâm và luôn « tiên hạ thủ vi cường ». Một số còn nghe theo luận
điệu của Putin, rằng Tổng thống Gruzia Mikhail Saakachvili đã khiến gấu Nga tức
giận, rằng ông này quá thân Mỹ, quá dân tộc chủ nghĩa. Số khác chấp nhận ý tưởng
Matxcơva có thể lãnh đạo « sân sau » của mình.
Mãi đến năm 2012, Putin mới tiết lộ đã chuẩn bị tấn
công quân sự vào Gruzia từ rất lâu. Còn đối với Crimée, Tổng thống Nga chỉ vài
tháng sau là đã nhìn nhận rằng tất cả những người lính không quân hàm quân hiệu
xuất hiện tại bán đảo thuộc Ukraina, là đội quân tiền phương của Nga.
Tuy Tổng thống Pháp thời đó là Nicolas Sarkozy đã
thành công trong nỗ lực ngoại giao, đạt được ngưng bắn dù quân Nga đang đe dọa
thủ đô Tbilissi; nhưng phía Nga khi ký không hề ghi câu tôn trọng toàn vẹn lãnh
thổ Gruzia. Việc Nga công nhận Nam Ossetia hai tuần sau đó (và Abkhazia, lãnh
thổ tự trị khác của Gruzia) đã gióng lên hồi chuông báo tử cho mọi thương lượng
tương lai về hai lãnh thổ này.
Đàn
ông giảm thọ nếu có con sớm
Trên lãnh vực xã hội, Le Figaro dẫn một công trình
nghiên cứu của Phần Lan cho biết, nam giới nếu làm cha trước tuổi 25 có tỉ lệ tử
vong cao hơn hẳn so với những người đàn ông có con trễ.
Theo báo cáo của hai nhà khoa học Elina Einiö và
Jessica Nisén vừa được công bố dưới sự bảo trợ của giáo sư Pekka Martikaine,
trường đại học Helsinki, các thanh niên có con ở độ tuổi 23-24 có nguy cơ tử
vong ở tuổi 50 tăng đến 63%. Khác với các nghiên cứu trước đây, họ so sánh các
anh em trong cùng gia đình trên số liệu của 30.565 người, như vậy giảm thiểu được
ảnh hưởng của di truyền hay môi trường.
Có thể vì do tuổi còn trẻ, nên khi có con những ông
bố trẻ này bị đủ thứ áp lực, từ tâm lý xã hội cho đến kinh tế ; khi đồng thời
phải đóng vai người chồng, người cha và là ông chủ gia đình. Các nhà nghiên cứu
đề nghị hỗ trợ cho những ông bố trẻ tuổi, khi phải đáp ứng những đòi hỏi của cuộc
sống gia đình quá sớm.
No comments:
Post a Comment