20.08.2015
Trong cuộc gặp gỡ với 40 doanh nhân trẻ vào chiều 12
tháng 8 vừa qua, sau khi nghe những lời than thở về những bất cập trong các
chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tại Việt Nam của họ, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đặt
câu hỏi: “Tại sao chúng ta tốt mà vẫn cứ nghèo?” Rồi ông nhấn mạnh:
“Nhất định phải đổi mới mạnh mẽ hơn.”
Trong
câu hỏi của Vũ Đức Đam có một nhận định chính xác: Việt Nam nghèo. Chúng ta không những nghèo hơn các nước phát triển trên thế giới mà còn
nghèo hơn hầu hết các quốc gia trong khu vực. Trong khu vực, chỉ giới hạn trong
khối ASEAN, chúng ta nghèo hơn Singapore, Brunei, Malaysia, Indonesia,
Philippines, Miến Điện và Thái Lan, đã đành. Chúng ta còn có nguy cơ bị hai nước
láng giềng vốn thường bị xem là nghèo hơn và yếu hơn, Campuchia và Lào, qua mặt.
Nhưng
toàn bộ câu hỏi của Vũ Đức Đam, “Tại sao chúng ta tốt mà vẫn cứ nghèo?” lại
sai.
Sai ở
nhiều điểm.
Thứ
nhất, cách đặt vấn đề sai. Chuyện tốt hay xấu không có
quan hệ gì đến chuyện giàu nghèo. Để giàu, người ta cần óc sáng kiến, năng lực
lao động, sự cần cù cùng với một số điều kiện thuận lợi và may mắn nữa chứ
không dính líu gì đến tính cách hay đạo đức. Trên thế giới, không ai đặt vấn đề
như vậy với các tỉ phú hay với các cường quốc kinh tế.
Thứ
hai, sai ở mệnh đề “chúng ta tốt”. Cái gọi “chúng ta” ở đây là ai? Là những người tham dự cuộc hội thảo ư? Căn cứ vào đâu để khẳng định họ
tốt? Rộng hơn, “chúng ta” đây là người Việt Nam nói chung chăng? Lại càng mơ hồ.
Không có dân tộc nào là tốt cũng như không có dân tộc nào là xấu. Dân tộc nào
cũng bao gồm những người tốt và những kẻ xấu. Một sự khái quát hoá, cho dân tộc
này tốt hơn những dân tộc kia không những sai lầm về logic và thực tế mà còn dễ
có nguy cơ dẫn đến những thái độ kỳ thị chủng tộc, điều mà giới học thuật Tây
phương cho là cấm kỵ.
“Chúng
ta” ở đây là đảng Cộng sản hiện đang cầm quyền chăng? Khẳng định như thế không những sai mà còn là sai lầm một cách lố bịch. Từ
sau sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản tại Liên Xô và Đông Âu, khi những sự tàn
ác của các đảng Cộng sản ở những nơi ấy bị vạch trần, người ta thấy rõ là không
có chế độ cộng sản nào là tốt cả. Tất cả đều giả dối, độc tài và tàn bạo. Số nạn
nhân bị giết chết hoặc đoạ đày cho đến chết dưới tay của Stalin và Mao Trạch
Đông còn nhiều hơn tổng số người bị giết chết dưới tay phát xít Đức trong chiến
tranh thế giới lần thứ hai. Riêng ở Việt Nam, chế độ cộng sản cũng đã gây ra biết
bao nhiêu tang thương, từ các chiến dịch cải cách ruộng đất ở miền Bắc đến các
phong trào đánh tư sản mại bản và xua người dân đi kinh tế mới ở miền Nam, từ
các vụ thảm sát ở Huế trong Tết Mậu thân đến các trại cải tạo sau năm 1975. Đó
là chưa kể đến cuộc chiến tranh kéo dài cả hai mươi năm mà họ gây ra đã khiến
cho ít nhất ba triệu người bị mất mạng ở cả hai miền. Như vậy là tốt ư?
Nếu
cái nghèo của Việt Nam hiện nay không xuất phát từ chuyện tốt hay xấu, nó xuất
phát từ đâu? Câu trả lời, thật ra, với đa số người dân Việt Nam, khá hiển
nhiên: do chế độ Cộng sản. Điều này đúng không những chỉ ở Việt Nam mà còn ở phạm vi toàn thế giới:
Có quốc gia cộng sản nào thực sự giàu có? Rõ nhất là ở những quốc gia bị chia
đôi: Đông Đức nghèo hơn hẳn Tây Đức; Bắc Hàn thua xa Nam Hàn. Riêng tại Việt
Nam, trước năm 1975, điều kiện sinh sống ở miền Nam cũng bỏ xa miền Bắc.
Nhưng
điều gì khiến chế độ Cộng sản làm kiềm hãm sự phát triển đất nước? Có ba lý do chính: các chính
sách sai lầm, tham nhũng và độc tài.
Trước phong trào đổi mới, các chính sách sai lầm
về kinh tế và xã hội, đặc biệt cái gọi là chính sách giá - lương - tiền, đã biến
Việt Nam thành một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới. Lạm phát tăng
cao. Dân chúng bị ngập chìm trong đói khổ, không có đủ cơm ăn; trong nhiều năm
liền, phải ăn bột mì và bo bo do Nga viện trợ. Sau thời đổi mới, được ít nhiều
cởi trói, kinh tế phát triển khá nhanh, nhưng không nhanh đủ để giúp Việt Nam
tiến bộ so với các quốc gia láng giềng. Các đại công ty hay tập đoàn kinh tế quốc
doanh liên tục thua lỗ, có khi bị phá sản, để lại những gánh nợ nặng nề kéo dài
tận đến các thế hệ mai sau. Ngay trong cuộc gặp gỡ với các doanh nhân trẻ ngày
12 tháng 8 vừa qua, trước mặt Vũ Đức Đam, nhiều người cũng lên tiếng phê phán
các chính sách sai lầm của chính phủ khiến công việc làm ăn của họ gặp rất nhiều
khó khăn. Những sự sai lầm trong chính sách này khiến các nỗ lực gọi là đổi mới
tại Việt Nam chỉ là những sự vá víu, lẩn quẩn, từ cái sai này đến cái sai khác
theo kiểu tổng kết của dân gian: “Sửa sai rồi lại sửa sai / Sửa thì cứ sửa, sai
thì cứ sai.”
Nguyên nhân thứ hai làm kiềm hãm sự phát triển kinh
tế tại Việt Nam là tham nhũng. Tham nhũng thể hiện ở hai khía cạnh: Một
là, mọi quyết định về kinh tế đều không xuất phát từ lợi ích chung mà chỉ tập
trung vào quyền lợi của một số cá nhân. Phong trào xây tượng đài hoặc các công
trình kiến trúc ào ạt ở Việt Nam là một ví dụ: Người ta xây dựng như vậy không
phải vì công việc ấy thực sự cần thiết mà chỉ vì, với những công trình xây dựng
ấy, người ta có thể kiếm chác để bỏ tiền vào túi mình. Lớn hơn, chính sách đề
cao vai trò của các công ty quốc doanh mặc dù hiệu quả kinh tế của chúng rất
kém cũng xuất phát từ cùng một lý do: để dễ chia chác quyền lợi. Hai là, với tệ
nạn tham nhũng, người ta khai khống và rút ruột các công trình xây dựng để cuối
cùng, tất cả các công trình xây dựng đều có kết quả cực kém: Nhiều con đường mới
xây xong đã lún; nhiều công trình mới dựng xong đã bị đổ, v.v… Hậu quả của nạn
tham nhũng tràn lan này là cán bộ càng lúc càng giàu trong khi đất nước thì
càng lúc càng nghèo nàn và kiệt quệ.
Nguyên nhân thứ ba và cũng là nguyên nhân quan trọng
nhất là độc tài. Giành độc quyền lãnh đạo, chế độ Cộng sản loại trừ hai
yếu tố quan trọng nhất cho sự phát triển. Một là, loại trừ những trí tuệ và tài
năng không nằm trong hệ thống đảng trị. Hai là, nó cũng loại trừ sự minh bạch
và cùng với nó, sự phản biện của các trí thức độc lập. Hậu quả của cả hai sự loại
trừ này là, một, chính quyền chỉ quy tụ được những kẻ bất tài, hoặc phần lớn là
những kẻ bất tài; và hai là, nó mất khả năng tự điều chỉnh và đổi mới thực sự.
Nói một cách tóm tắt, để trả lời cho câu hỏi của ông
Vũ Đức Đam, “tại sao chúng ta nghèo?”, chúng ta có thể khẳng định dứt khoát:
Chúng ta nghèo, cứ nghèo mãi là vì sự thống trị độc tài và độc đoán của đảng Cộng
sản. Biện pháp khắc phục, do đó, không phải là “đổi mới” mà là dân chủ hoá.
Một bài học hiển nhiên trên thế giới: Không có quốc
gia dân chủ thực sự nào mà nghèo cả.
* Blog của Tiến sĩ
Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng
ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
---------------------------
Tin
liên hệ
No comments:
Post a Comment