Trương
Minh Huy Vũ
Posted on 18/06/2014 by The Observer
Các hành động xác lập chủ quyền phi lý của Trung Quốc
trên biển Đông, đặc biệt qua vụ giàn khoan 981, đã làm cho các nước trong khu vực
quan ngại, kéo theo đó là nhiều tiếng nói yêu cầu sự hiện diện mạnh mẻ hơn của
Mỹ. Tuy vậy, từ năm 2011, khi chính phủ ông Obama công bố chính sách xoay trục
(sau đó là tái cân bằng) luôn có những luồng đánh giá khác nhau. Một mặt, có ý
kiến cho rằng chính sách này đang đi đúng hướng và tạo ra sự đồng thuận lớn với
các nước trong vùng, từ đó tạo điều kiện cho Mỹ tái khẳng định lại vai trò lãnh
đạo của mình tại khu vực Thái Bình Dương. Mặt khác cũng có luồng ý kiến khác
nghi ngờ xem những gì mà Mỹ thể hiện cho đến thời điểm này chỉ qua lời nói. Hoặc
cho dù có Mỹ có hành động, nhưng những hành động đó là chưa đủ mạnh để đối phó
lại tình hình an ninh và cán cân quyền lực đang thay đổi mạnh mẽ. Ý kiến này
càng được nhiều sự ủng hộ hơn khi cùng một lúc khủng hoảng Ukraine xảy ra tại
Châu Âu, và việc Nga “dễ dàng” sáp nhập được Crimea làm cho Mỹ rơi vào tình huống
“lưỡng đầu thọ địch”.
Khi đối chiếu với tình hình biển Đông đang nóng lên
gần đây thì những nghi ngờ đó trở thành những lo ngại cho rằng liệu Việt Nam có
thể hợp tác với Mỹ như một đối trọng với bá quyền của Trung Quốc trên biển. Hai
góc nhìn trên theo NCS Trương Minh Huy Vũ (đại học KHXH&NV Tp
HCM) đều là một sự thậm xưng hơn thực tế. Sự thậm xưng này bắt nguồn từ hệ quả
lâu dài của lối suy nghĩ cạnh tranh chiến lược một mất một còn từ thờichiến
tranh Lạnh: (i) coi liên minh với một nước lớn là cơ sở quyền lực duy nhất của
một quốc gia; (ii) bỏ quên yếu tố về sự phụ thuộc kinh tế giữa các cường quốc
và (iii) từ hai yếu tố trên dẫn đến việc giải quyết vấn đề mang lợi ích chồng
chéo thì giải pháp quân sự không phải là tối ưu. Ngược lại nó chỉ là giải pháp
răn đe, như một đòn bẩy buộc các quốc gia chấp nhận một cuộc chơi nào đó, mà
theo ông Vũ đó là một khu vực biển Đông hòa bình và ổn định được quản lý bằng
luật pháp quốc tế.
Ông
ví von Mỹ đang theo đuổi chiến lược hai trục tại biển Đông. Chiến lược hai trục
đó là gì?
Ông
Trương Minh Huy Vũ: Khái niệm chiến lược hai trục xuất phát từ cuộc
tranh luận lâu dài trong chính sách đối ngoại của Mỹ, qua đó đi tìm sự cân bằng
giữa hai trường phái trong quan hệ quốc tế: chủ nghĩa thể chế quốc tế và chủ
nghĩa sức mạnh hiện thực. Trong nhiều thời điểm, giai đoạn khác nhau, có lúc Mỹ
ưu tiên đại chiến lược này nhưng có lúc lại ưu tiên đại chiến lược kia. Việc sử
dụng song hành hai đại chiến lược thể hiện bản chất lưỡng thểcủa chính sách đối
ngoại Mỹ: vừa là quốc gia mạnh nhất trên thế giới, cũng là quốc gia thúc đẩy và
xây dựng thế giới được cai trị bằng luật lệ. Và sự đụng độ giữa hai trường phái
này đã làm cho chính sách đối ngoại của Mỹ luôn đi dây giữa hai xu hướng vừa muốn
giải quyết các vấn đề mâu thuẫn trong quan hệ quốc tế bằng luật, nhưng cũng vừa
muốn có được những ưu tiên chiến lược dựa trên các cân sức mạnh nghiên về ưu thế
của mình.
Trong việc định hình vai trò của mình tại biển Đông,
thế “lưỡng nan” của Mỹ tập trung vào suy nghĩ lựa chọn giữa ưu tiên về sức mạnh,
hay ưu tiên về luật/thể chế. Ưu tiên luật pháp thì sợ bị xem là con cọp giấy,
nhưng nếu “hùng hổ” về sức mạnh thì hoàn cảnh hiện tại (cả dư luận quốc tế, lẫn
quốc nội không cổ xúy). Vì thế phải đi tìm điểm cân bằng giữa hai đại chiến lược,
mà nếu chuyển tải thành chính sách có thể tạm gọi là giữa thúc đẩy “thể chế
hóa” và tạo thế quân sự để “răn đe giới hạn”.
Tại
sao trong vấn đề biển Đông, Mỹ phải đi tìm sự cân bằng giữa hai trường phái tiếp
cậnnày?
Ông
Trương Minh Huy Vũ: Lý do đơn giản và dễ nhận thấy nhất là Mỹ bị song
trùng về lợi ích tại biển Đông. Một mặt, Mỹ cảm nhận không có lợi ích trực tiếp
về tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, lẫn lãnh hải, trong khi đó Trung Quốc lại là
đối tác lớn về kinh tế, lẫn an ninh-chiến lược. Vì thế trong một thời gian dài,
chính phủ Mỹ đều giữ thái độ trung lập về các tranh chấp chủ quyền, tức là
không đứng về bên nào trong việc phân định lãnh thổ với nhau. Nhưng mặt khác, sự
trỗi dậy của Trung Quốc đã thách thức Mỹ trong nhiều lĩnh vực. Trong đó, hai vấn
đề lớn nhất làquyền tự do hàng hải, một trong những nguyên tắc đã được chính phủ
Mỹ định nghĩa là “lợi ích quốc gia” tại biển Đông. Nếu Trung Quốc có những tác
động tiêu cực đến tự do hàng hải của khu vực thì Washington sẽ phản ứng để chống
lại.
Bên cạnh đó, sự xét quyết và táo bạo hơn trong chính
sách đối ngoại của Bắc Kinhtạo thành một đe dọa an ninh cho hệ thống đồng minh
của Mỹ. Ở biển Hoa Đông, Trung Quốc và Nhật đụng độ quyết liệt xung quanh quần
đảo Senkaku; ở biển Đông, Trung Quốc đụng độ Philippines ở bãi cạn Scarborough
và nhiều điểm nóng khác. Nếu xem việc Trung Quốc tuyên bố vùng nhận dạng phòng
không(ADIZ) tại biển Hoa Đông hoặc đụng độ Philippines ở Scarborough là một
phép thử của Bắc Kinh trực tiếp vào hệ thống đồng minh của Mỹ thì việc hai phép
thử này thành công sẽ làm lung lay hai mắt xích quan trọng nhất, một ở Đông Bắc
Á một ở Đông Nam Á. Chính sự song hành hai mục tiêu cùng lúc làm cho bất kì
chính phủ nào của Mỹ rất khó khăn trong việc lựa chọn một chính sách “xuyên xuốt
và rõ ràng”. Ý tôi muốn nhấn mạnh ở đây trong cả lời nói lẫn hành động.
Vậy
thì trước hai thách thức đó, Mỹ sẽ can thiệp để ngăn chặn sự lấn lước của Trung
Quốc tại biển Đông, cụ thể là vụ HD 981?
Ông
Trương Minh Huy Vũ: Cần rõ ràng rằng, dầu khí và tạo nên xung đột
không phải là mục tiêu tối thượng của giàn khoang HD981. Cái Trung Quốc muốn là
hợp thức hóa chủ quyền thực địa và tạo phép thử cho các nổ lực của các nước
Đông Nam Á nói chung, và Việt Nam nói riêng tìm kiếm một chính sách đối ngoại
cân bằng và độc lập hơn. Trong một thế giằng co trên biển như vậy, kẻ mạnh thì
thiếu lý nhưng ưu thế thực địa, ngược lại người chính nghĩa, có lý lại bị thua
thiệt về chủ quyền thực tế. Về vụ giàn khoan Trung Quốc đã bị thế giới lên án
là bá quyền, các nước ASEAN nghi ngờ chính sách trỗi dậy hòa bình, và tạo thêm
nhiều “cơ hội” cho Mỹ và các đồng minh thúc đẩy chính sách “tái cân bằng chiến
lược”. Lời nói có biến thành hành động hay không, và tốc độ có đủ nhanh để đối
phó với vụ giàn khoan hay không lại là câu hỏi khác.
Trong bối cảnh như vậy, cần có một cái nhìn sát với
thực tế. Nhìn lại nhiều thập niên qua, một trong những điều kiện giúp Mỹ giữ được
vai trò này là nhờ sự thống trị của hải quân Mỹ trên các vùng biển Tây Thái
Bình Dương, trong đó có biển Đông. Tuy nhiên, hiện nay cái khó của người Mỹ là
Trung Quốc đang tận dụng điểm yếu của Mỹ bằng cách sử dụng yêu sách lãnh thổ, tạo
ra tranh chấp lãnh thổ – yếu tố mà xét về nguyên tắc Mỹ phải đứng trung lập giữa
các nước.Thế nên, ưu tiên của Mỹ tại biển Đông là nhất quyết bảo vệ tự do hàng
hải tại khu vực và trước hết bằng công cụ pháp lý, quá đó có thể có thể xây dựng
một trật tự chung cho các nước xung đột mà không mang tiếng “can dự chuyện nội
bộ bất hợp pháp”. Trong bối cảnh một quốc gia muốn thúc đẩy trật tự bằng luật
thì việc thúc đẩy thông qua UNCLOS phải là một ưu tiên như lời của Tổng Thống
Obama trong bài phát biểu mới đây tại lễ tốt nghiệp của Học viện Quân sự Hoa Kỳ
ở West Point: “Nước Mỹ cũng không thể giải quyết vấn đề xung đột ở biển Đông nếu
Thượng viện Mỹ không phê chuẩn Công ước về Luật Biển (UNCLOS)”. Đó không những
là cơ sở pháp lý, đạo đức như đã trình bày ở trên mà còn là “vũ khí chiến lược”
của Mỹ tại biển Đông.
Xét trên mặt thực địa, Mỹ sẽ không có thêm nhiều
hành động can thiệpquân sự trực tiếp chừng nào tình hình biển Đông còn chưa leo
thang đến mức xung đột vũ trang. Còn nhớ trường hợp đụng chạm tại bãi đá
Scarborough với Philippines, một đồng minh của Mỹ tại Đông Nam Á năm 2012. Việc
Trung Quốc sử dụng những tàu cá với chiêu bài dân sự đã hạn chế Mỹ tham gia trực
tiếp bảo vệ lợi ích cho Philippines. Nếu Bắc Kinh cứ tiếp tục sử dụng chiêu thức
tương tự tại bãi cạn Scarborough, Washington sẽ không điểu động hải quânkhi các
tàu của Trung Quốc được gắn mác dân sự. Quan trọng hơn, trong cả hai vụ
Scarborough (và cả giàn khoan 981) cái Mỹ muốn đứng trên lợi ích của nước họ là
một khu vực biển Đông hòa bình và ổn định được quản lý bằng luật pháp quốc tế
chứ không ưu tiên hỗ trợ hay ủng hộ nước nào (dù có là đồng minh) bằng các biện
pháp quân sự.
Theo
phân tích của ông, có vẻ như giàn khoang HD 981 sẽ vẫn nằm đó, và Mỹ sẽ không
có một hành động gì khác hơn những gì đã làm đến nay. Vậy Việt Nam có thể tận dụng
hai đại chiến lược của Mỹ tại biển Đông như thế nào, thưa ông?
Ông
Trương Minh Huy Vũ: Cả hai chiến lược của Mỹ đều nhắm tới một mục tiêu
là quản lý các vụ việc bằng luật hay thúc đẩy quá trình này giữa các nước liên
quan đến tranh chấp. Nói rõ hơn ngay cả khi Mỹ sử dựng biện pháp “răn đe tối
thiểu” thì cũng nhằm mục đích (i) tăng cường khả năng tự vệ cho các nước Đông
Nam Á trước sức mạnh trên biển của Trung Quốc và (ii) qua các sức ép về “quân sự”
buộc Trung Quốc phải quay trở lại cuộc chơi đàm phán bằng luật và qua con đường
thể chế quốc tế. Nếu Việt Nam thúc đẩy việc sử dụng luật quốc tế, chẳng hạn như
cùng các nước ASEAN đẩy nhanh đàm phán COC với Trung Quốc hay sử dụng các kênh
pháp lý để kiện những hành động hiếu chiến của Bắc Kinh, Mỹ sẽ ủng hộ Việt Nam
bởi điều này hoàn toàn tương đồng với lợi ích của Mỹ. Điều này cũng đã được thể
hiện qua các phát biểu của lãnh đạo hành pháp Mỹ những ngày vừa qua.
Xét trên phương diện hợp tác quốc phòng, Mỹ có thể hỗ
trợ các nước trong khu vực thông qua một hình thức khác, đó là hỗ trợ tuần tra
và hợp tác an ninh hàng hải, trao đổi thông tin. Theo đó, các giải pháp quân sự
vẫn khả thi theo hướng Mỹ sẽ không đối đầu trực tiếp với Trung Quốc, nhưng sẽ
thông qua hệ thống đồng minh của mình, đặc biệt là hai nước Nhật và
Philippines. Mỹ sẽ đứng giữ vai trò “hậu phương” với khái niệm đã từng nêu ra
trong cuộc chiến Libya là “lãnh đạo từ phía sau”. Mỹ cũng có thể sẽ triển khai
hợp tác quân sự với các nước để ngăn ngừa mối đe dọa về an ninh trên biển. Qúa
trình này sẽ được thúc đẩy với tốc độ nhanh hơn trong một tương lai gần. Hợp
tác theo dạng này cũng hoàn toàn không đi ngược lại nguyên tác ba không của Việt
Nam đồng thời kiềm chế được các bước đi trong tương lai của Trung Quốc mà không
trực tiếp làm căng thẳng bằng một chính sác đối đầu.
Ngoài ra, thúc đẩy thành lập liên minh pháp lý gồm
Nhật – Việt Nam – Philippines, những quốc gia có tranh chấp với Trung Quốc hiện
nay cũng nên là một giải pháp cần đặt lên bàn cân. Bài bình luận của cựu Ngoại
trưởng Nhật trên tờ The New York Times năm 2012 lần đầu tiên nói về khả
năng Nhật Bản sẵn sàng cùng Trung Quốc đưa vụ tranh chấp đảo Senkaku ra
Tòa án công lý quốc tế. Đây là một điểm nhấn rất quan trọng không phải chỉ thể
hiện rằng xu thế “ưu tiên luật pháp” đang được số đông thúc đẩy, mà còn cho thấy
“chính sách làm gương” của các cường quốc, đầu tiên là Nhật (một nước có ưu thế
thực địa khi đang kiểm soát thực tế tại quần đảo Senkaku).
Như vậy, việc sử dụng luật trong vấn đề biển Đông
(qua liên minh pháp lý) và đẩy mạnh hợp tác an ninh biển và hàng hảilà cơ sởtiếp
cận khả dĩ cho Việt Nam trong lúc thời điểm này. Đó vừa là cách hạn chế thế yếu,
tận dụng thế mạnh của Mỹ khi bị Trung Quốc buộc phải tham gia vào một cuộc chơi
mà bản thân mình “lưỡng nan” về lợi ích. Nhưng vì trong thế ép buộc như vậy,
tính chính đang của một giải pháp“tiên pháp chế, hậu quân phạt” sẽ được phát
huy.Qua đótrước tiên dùng pháp luật, tạo luật chơi chung, tạo sự đồng thuận
làm cơ sở cho việc “dụng binh”, nhất là trong trường hợp an ninh Mỹ (và đồng
minh) bị vũ trang đối phương đe dọa.
Xin
cảm ơn ông!
*
Ông
cho rằng UNCLOS là một “vũ khí chiến lược” của Mỹ tại biển Đông. Nhưng đến
nay chính phủ Obama –dù nhiều lần lên tiếng ủng hộ- nhưng vẫn chưa thúc đẩy
được Thượng Viện thông qua. Đâu là lý do cho sự trì hoãn?
Ông
Trương Minh Huy Vũ: UNCLOS là “vũ khí chiến lược” của Mỹ tại biển
Đông, nhưng nó có thể là “rào cản chiến lược” của Mỹ với tư cách một quốc gia
giữa vai trò siêu cường toàn cầu. Phạm vi điều chỉnh của UNLOS liên quan đến
nhiều lãnh vực, nhiều đối tượng khác nhau, nên xuất hiện nhiều nhóm lợi ích
trong lòng nước Mỹ. Các nhóm này ra sức vận động hành lang qua cả hai kênh
hành pháp lẫn lập pháp để chống lại Công ước.
Xét chiều dài lịch sử, tất cả các nỗ lực thông qua
UNCLOS đến nay đều gặp thất bại bởi sự phản đối của các thành viên đảng Cộng
Hòa trong Chính phủ và trong Thượng viện, dẫn đến vấn đề UNCLOS không được
đưa ra, hoặc nếu được đưa ra thì lại không đủ 2/3 số phiếu cần thiết. Năm
2012, 34 thượng nghị sĩ đảng Cộng hòa đồng loạt ký vào một lá thư phản đối việc
phê chuẩn UNLOS được khởi xướng bởi Thượng nghị sĩ Jim DeMint. Lý do chính mà
họ đưa ra là quan ngại về chủ quyền quốc gia của Mỹ sẽ bị giới hạn. Với các
nhóm khác, hạn chế khả năng quân sự và tình báo của hải quân Mỹ, hạn chế
quyền tự do hàng hải hay có thể ảnh hưởng các đặc quyền về kinh tế khác của
Mỹ trong khu vực đặc quyền kinh tế và thềm lục địa cũng là những nguyên nhân
được nêu ra.
Bên cạnh các tiếp cận phủ định tuyệt đối, còn có
các đề xuất khác tìm kiếm một giải pháp ưu tiên dùng luật, nhưng không bắt buộc
tham gia UNCLOS. Gần đây nhất năm 2013, trong một báo cáo trình bày tại Ủy
ban liên ngành về Năng lượng và Khoáng sản thuộc Hạ Viện (Subcommittee on
Energy and Mineral Resources), tác giả Steven Groves từ Heritage Foundation lập
luận đại ý rằng Mỹ không cần phải tham gia UNCLOS mới có thể quản trị được
các vùng biển của mình bằng luật và thể chế quốc tế, mà nên ưu tiên theo đuổi
những hiệp ước mang tính song phương chỉ với với các nước có liên quan.
Nói chung, sự vận động UNCLOS của chính trường nước
Mỹ từ nhiều năm qua cần được đặc trong bối cảnh “lưỡng nan” của Mỹ trong việc
song trùng lợi ích giữa một bên là mong muốn điều chỉnh các nước khác bằng luật
và thể chế quốc tế, một bên là không muốn những điều chỉnh đó giới hạn lợi
ích và quyền sử dụng sức mạnh của bản thân. Đây là một bài toán khó mà chính
quyền Obama khó đưa ra lời giải rốt ráo trong những năm cầm quyền còn lại,
xét về tầm quan trọng của UNCLOS so với các hồ sơ đối nội khác như kinh tế hay
bất bình đẳng xã hội mà Obama và nội các của ông phải ưu tiên. Nếu có một điểm
sáng náo đó, đó có thể là hy vọng về sự tiếp tục quá trình này sau năm 2016 bởi
một nữ Tổng thống từ Đảng Dân Chủ?
|
Duy
Linh – Vân Trần (thực hiện)
————-
Bản rút gọn của bài phỏng vấn đã được đăng bởi Vietnamnet
No comments:
Post a Comment