16-06-2014
Khi không có ý thức và thói quen
làm
bạn với các nước khác
người
ta làm sao có thể hội nhập
Từ chiến tranh trở về, những người
viết văn thuộc lớp chống Mỹ chúng tôi lòng đầy háo hức.Trong số những việc liên
quan tới việc lập nghiệp, có việc học ngoại ngữ. Ồ, cái đó cần lắm chứ, phải lo
học, phải đi quốc tế, phải trở thành những trí thức thật đàng hoàng – nhiều
người gặp nhau ở ý nghĩ ấy.
Nhưng chẳng bao lâu, không ai bảo ai mà đều ngấm ngầm
nhận ra một sự thực: Học khó quá. Tắc. Hình như kiến thức nó cố
trốn chạy khỏi mình.
Như trong chuyện ngoại ngữ, dù có kiên trì đến
mấy, học cũng không vào. Nhà văn nọ, có lần, sau khi tuyên bố hùng hồn là mình
học tiến bộ lắm, xoè ra cho mọi người thấy một quyển sách tiếng Anh mới mua được
ở một hiệu sách cũ. Bạn bè chung quanh nhìn kỹ, thì ra đó là một cuốn sách tiếng
Pháp.
Dĩ nhiên về sau, cái sự gọi là quyết tâm kia
có giảm. Có thương nhau thì bảo nhau lo viết ngay đi; chứ còn việc học, mà nhất
là việc đọc sách và xì xồ với nhau mấy câu bằng các thứ tiếng xa lạ -- một
hai năm sau, mọi người nói nhỏ với nhau -- sao thấy nó phù phiếm
quá (!).
Di
lụy của những cấm đoán
Những kỷ niệm trên lập tức
trở lại trong tâm trí tôi, khi nghe những lời than phiền gần đây về tình trạng
dân mình đội sổ trong việc ngoại ngữ và nhất là cái cách người ta giải
thích về tình trạng bê bết đó.
Lấy ngành giáo dục làm ví dụ.
Tuy trong thực tế việc học và dạy được tổ chức rất kém song trên các tuyên bố
chính thức, việc chinh phục ngoại ngữ có lúc được đề lên như một thứ quốc sách.
So với những năm chiến tranh, phải thấy điều kiện học của các bạn trẻ bây giờ
đã khá hơn trước rất nhiều. Lại càng không nên nghĩ đến chuyện ký tính, sức nhớ,
khả năng thông minh của học sinh sinh viên nước mình … Vậy thì tại sao mọi việc
thê thảm làm vậy? Không dám coi như một môn bắt buộc trong các kỳ thi phổ
thông. Để mặc cho hiện tượng bằng giả tràn lan. Chấp nhận tình trạng quê mùa của
cả xã hội mà không có cách nào kháng cự? Phải chăng cái sự kém cỏi kia hiển
nhiên và kéo dài từ thế hệ nọ sang thế hệ kia đến mức người ta bắt đầu tuyệt vọng.
Chính ở đây, tôi thấy phải
nói tới những nguyên nhân tâm lý:
Nhìn vào lớp nhà văn chống Mỹ vừa nói ở
trên, trước tiên tôi nhớ tới hoàn cảnh mà bọn tôi lớn lên, trong đó có những
chuyện mà ngày nay không ai tưởng tượng ra nổi.
Có một hồi người Hà Nội xác định với
nhau là “ta chỉ nói chuyện với chính ta“. Nghĩ tới người nước ngoài là nghĩ
chuyện phải cảnh giác. Đi đường, thấy tây đầm hỏi đường, không được chỉ. Sổ ra
vài câu tiếng tây với họ là bị công an gọi về đồn liền.
Xưa nay nghề dịch vốn đã èo uột, vậy mà
hồi đó báo chí, kể cả báo chí văn nghệ còn gần như cai hẳn tức là bỏ luôn
cái mục được coi là rắc rối này. Vả chăng, muốn làm cũng chẳng có gì mà
làm. Sách Anh Pháp không nhập, ngay sách Trung văn cũng không có, bên Bắc Kinh
đang cách mạng văn hoá. Một số cuốn sách xô - viết loại như Chuyện núi
đồi và thảo nguyên in xong -- cũng như phim Đàn sếu bay qua mang chiếu
-- liền bị phê phán và thu hồi.
Quả thật trong một tình cảnh chiến
tranh nay sống mai chết, có ai còn bụng dạ nào mà nghĩ đến ngoại ngữ nữa.
Điều đáng nói là lâu
dần thành một thói quen, ngay cả khi những rào cản cụ thể hôm qua không còn,
thì những rào cản trong tâm lý con người không phải bỗng chốc mà dỡ bỏ được
ngay. Nó đã ăn vào tư duy, chi phối tình cảm và ý chí của nhiều thế hệ.
Vì thế mới có tình trạng sống giữa sách vở ê hề, tài liệu chồng chất và gần
như không chịu một hạn chế nào như hiện nay, người ta chỉ có học đòi làm dáng,
chứ vẫn không thể có một sự giao lưu và tiếp nhận tốt như đáng lẽ phải có.
Sự
lảng tránh cố ý
Năm 2004, một nhà văn Mỹ là S.
Sontag qua đời. Tôi nhớ những năm chiến tranh, bà này có qua Hà Nội, và nghe
nói nhận xét về người mình hay lắm, mà bọn tôi không được giới thiệu.
Thì may quá, có hôm đọc sách của nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Hưng Quốc thấy ông kể S. Sontag từng nhận xét người Việt Nam ít có thói quen tư duy trên một phạm vi địa lý rộng.
Thì may quá, có hôm đọc sách của nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Hưng Quốc thấy ông kể S. Sontag từng nhận xét người Việt Nam ít có thói quen tư duy trên một phạm vi địa lý rộng.
Đó cũng là cái ý mà một người
Nhật gần đây có sống mấy năm liền ở Hà Nội nhận xét: Người Việt ít khi đặt mình
vào địa vị của người khác để suy xét.
Tôi cho rằng chính những đặc tính
trên đây cản trở việc học ngoại ngữ của ta hiện nay.
Đọc lịch sử cận đại,
thời các cụ đua nhau Đông du, lại được biết: Hồi Phan Chu Trinh mới
qua Nhật, ông có được gặp cả thủ tướng Nhật Bản lúc ấy mà phiên âm qua tiếng
Hán Việt gọi là Đại Ôi. Câu đầu tiên mà Đại Ôi nói với Phan Chu Trinh đại ý tôi
nghe nói người Việt Nam đã lâu, mà nay mới gặp, hoá ra người các ông ít đi nước
ngoài thật. Tiếp đó, khi biết rằng người đối thoại với mình lúc ấy chưa
biết tiếng Pháp, Đại Ôi tỏ vẻ ngạc nhiên, sao lại thế, muốn đánh đuổi gì người ta
cũng phải hiểu người ta đã, không học tiếng Pháp sao được ?
Chuyện đầu thế kỷ XX mà nghe như
chuyện của chính chúng tôi trong thời chống Mỹ.
Phải
bắt đầu bằng một sự khao khát
Những anh em lên Sapa về thường kể,
không hiểu tại sao tuy chỉ tích luỹ theo kiểu học lỏm khách du lịch mà
nhiều thanh niên dân tộc H’mong trên đó nói tiếng Anh rất giỏi, trong khi nhiều
người Kinh mình học có bài bản hẳn hoi mà nói vẫn rất quê.
Từ chuyện có vẻ ngược đời đó, vẫn
trên cái mạch đi tìm những ảnh hưởng của văn hoá đối với việc học ngoại ngữ,
tôi muốn nêu một giả thiết :
Tuy không nói ra rành rọt, nhưng
những thanh niên H’mong kia hiểu rằng ngoài cái thế giới mà họ đang sống, còn
có thế giới rộng hơn,gần nhất là thế giới của người Kinh. Và muốn tồn tại
họ phải hoà nhập với thế giới đó. Tức là ý thức về mình và kẻ khác của họ đã
phát triển và nó ăn vào trong tâm thức họ, đời nọ truyền sang đời kia.
Khi tiếp xúc với một thứ tiếng mới, họ có nhu cầu buộc mình cố bắt chước
nói cho thật giống.
Còn ngược lại, nhiều người
vùng xuôi khi tiếp xúc với người nước ngoài, tuy ở ngay các đô thị lớn, song
thường thiếu nghiêm túc, không coi là chuyện thiết yếu liên quan đến cuộc sống
của mình.
Sự xem thường đó là cả một thứ vô thức tập thể kéo dài và bền chắc, nó lưu cữu trong ta, và tha hồ tác oai tác quái.
Miền Bắc xã hội chủ nghĩa chúng tôi bấy lâu nay là thế chứ còn gì nữa!
Sự xem thường đó là cả một thứ vô thức tập thể kéo dài và bền chắc, nó lưu cữu trong ta, và tha hồ tác oai tác quái.
Miền Bắc xã hội chủ nghĩa chúng tôi bấy lâu nay là thế chứ còn gì nữa!
Một
sự mệt mỏi …không nên có
Tôi đang công tác ở một nhà xuất bản.
Thỉnh thoảng, cơ quan tôi cũng có khách nước ngoài và khi tiếp khách, ông giám
đốc không quên mời một số nhân viên cùng dự.
Nhưng sau một ít lần háo hức, những ngày gần đây, phải thú thực tôi rất ngại.
Phần thì tiếng tăm không biết.
Phần thì, trong những buổi gặp đó, thường chúng tôi hiện ra vô duyên thảm hại.
Đại khái muốn trò chuyện về văn chương thì phải hiểu văn chương nước người ta ra sao, muốn bàn về xuất bản phải hiểu tình hình xuất bản bên họ thế nào. Đằng này chúng tôi mù tịt.
Theo lời một nhà thơ, đầu óc cũng rất tỉnh và cũng từng là quan chức đầu ngành Hà Nội là Vũ Quần Phương -- thì nhiều cuộc gặp gỡ của các nhà văn ta với nhà văn nước ngoài bí chuyện trao đổi với thảo luận quá, rút lại chỉ còn nói tiếu lâm và bàn chuyện ăn uống, đại khái hỏi họ bên nước ông ăn thìa hay ăn đũa, rồi tán dần ra.
Nhưng sau một ít lần háo hức, những ngày gần đây, phải thú thực tôi rất ngại.
Phần thì tiếng tăm không biết.
Phần thì, trong những buổi gặp đó, thường chúng tôi hiện ra vô duyên thảm hại.
Đại khái muốn trò chuyện về văn chương thì phải hiểu văn chương nước người ta ra sao, muốn bàn về xuất bản phải hiểu tình hình xuất bản bên họ thế nào. Đằng này chúng tôi mù tịt.
Theo lời một nhà thơ, đầu óc cũng rất tỉnh và cũng từng là quan chức đầu ngành Hà Nội là Vũ Quần Phương -- thì nhiều cuộc gặp gỡ của các nhà văn ta với nhà văn nước ngoài bí chuyện trao đổi với thảo luận quá, rút lại chỉ còn nói tiếu lâm và bàn chuyện ăn uống, đại khái hỏi họ bên nước ông ăn thìa hay ăn đũa, rồi tán dần ra.
Vài lần chầu rìa và ngồi nói tào
lao như thế qua đi, giờ đây “nhỡ “ được gọi tiếp khách là tôi xin kiếu. Một
số bạn bè cùng lứa cũng có tâm trạng như trên.
Chúng tôi muốn các bạn trẻ biết cho chuyện này và đừng lặp lại. Dẫu sao, khi vào đời, một sinh viên cũng phải có được một ngoại ngữ. Đó là dấu hiệu để có thể nói rằng mình và thế hệ mình đã đi ra và muốn làm bạn với thế giới. Ngoại ngữ cũng chính là phương tiện để đạt tới cái đích tự nhiên đó.
Còn nếu như sau khi đã quyết tâm rồi mà các bạn vẫn không sao học nổi thì xin có hai đề nghị có vẻ trái ngược nhau:
Một là các bạn đừng trách mình nhiều. Nói thật, lỗi không phải ở các bạn đâu mà lỗi là ở những người đi trước, nay các bạn vẫn đang phải gánh chịu những di lụy của quá khứ.
Hai là tuy vậy, các bạn vẫn phải tìm cách vượt lên để học bằng được những điều cần học. Con người phải có ao ước vượt qua định mệnh.
Học được một ngoại ngữ cho rành, ra ngoài làm ăn với thế giới một cách đàng hoàng, là cách tốt nhất để góp phần sửa chữa những sai lầm của quá khứ và do đó là vượt lên so với các thế hệ đi trước.
Chúng tôi muốn các bạn trẻ biết cho chuyện này và đừng lặp lại. Dẫu sao, khi vào đời, một sinh viên cũng phải có được một ngoại ngữ. Đó là dấu hiệu để có thể nói rằng mình và thế hệ mình đã đi ra và muốn làm bạn với thế giới. Ngoại ngữ cũng chính là phương tiện để đạt tới cái đích tự nhiên đó.
Còn nếu như sau khi đã quyết tâm rồi mà các bạn vẫn không sao học nổi thì xin có hai đề nghị có vẻ trái ngược nhau:
Một là các bạn đừng trách mình nhiều. Nói thật, lỗi không phải ở các bạn đâu mà lỗi là ở những người đi trước, nay các bạn vẫn đang phải gánh chịu những di lụy của quá khứ.
Hai là tuy vậy, các bạn vẫn phải tìm cách vượt lên để học bằng được những điều cần học. Con người phải có ao ước vượt qua định mệnh.
Học được một ngoại ngữ cho rành, ra ngoài làm ăn với thế giới một cách đàng hoàng, là cách tốt nhất để góp phần sửa chữa những sai lầm của quá khứ và do đó là vượt lên so với các thế hệ đi trước.
Nguyên là bài
Tại sao người mình kém ngoại ngữ?
Báo Sinh viên Việt Nam
10-2006
Viết thêm 16-6-2014
Trở lên là trong phạm vi chuyện trong nhà, nói
xuê xoa với nhau cho xong. Còn xét trên nhu cầu phát triển thì việc kém cỏi
trong dạy và học ngoại ngữ chỉ làm rõ hơn tình trạng trì trệ của xã hội ta.
Có người nói sau bốn chục năm, chúng ta vẫn chưa ra
khỏi chiến tranh.
Có người nói những nguyên tắc chỉ đạo xã hội hậu
chiến chẳng qua vẫn là những nguyên tắc thời chiến, nay chế biến lại chút ít. Vẫn
những tư tưởng ấy, chỉ có điều nó đã hết năng lượng tổ chức. Vẫn con cháu những
người đi trước chia nhau làm chủ xã hội, chỉ có điều nay họ liều lĩnh hư hỏng
thoái hóa hơn cha ông.
Nói cách nào thì cũng cùng một ý.
Xét trong phạm vi giới văn học mà ở trên tôi đã dẫn
làm ví dụ.
Đáng lẽ là lớp nhà văn có mặt ở mọi chiến trường
trong chiến tranh khi quay về phải lo học hỏi mọi mặt trong đó có việc học bằng
được ngoại ngữ.
Để làm gì, để hiểu biết chung về tình trạng thế giới hiện đại, từ đó có định hướng khai thác kinh nghiệm vốn có.
Để làm gì, để hiểu biết chung về tình trạng thế giới hiện đại, từ đó có định hướng khai thác kinh nghiệm vốn có.
Nói hẹp hơn, có ngoại ngữ -- với nghĩa rộng là
có sự tiếp xúc bình thường với văn học nước ngoài -- mới học hỏi cách viết về
chiến tranh ở các nước đó, quay về mới biết khai thác tốt nhất những kinh
nghiệm thời chiến phục vụ việc tổ chức cuộc sống của con người xã hội hậu chiến.
Ở các nước bình thường khác, những người nào
chỉ biết dừng lại ở các kinh nghiệm quá khứ, khư khư tôn sùng quá khứ, ngủ
nguyên trong vinh quang quá khứ, lớp người đó bất cứ thuộc ngành nghề gì sẽ bị
đào thải.
Nhưng ở ta hôm nay, các bước ngoặt lịch sử chiến
tranh hậu chiến chưa bao giờ được nhận thức nghiêm túc.
Nay ta đã bắt đầu thấy cần phải hội nhập.
Nhưng muốn và biết là hai chuyện khác nhau.
Một sự hội nhập mà không bao gồm cả những đau
xót làm lại chính mình;
một sự hội nhập mà không bao gồm đào thải những
gì cô độc cô quả là cách sống chủ yếu của thời chiến Hà Nội hôm qua;
một sự hội nhập như thế chẳng qua là chuyện hời hợt
bề ngoài. Phát triển sao được.
No comments:
Post a Comment