Thứ Hai, 2/6/2014, 17:17 (GMT+7)
(TBKTSG
Online) Nhân chứng chính là nhân tố làm nên sự khác biệt chung cuộc trong vụ kiện
tại cơ quan tài phán quốc tế.
Trong thông điệp tại “Diễn đàn An ninh Châu Á” vào
thứ sáu tuần rồi tại Singapore, Thủ tướng Nhật Bản - Shinzo Abe nhấn mạnh tầm
quan trọng của tinh thần thượng tôn pháp luật quốc tế (The rule of laws),
trong bối cảnh Trung Quốc đang “leo thang” các hành vi gây hấn tại khu vực Biển
Đông.
Ba nguyên tắc mà Thủ tướng Abe khuyến cáo các quốc
gia nên tuân thủ: (1) các quốc gia giải quyết vụ việc trong khuôn khổ luật pháp
quốc tế, (2) không quốc gia nào được phép sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ
lực để giải quyết tranh chấp, (3) các quốc gia phải nỗ lực giải quyết các xung
đột trong hòa bình.
Ông Shinzo Abe cũng nhấn mạnh rằng Nhật Bản đang cố
gắng chủ động trong việc duy trì sự hòa bình và thịnh vượng chung cho khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương dựa trên nền tảng tuân thủ nghiêm túc luật pháp quốc tế.
Thông điệp này có lẽ là bài học “vỡ lòng” nhằm gửi đến một nước lớn nhưng hành
xử “nhược tiểu” như Trung Quốc, khi chính phủ nước này vẫn đơn phương phong tỏa
Biển Đông và lạm dụng “tay chân” để áp đặt giải quyết tranh chấp với các quốc
gia ven biển liên quan.
Nhật Bản, Philippines cũng như Việt Nam và một số nước
ASEAN đang phải đối đầu với Trung Quốc trong những tranh chấp liên quan đến chủ
quyền lãnh hải. Trong bối cảnh đạt được sự đồng thuận cao của cộng đồng quốc tế
như hiện nay, việc Việt Nam khởi động một vụ kiện trong khuôn khổ thuộc thẩm
quyền của cơ quan tài phán quốc tế về luật biển xem ra rất thuận lợi. Tuy
nhiên, bên cạnh phương diện ngoại giao, kinh tế - chính trị, rất nhiều yếu tố
thuộc kỹ thuật mà Việt Nam cần phải cân nhắc khi chọn lựa thời điểm đệ trình và
thúc đẩy vụ kiện.
Trong một phiên tòa trọng tài quốc tế giải quyết các
xung đột về thương mại nói chung, tranh chấp lãnh thổ giữa các quốc gia nói riêng,
khâu chuẩn bị lực lượng nhân chứng (gồm nhân chứng sự kiện – witnesses of facts
và nhân chứng chuyên gia - expert witnesses) là một trong những yếu tố quyết định
sự thành bại chung cuộc của vụ việc.
Nhân
chứng và cơ chế thẩm vấn chéo (cross-examination)
Không tương đồng với “tập quán tố tụng” của Việt
Nam, nơi vai trò nhân chứng (người làm chứng) trong vụ tranh chấp dân sự,
thương mại ít được khai thác, đôi khi chỉ giữ vai trò tố tụng hình thức thứ yếu,
ngược lại trong một phiên tài phán của tòa án, trọng tài quốc tế, nhân chứng lại
đóng vai trò trọng yếu. Những người này được mệnh danh là “tai nghe và mắt
thấy của công lý”.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, điều kiện
chính để một chủ thể có thể trở thành người làm chứng là từ đủ 18 tuổi trở
lên và có năng lực hành vi dân sự. Người làm chứng ở đây là người phải biết rõ
về sự kiện mà mình được yêu cầu làm chứng và chịu trách nhiệm về tính xác thực
lời chứng của bản thân. Điều này đồng nghĩa nếu làm chứng gian dối, sai sự thật
có thể bị áp dụng chế tài và bị buộc bồi thường nếu gây thiệt hại. Nhân
chứng chuyên gia là người phải đạt yêu cầu về kiến thức chuyên môn trong lĩnh vực
cần giám định khi được cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu ý kiến chuyên môn.
Những nhân chứng này có quyền tiếp cận thông tin, chứng cứ tài liệu thuộc vụ việc,
và phát hành kết luận, báo cáo độc lập về vấn đề mình được yêu cầu giám định.
Chế định xác lập chứng cứ, nhân chứng trong tài phán
thương mại quốc tế hiện nay chủ yếu dựa trên Quy tắc về Chứng cứ của Trọng
tài Quốc tế do Liên đoàn Luật sư Quốc tế (IBA) ban hành năm 1999 (“IBA Rules”)
sửa đổi tháng 5-2010. IBA Rules đã đưa ra cơ chế tổng thể về thu thập, đệ
trình, đánh giá chứng cứ cũng như cơ chế hoạt động của nhân chứng.
Chuyên biệt hơn, quy tắc Tòa Trọng tài Thường trực
(Permanent Court of Arbitration) sẽ áp dụng cho tranh chấp trọng tài giữa hai
quốc gia như vụ kiện của Philippines và Trung Quốc, trên cơ sở áp dụng luật nội
dung quy định tại Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982 (“UNCLOS”).
Điểm chung ở đây, các nhân chứng sự kiện được yêu cầu
chứng thực phải tuyên thệ chỉ được phép nói toàn bộ sự thật. Nhân chứng sẽ được
thẩm vấn chéo (cross - examination) bởi luật sư từ hai phía cũng như tòa án hoặc
hội đồng trọng tài. Hội đồng trọng tài UNCLOS bao gồm các chuyên gia về luật biển,
tố tụng công pháp quốc tế hàng đầu, do vậy chỉ cần một sự chểnh mảng, nhân chứng
có thể bị dẫn dắt, bác bỏ bởi nhân chứng đối lập hoặc bởi luật sư đối phương hoặc
HĐTT. Thực tế, trong tranh tụng đôi khi một nhân chứng chuyên gia rất am tường
nội dung tranh chấp cũng có thể bị biến thành người “ngây ngô” ít đáng
tin cậy sau khi đối mặt hàng loạt kỹ thuật thẩm vấn chéo được áp dụng.
Phẩm
chất của nhân chứng
Trong vụ kiện thương mại khác của tổ chức Tòa
án Trọng tài Quốc tế - Phòng Thương mại Quốc tế (ICC), một nhân chứng sự kiện
quan trọng của đương đơn Việt Nam đã bị hội đồng trọng tài ICC (“HĐTT”)
bãi bỏ tư cách ngay khi không “vượt qua” được hai câu hỏi chào đầu. Bản khai của
nhân chứng này được đệ trình bằng tiếng Anh, theo đó nhân chứng đã nộp một bản
khai tiếng Anh hoàn hảo. HĐTT chấp nhận cho nhân chứng được trình bày bằng tiếng
Việt thông qua phiên dịch trực tiếp.
Trong phiên thẩm vấn chéo, luật sư đối phương mở
đầu bằng câu hỏi đơn giản: “Sir, can you speak English?” (Ông nói được tiếng
Anh không?). Nhanh nhẹn, nhân chứng này đáp “Sorry, I can’t speak English” (Xin
lỗi, tôi không nói được tiếng Anh) thay vì phải chừng mực đợi phiên dịch đúng
quy trình và có câu trả lời bằng tiếng Việt như là “Xin lỗi, tôi không nói được
tiếng Anh” hoặc “Tôi nói được tiếng Anh nhưng rất hạn chế”. Luật sư đối
phương tiếp “tiếng Anh ở bản khai này viết rất tốt, ông tự làm hay nhờ ai
làm?” Đáp trả bởi nhân chứng: “tôi nhờ luật sư bên tôi làm giúp” (chỉ vào
luật sư) thay vì câu trả lời thích hợp và đúng sự thật là “tôi tự làm bằng tiếng
Việt và luật sư tôi giúp dịch ra tiếng Anh”. Kết quả là nguyên đơn thành công
khi đề nghị HĐTT bác bỏ tư cách của nhân chứng quan trọng này vì có biểu hiện
“thiếu trung thực” và “không độc lập”.
Trong vụ kiện khác cũng tại ICC, một bên đương đơn
thành công khi chứng minh cho HĐTT là nhân chứng sự kiện của đối phương
không đáng tin cậy cho rằng các nhân chứng này không được “cách ly” một cách
thích hợp khi nhân chứng đã được thẩm vấn có biểu hiện “thông cung” với nhân chứng
chưa được thẩm vấn chéo. Các nhân chứng quan trọng do sự đề cử của một bên luôn
là trọng tâm cho đối phương tìm cách loại bỏ dưới sự dẫn dắt của luật sư có
kinh nghiệm, hơn là các đương đơn kỳ vọng giành lợi thế xuất phát từ các luận cứ
chuẩn bị sẵn. Thực tế, sẽ không có cuộc đối đầu trực tiếp thực sự quan trọng giữa
luật sư hai bên trong phiên tranh tụng quốc tế ngoại trừ phiên thẩm vấn chéo
các nhân chứng do luật sư đảm trách.
Nguồn
nhân chứng của Việt Nam
Vấn đề đặt ra là Việt Nam cần tập hợp và phát triển
nhân chứng sự kiện và chuyên gia từ nguồn nào. Do đặc thù một quốc gia có đường
bờ biển dài, Việt Nam có khá nhiều chuyên gia nghiên cứu về chủ quyền Biển Đảo.
So với các quốc gia ven Biển Đông, Việt Nam thuận lợi hơn cho việc chuẩn bị các
bằng chứng lịch sử và pháp lý xác lập chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa -Trường
Sa ít nhất từ thế kỷ 17. Năm 2011, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có tuyên bố rõ
trước quốc dân đồng bào rằng từ năm 1956 Trung Quốc đưa quân chiếm đóng các đảo
phía đông của quần đảo Hoàng Sa. Năm 1974, nước này dùng vũ lực đánh chiếm toàn
bộ quần đảo này lúc đó còn trong sự quản lý của Chính quyền Việt Nam Cộng
hòa. Chính quyền Sài Gòn lúc đó và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam
cũng ra tuyên bố phản đối, lên án hành vi chiếm đóng này, và đề nghị Liên Hiệp
Quốc can thiệp. Các chuyên gia ngoại giao, chính trị, các nhà nghiên cứu,
sử học trong nước và quốc tế hiện là nguồn nhân chứng góp phần cho công cuộc
pháp lý hóa tuyên bố trên thành một đúc kết sự thật lịch sử, trong nỗ lực bảo vệ
chủ quyền Việt Nam.
Tuy nhiên, tận dụng được những chuyên gia này để đảm
trách được vai trò làm nhân chứng sự kiện hoặc chuyên gia trong khuôn khổ vụ kiện
quốc tế đều cần sự chuẩn bị kỹ lưỡng. Đôi khi đệ trình một bằng chứng chưa đủ độ
tin cậy, một phát biểu hoặc hành vi thiếu cẩn trọng trong quá khứ, một thông
tin không đồng nhất của nhân chứng cũng sẽ làm ảnh hưởng đến mức độ “xác tín”
(credibility) của nhân chứng này, và vì vậy ảnh hưởng đến vị thế pháp lý của
đương đơn. Luật sư quốc tế hoặc HĐTT thuộc các chế định tòa án, trọng tài
quốc tế lớn như PCA, ICC, ICJ, ITLOS... sẽ không bỏ qua cơ hội phản bác những
nhân chứng như vậy. Hậu quả có thể biến một chuyên gia hàng đầu về lịch sử,
địa lý, một nhân chứng là cựu chiến binh”sống” từ các trận hải chiến Hoàng Sa
1974, Trường Sa 1988 thành “nhân chứng ít tin cậy” như chưa bao giờ được
nhìn thấy thực địa lãnh thổ.
Chẳng hạn đối với chứng cứ lịch sử về việc Trung Quốc
dùng vũ lực để chiếm đóng Hoàng Sa như viện dẫn trên, Trung Quốc dường như phạm
một điều cơ bản mà cơ quan tài phán có thể xem xét là việc chiếm hữu có hợp
pháp hay bất hợp pháp (Effective Occupation). Điều này được hiểu: một là
quốc gia ven biển phải thể hiện ý chí chiếm hữu, hai là thực hiện chiếm hữu
trên thực tế (thời gian chiếm hữu, thực hiện quyền lực nhà nước, xây dựng công
trình…) và quan trọng là việc chiếm hữu đó không bị phản đối bởi các quốc
gia khác (acquiescence by silence).
Do vậy, Trung Quốc không dễ đơn phương tuyên bố xác
lập chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa bằng vũ lực và dưới sự phản đối quyết
liệt của Việt Nam cũng như cộng đồng quốc tế. Có nhiều chuyên gia Việt
Nam và Quốc tế đủ để bác bỏ luận điểm này.
Tuy nhiên liên quan đến sự kiện thực tế, chẳng hạn,
ai là bên chiếm hữu thực thể quần đảo Hoàng Sa trước và từ 1956 đến
1974, quân đội hoặc người dân nào chiếm các bãi đá trong đó có Gạc Ma thuộc quần
đảo Trường Sa, công hàm lên án và phản đối lên Liên Hiệp Quốc của chính quyền
Sài Gòn thực tế thực hiện như thế nào sau khi Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa
vào năm 1974, một cách lý giải nhất quán về xuất xứ, ý chí Công thư 1958
v.v.. thì có lẽ không có nhân chứng sống nào tốt hơn là các nhà sử học, chính
trị ngoại giao, các chuyên gia công pháp của thời kỳ này.
Đặc biệt là các cựu chiến binh hiện hữu, những người
chứng kiến toàn bộ diễn biến tình tiết lịch sử xung quanh cuộc xung đột
này. Tuy vậy, nếu lướt qua các diễn đàn tranh luận rộng rãi thì ngay cả đối
với một câu hỏi trên thì các nhân chứng sự kiện và các chuyên gia cũng có nhiều
cách diễn đạt, lý giải khác biệt nhau. Đây có thể là rủi ro pháp lý vì trong một
phiên tài phán quốc tế một sự kiện bị diễn dịch không nhất quán, chủ quan trong
bản chứng của nhân chứng có thể gây bất lợi cho chung cuộc. Về mặt kỹ thuật,
các bên đương đơn sẽ “đấu trí” để khai thác hoặc bác bỏ sự kiện từ nhân chứng sống
này theo hướng có lợi cho mình.
Do vậy, tận dụng được các nhân chứng chuyên gia
trong nước và quốc tế có nhiều nghiên cứu về chủ quyền lãnh thổ là điều quý giá
đối với Việt Nam lúc này, đặc biệt những chuyên gia là cuốn “từ điển sống” về
chủ quyền biển đảo của Việt Nam, những cựu chiến binh đã tham chiến để bảo
vệ tổ quốc. Điều cần bổ sung cho lực lượng nhân chứng là một hệ thống kỹ
năng cách tập hợp và trình bày xác thực chuỗi sự kiện lịch sử một cách có hệ thống
khoa học cho một chủ đích pháp lý rõ ràng. Cho dù đôi khi sự chuẩn bị kỳ công của
đội ngũ nhân chứng chỉ để hiện diện trước HĐTT quốc tế trong phiên thẩm vấn
phúc trình cho những câu hỏi hàm tưởng là giản đơn nhưng hàm chứa nhiều rủi ro
pháp lý “đúng hay sai” hoặc “có hay không” và nếu dài hơn là “tại
sao”. Đôi khi chỉ vậy nhưng cũng có thể thay đổi cục diện của vụ kiện ở
quy mô quốc tế.
Quy
trình tố tụng nào cho nhân chứng theo UNCLOS
Trong Quy trình Tố tụng (Rules of Procedure) cho vụ
Philippines khởi kiện Trung Quốc, tại Điều 23 và 24, vào ngày 27-8-2013 HĐTT
cho phép các bên tiến hành thẩm vấn (examination) và thẩm vấn chéo (cross -
examination) bất cứ nhân chứng hoặc chuyên gia nào đã có bản khai chứng thực bằng
văn bản (written testimony). Nhân chứng này có thể do một bên yêu cầu nhân chứng,
chuyên gia của mình cho phiên thẩm vấn. Thủ tục mời nhân chứng cần xác lập chậm
nhất 30 ngày trước phiên xử. Các nhân chứng chuyên gia chỉ được tham gia thẩm vấn,
đối chất sau khi có đệ trình bản chứng bằng văn bản. Các bản khai đệ trình của
nhân chứng trở thành bằng chứng chính yếu của vụ kiện. Các câu hỏi thử thách trực
tiếp do hai bên hoặc HĐTT thực hiện. HĐTT có thể tự chỉ định thêm nhân chứng độc
lập.
Nhân chứng sự kiện hoặc chuyên gia giàu chuyên môn,
nhiều thông tin nhưng ít kinh nghiệm tố tụng là cơ hội tốt cho đối phương khai
thác. Các phẩm chất của nhân chứng dễ bị thử thách trong phiên tranh tụng là
ngoài khả năng, kiến thức, chuyên môn nhận thức đối với vấn đề mình chứng thực.
Ngoài ra thành tố quan trọng của nhân chứng là năng lực, sự khách quan và độc lập
của nhân chứng (qualification, impartiality and independence). Hạn chế một
trong các yếu tố này, nhân chứng có thể bị HĐTT bãi bỏ tư cách, và bản chứng có
thể bất lợi cho chính bên đề cử. Quyền và nghĩa vụ của nhân chứng cũng được quy
định tại Điều 6, Phụ lục VII của Công ước 1982.
Theo đó, quốc gia tranh chấp phải cung cấp đủ thông
tin liên quan tài liệu thích hợp khi nhân chứng yêu cầu thực thi nhiệm vụ của họ.
Trong giới hạn quyền và nghĩa vụ của mình, các bên phải thực hiện được quy định
tại điều khoản tham chiếu (TOR), các bên phải tạo điều kiện tối đa cho nhân chứng
có thể quan sát thực địa tranh chấp thực tế có liên quan vụ kiện.
Nhân
chứng: Nói thật, nói đúng chưa phải là đủ
Các báo cáo kỹ thuật (technical reports) hoặc các bản
chứng sự kiện (Statements of facts), các lời chứng trực diện (Testimony) đều bị
“soi” kỹ cả về hình thức lẫn nội dung. Do vậy, các nhân chứng ít kỹ năng hoặc
không được chuẩn bị tối thiểu về kỹ năng cơ bản tố tụng quốc tế cho một giải
quyết tranh chấp về lãnh thổ nhiều khi lợi bất cập hại. Nguy hại hơn,
nhân thân, quan điểm thể hiện qua các phát biểu của nhân chứng trong quá
khứ ở diễn đàn này hay diễn đàn khác về cùng một vấn đề mà nếu có bất nhất, bất
lợi thì cũng có thể là điểm yếu để đối phương khai thác, tận diệt.
Do đặc thù về vai trò, tính chất nghề nghiệp, luật
sư có thể có nhiều cách diễn đạt, lý giải khác nhau cho một sự kiện lịch sử,
pháp lý trong khuôn khổ luật pháp, tố tụng cho phép, trong khi nhân chứng thì
chỉ được phép nói sự thật và toàn bộ sự thật. Tuy vậy, trong một phiên tài phán
quốc tế như vụ kiện tranh chấp lãnh hải chưa có tiền lệ đối với Việt Nam, các
nhân chứng, chuyên gia chỉ nói sự thật hay nói đúng đôi khi chưa đủ, mà cần một
phương pháp diễn đạt sự thật, có bản lĩnh và kỹ năng chứng minh sự thật, có chuẩn
mực và uy lực đủ mạnh để lời chứng của mình được xác tín thì mới có thể
kì vọng đồng nhất chân lý với công lý khi đối đấu với Trung Quốc một nước lớn
ưa chuộng bá quyền và nhiều bao biện.
Một nhân chứng thành công là nhân chứng tự bảo vệ được
mức độ xác tín của chính mình xuyên suốt phiên tài phán. Ngược lại khi uy tín của
nhân chứng bị thử thách thì ảnh hưởng nghiêm trọng đến vị thế pháp lý của đương
đơn. Chuẩn bị nhân chứng sẽ là cả một quá trình Việt Nam cần thực hiện cho một
vụ kiện trong khuôn khổ công pháp quốc tế về luật biển.
(*) Hãng luật Rajah & Tann LCT Lawyers
No comments:
Post a Comment