Tạ
Văn Tài
04/06/2014
Tạ
Văn Tài, luật sư tại Mỹ và nguyên giảng viên và đương kim
nhân viên nghiên cứu Harvard Law School.
*
Trước khi đi vào chi tiết các biện pháp Việt Nam có
thể sử dụng như đối sách, mà chúng tôi liệt kê dưới đề mục hai câu hỏi sau, thì
cần ôn lại những lợi ích hay quyền lợi gì mà Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển
(United Nations Convention on the Law of the Sea UNCLOS) dành cho các quốc gia
hôị viên, như Việt Nam.
Có
hai loại lợi ích hay quyền lợi quốc gia của Việt Nam tại Biển Đông:
(a) chủ quyền đất đai (territorial sovereignty) trên
nhiều đảo và đá tại hai vùng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mà Việt Nam đã
tuyên bố và thực thi với sự chiếm hữu và quản lý trong quá khứ, theo đúng luật
quốc tế truyền thống đã có mấy trăm năm, cho đến khi một số địa điểm bị Trung
Quốc chiếm đóng bằng bạo lực; và
(b) lợi ích hay quyền đối với những vùng nước và đáy
biển dưới mặt nước tại Biển Đông, chiếu theo Công Ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển
(United Nations Convention on the Law of the Sea, UNCLOS) năm 1982, gồm có quyền
chủ tể (sovereign rights) khai thác tài nguyên sinh vật như cá biển và phi sinh
vật như quặng mỏ, kim loại hay dầu khí ở đáy biển, trong một vùng dưới mặt nước
gọi là Vùng Đặc quyền Kinh tế (Exclusive Economic Zone, EEZ) rộng 200 hải lý
tính từ mực nước thuỷ triều thấp nhất (gọi là đường cơ sở) chạy ra ngoài biển tới
200 hải lý (điều 56 và 57 UNCLOS), và trong Vùng Thềm Lục Địa (Continenal
Shelf) tức mặt đáy biển và đất dưới đáy biển đi ra tới bờ của lục địa
(continental margin) hay tới khoảng cách 200 hải lý tính từ đường cơ sở, khi bờ
lục địa không xa tới mức đó (điều 76 và 77 UNCLOS); hơn nữa, cần nhấn mạnh là
theo UNCLOS, các quyền chủ tể trên trong vùng EEZ và Thềm Lục địa của Việt Nam
là dành riêng hay chuyên độc (exclusive) của quốc gia cận duyên, cho nên Việt
Nam trong vùng EEZ, có chủ quyền xây các kiến trúc nhân tạo trên các đá thành
những đảo nhân tạo, nghiên cứu biển, quy định bảo vệ môi sinh, miễn là tôn trọng
quyền các quốc gia khác về tự do lưu thông hàng hải, và đặt dây cáp và ống dẫn
dầu khí của các nước khác (điều 56,58), và trong Thềm Lục Địa, Việt Nam cũng
đương nhiên có quyền chuyên độc khai thác tài nguyên thiên nhiên mà không cần
tuyên bố hay chiếm hữu, và các quốc gia khác không thể có các hoạt động khai
thác tài nguyên mà không có sự minh thị đồng ý của Việt Nam (điều 77). Khi bàn
luận về tranh chấp với Trung Quốc, ta nên nhớ luật quốc tế đã nói chắc chắn về
các quyền của Việt Nam như đinh đóng cột.
Khi đem giàn khoan dến vị trí giữa hai lô dầu 142 và
143 của Việt Nam trong vùng Đặc quyền Kinh tế Việt Nam (EEZViệt Nam), như ghi
trong bản đồ trên, thì trái với sự bàn luận cuộc một số người, Trung Quốc không
dùng cái Đường Lượi Bò hay Chín Đoạn (Nine-dotted Line), vốn không có thể biện
hộ được và bị tất cả các nước và học giả chất vấn, làm căn bản cho sự xâm lấn. Họ
nói đến hai yếu tố làm cơ sở pháp lý cho quyết định của họ:
(a) Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã nham hiểm mà tránh
viện dẫn cái dường Lưỡi Bò vô duyên đó, mà dùng đến căn bản vùng EEZ của Trung
Quốc, để nói là giàn khoan “đặt hoàn toàn trong vùng nước của các đảo Paracels
của Trung Quốc” (placed completely within the waters of China's Paracels”), ám
chỉ trong vòng 200 hải lý của EEZ và thềm lục địa của Paracels, do Trung Quốc
quản lý (nhưng Việt Nam vẫn liên tục đòi), vùng EEZ và thềm lục địa đó, UNCLOS
sẽ công nhận cho Paracels nếu hội đủ diền kiện. Điều kiện mà Trung Quốc giả định
đã có rồi, là có đảo nào đó trong Paracels, như Tri Tôn cách giàn khoan 17
miles, hay đảo Phú Lâm (Woody hay Yongxing), đã có điều kiện quy định trong
UNCLOS cho tính cách một hòn dảo (island) là con người sinh sống với nền kinh tế
tự túc (nước ngọt và thực phẩm trồng tại chỗ) khi mỏm dất hay đá đó còn trong
trạng thái thiên nhiên (còn nếu không có mỏm đất hay dá nào trong Paracels đủ
điền kiện là đảo, thì chúng chỉ là đá (reef) theo UNCLOS và chúng chỉ có 12 hải
lý của lãnh hải/territorial sea). Việc của Phi kiện Tàu trước Toà Án Luật Biển,
sau khi chịu đựng thương lưọng với Tàu 17 năm, về việc Tàu chiếm đá ngầm rất xa
Trung Quốc trong vùng Kinh tế đặc quyền / EEZ của Phi, thì dễ hơn vụ cuả
Việt Nam, khó hơn, vì Việt Nam phải làm việc kiện Tàu đã vô trong vùng
EEZ Việt Nam, mà vùng này trùng lắp với vùng EEZ của quần đảo Paracels, mà nay
Tàu nói đang thuộc quyền quản lý của họ.
(b) Trung Quốc cũng ám chỉ là giàn khoan cách đảo Hải
Nam 180 hải lý về phiá Nam (cách dảo Lý Sơn của Viêt Nam chừng 120 hải lý về
phiá Đông). Tức là có vùng chồng lấn giữa EEZ của Việt Nam tính từ đảo Lý Sơn của
Việt Nam và EEZ của TQ tính từ đảo Hải Nam.
Những
nhận định và đề nghị nêu ra sau đây hầu hết là dựa trên căn bản luật pháp, tức
là khí giới của kẻ yếu, nhưng là “lạt mềm buộc chặt”, chứ còn võ lực chống Tàu
thì nó có cớ đánh lớn, tàn phá Việt Nam và chiếm thêm hải đảo hay đất (trừ cách
làm du kích, quấy rầy việc tiếp liệu giàn khoan, hay phá hoại gián tiếp khác,
làm cho nó khó tiến hành được, có thể làm đến đâu, thì bàn sau).
1) Câu hỏi đầu tiên được nêu ra là Việt Nam có thể
kiện trước toà án quốc tế nào không?
A) Luận cứ (a) của Trung Quốc, dùng Paracels mà đòi quyền khai thác cho
giàn khoan phải được bác khước bằng hai vụ kiện trong đó Việt Nam phải trình hồ
sơ về hai điểm: (i) Paracels không phải thuộc chủ quyền đất đai (territorial
sovereignty) của Trung Quốc mà của Việt Nam: (ii) Paracels không có mỏm đá nào,
kể cả Woody/Yongxing, xứng dáng gọi là đảo/island, tức có người sống trong nền
kinh tế tự túc được trong trạng thái nguyên thuỷ sơ khai, mà toàn là đá/reef.
Vụ kiện thứ nhất về chủ quyền đất đai trên Paracels
là thuộc luật quốc tế cổ truyền (traditional international law), theo đó Việt
Nam phải minh chứng theo nguyên tắc luật quốc tế là một chính quyền muốn
xác nhận chủ quyền phải có sự liên tục hành xử chủ quyền trong hoà bình, nói rõ
ý định làm chủ, và nếu bị cưỡng chiếm thì phải phản đối chính quyền mới cướp bằng
võ lực đất của mình để ngăn cản chính quyền mới này thủ đắc chủ quyền bằng sự
hành xử chủ quyền liên tục.
Xét các bằng chứng lịch sử về chủ quyền của Việt Nam
theo luật quốc tế này, thì Việt Nam, trong chiều dài lịch sử từ nhiều thế kỷ,
đã xác nhận và hành xử chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa (tuy phạm vi
hành xử ở Trường Sa thì chưa xác định tới bao nhiêu đảo); và khi Trung Quốc
chiếm Hoàng Sa bằng võ lực năm 1974 và Việt Nam Cộng hoà phản đối, sau
đó Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay là Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam) – kế
quyền của Việt Nam Cộng hoà theo nguyên tắc thừa kế quốc gia (succession of
state) – cũng phản đối vụ Trung Quốc dùng võ lực chiếm Hoàng Sa và rồi
phản đối nhiều lần việc Trung Quốc dùng võ lực chiếm một số đảo ở Trường Sa năm
1988 (gây thương vong cho nhiều lính hải quân Việt Nam) và các năm sau
đó, thì chủ quyền Việt Nam trên Hoàng Sa và Trường Sa không thể bị coi là đã
xói mòn vì thiếu sự tuyên bố và hành xử chủ quyền.
Chúng tôi không đủ trang giấy trong bài ngắn này để
trình bày hết các bằng chứng lịch sử Việt Nam xác lập chủ quyền đất đai trên
các đảo Paracels và Spratleys ở đây. Khi cần trình bày chi tiết về bằng chứng lịch
sử, sẽ có một bài khác, làm phụ lục kèm theo.
Nhưng ngay tại đây, cần bác khước một vấn đề Trung
Quốc nêu ra: Trong một video trên Internet và báo không chính thức
như Hoàn Cầu của Trung Quốc, phổ biến vào tháng 5, 2014, để biện minh cho vị
trí giàn khoan, và trong những lời tuyên bố trước đây nữa, nguời Tàu cũng viện
đến Công hàm hay công thư của Thủ Tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 mà họ cho là đã
nhường Paracels và Spratleys cho Trung Quốc. Chúng tôi có đủ luận cứ quốc tế
công pháp bác khước điểm này, ghi trong phần phụ lục ở cuối bài. Phải dùng luận
cứ này trong dư luận quốc tế và trong vụ kiện về chủ quyền đất đai
(territorial sovereignty) trên Paracels tại toà án có thẩm quyến về việc này là
Toà Án Công Lý Quốc Tế (International Court of Justice, ICJ).
Rất tiếc là trong hiện trạng luật quốc tế,
không thể lôi Trung Quốc ra toà ICJ được (việc kiện đó chắc phải đợi sự
đồng ý của một chế độ mới ở Trung Quốc) như một số kiến nghị xin kiện ở Toà ICJ
của các nhà trí thức và hoạt động ở Việt Nam yêu cầu chính phủ, cũng như có sự
trả lời là “đang suy nghĩ” của luật sư của Bộ Ngoại giao hay Học viện Ngoại
giao, vì chắc chắn là Tàu sẽ không đồng ý ra toà, theo nguyên tắc optional
clause là một quốc gia có đồng ý ra toà mới phải ra toà.
B) Trong vụ kiện thứ hai, chúng tôi nghĩ là trước Toà án Trọng Tài
Luât Biển,Việt Nam có thể bác khước căn bản pháp lý của việc Trung
Quốc đặt vị trí giàn khoan, bác khước cả hai luận cứ: luận cứ (b) về khoảng
cách đảo Hải Nam tới giàn khoan chỉ có 180 miles, cùng với luận cứ (a) về
tư cách đảo /island của Paracels. Toà án Trọng tài Luật Biển là toà
mà Việt Nam có thể lôi Trung Quốc ra, theo thủ tục bó buộc trong
UNCLOS, Mục 2, như sau.
Mục
2
CÁC
THỦ TỤC BẮT BUỘC
DẪN
TỚI CÁC QUYẾT ĐỊNH BẮT BUỘC
ĐIỀU
286. Phạm vi áp dụng mục này
Với điều kiện tuân thủ Mục 3, mọi tranh chấp liên
quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước khi không được giải quyết bằng
cách áp dụng Mục 1, theo yêu cầu của một bên tranh chấp, đều được đưa ra trước
toà án có thẩm quyền theo mục này.
ĐIỀU
288. Thẩm quyền
1. Một toà án đã nêu ở Điều 287 có thẩm quyền xét xử
bất kỳ tranh chấp nào liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước đã được
đưa ra cho mình theo đúng phần này.
2. Một toà án nói ở Điều 287 cũng có thẩm quyền xét
xử bất kỳ tranh chấp nào liên quan đến việc giải thích hay áp dụng một điều ước
quốc tế có liên quan đến các mục đích của Công ước và đã được đưa ra cho mình
theo đúng điều ước này.
Chúng tôi nghĩ rằng Việt Nam có thể lôi Trung Quốc
ra Toà án Trọng tài luật Biển, mà Trung Quốc không thể dùng sự bảo lưu
(reservation) khi ký Công Ước, là không nhận thủ tực bó buộc cho các tranh luận
việc trùng lắp của các vùng EEZ giữa Việt Nam và Trung Quốc, như nói ở điểm
(b), giàn khoan ở chỗ trùng đè của hai EEZ tính từ bờ biển Việt Nam và từ Hải
Nam, vì rằng Việt Nam cũng có thể xin Toà Trọng tài xử về biên giới biển/sea
boundary, mặc dầu Tàu có bảo lưu/reservation khi gia nhập Công Ước về vấn dề
biên giới biển/sea boundary hay vịnh lịch sử/historical bays; quyền kiện đó của
Việt Nam là chiếu theo điều 298 đoạn 4, Công Ước UNCLOS dành quyền cho quốc gia
duyên hải/coastal state, quyền có thể đối kháng: “4. Nếu một quốc gia thành
viên đã ra một tuyên bố theo khoản 1, điểm a, thì bất kỳ quốc gia thành viên
nào khác cũng có thể đưa ra mọi tranh chấp giữa quốc gia đó với quốc gia đã ra
tuyên bố và nằm trong một loại tranh chấp đã bị loại trừ, ra giải quyết theo thủ
tục được định rõ trong tuyên bố này.”
Bây
giờ nói về điểm (b), vị trí giàn khoan ở nơi trùng lắp giữa EEZ Việt Nam và EEZ Trung Quốc
tính từ Hải Nam: cả hai phía bờ biển Việt Nam và Trung Quốc đều có thể phát
sinh hai EEZ và hai Thềm Lục Địa, của cả hai nước Việt Nam và Trung Quốc. Nói
cho Việt Nam, chúng tôi có thể biện luận theo luật là: vị trí giàn khoan ở
trong Thềm Lục Địa nới rộng của Việt Nam, và hơn nữa, ở hẳn sang phía Việt Nam
nếu cần phải thương lượng theo Công Ước để tìm ra một đường trung tuyến (median
line) giữa hai Thềm Lục Địa – như vẽ trong hình trên. Có thể thương lượng không
xong, thì biện minh cho Việt Nam như vậy khi xin Toà Trọng tài gỉải thích Công
ước.
Trước Toà Trọng tài, mục đích quan trọng nhất là xin
một bản án giải thích (declaratory judgement) giải thích và áp dụng Công Ước về vấn đề không có mỏm đá, đất nào trong
Paracels, kể cả Woody/Yongxing, xứng đáng là đảo (island) mà người ở dược trong
một nền kinh tế tự túc, trong trạng thái thiên nhiên trước khi Trung Quốc xây
các toà nhà ở được, phi trường, cảng, để tiếp tế, và nhà máy lọc nước ngọt.
Cũng còn một căn bản khác để kiện là xin Toà giải
thích việc Trung Quốc, một quốc gia duyên hải /coastal state, đã đơn phương
ngăn chặn tự do lưu thông, với vòng vây rộng lớn các tàu chiến và hải giám
quanh giàn khoan, chiếu điều 297 đoạn 1a:
1. Các vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích
hay áp dụng Công ước về việc thi hành các quyền thuộc chủ quyền hay quyền tài
phán của quốc gia ven biển như đã được trù định trong Công ước, phải được xét
theo các thủ tục giải quyết đã được trù định ở Mục 2 trong các trường hợp sau
đây:
a) Khi thấy rằng quốc gia ven biển đã không tuân
theo Công ước liên quan đến tự do và quyền hàng hải, hàng không hoặc tự do và
quyền đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm, cũng như đến việc sử dụng biển vào các mục
đích khác mà quốc tế thừa nhận là chính đã nêu ở Điều 58;
Lại còn vi phạm khác nữa của Trung Quốc, đó là trong
khi chờ đợi các cơ quan tài phán giải quyết, Việt Nam chỉ giới hạn hoạt động
vào các lô 118 và 119, thì Trung Quốc – đáng lẽ phải theo đoạn 3 các điều 74 và
83, về các bước đi thương lượng giải quyết bất đồng với Việt Nam về EEZ và thềm
lục địa, để mà tự chế trong tinh thần hiểu biết và cộng tác (understanding and
cooperation) kèm theo những biện pháp tạm thời (provisional measures), ngõ hầu
không hại đến thoả ước sau cùng – thì Trung Quốc lấn lướt, hung hăng. Hành động
Trung Quốc cũng là vi phạm Tuyên Bố Ứng xử của ASEAN.
Trong việc kiện Trung Quốc, Việt Nam có thể theo
gương Phi luật Tân, nhờ các văn phòng luật sư quốc tế giỏi, như Cotvington
& Burling, khi xưa đã giúp Việt Nam thời Thủ tướng Võ Văn Kiệt, cũng trong
vấn đề Biển Đông (chúng tôi có thể liên lạc qua một luật sư của họ là LS Thomas
Johnson có đi dự Hội nghị 2012 về dầu khí ở Houston và chủ toạ phiên họp về
boundary dispute – GS Nguyễn Hồng Thao, đại diện Việt Nam, có trả lời một câu
ông hỏi về joint development.)
2) Nếu tình thế tiếp tục căng thẳng thì Việt Nam
phải dùng thêm các biện pháp chính trị, ngoại giao và quân sự nào? Vai trò cộng
đồng quốc tế.
Công ước luôn đòi hỏi các bên thương nghị và cả hoà
giải nữa trước khi đem ra các thủ tục bó buộc. Vì thế các cuộc thương nghị ngoại
giao song phương, đa phương phải luôn có. Nếu thương nghị song phương mà bá quyền
lấn áp, thì phải dùng thương nghị đa phương qua ASEAN và, nhất là nếu các nước
nhỏ quá ngại nghênh Trung Quốc, phải dùng cả sự can thiệp của các nước lớn có
quyền lợi ở Biển Đông như Nhật, Úc, Nga, Ấn và nhất là Mỹ.
Một nền ngoại giao đa phương đã có thể làm chùn bớt
hành vi hung hăng của Trung Quốc, ngay từ khi trong chuyến du hành của Thủ tướng
Việt Nam qua Mỹ năm 2008: lúc đó, Tổng thống Bush đã cam kết bảo đảm cho sự toàn
vẹn lãnh thổ cho Việt Nam. Thông cáo chung Mỹ Việt "nhắc lại sự ủng hộ
của chính phủ Hoa Kỳ đối với Việt Nam về chủ quyền quốc gia, an ninh và toàn vẹn
lãnh thổ" và nói đến nhu cầu "củng cố đối thoại cấp cao" và
ủng hộ "thành lập các cuộc họp hoạch định chính sách về chính trị, quốc
phòng để có các trao đổi thường xuyên và sâu hơn về các vấn đề chiến lược và an
ninh".
Nhưng rồi Việt Nam vẫn chậm chạp trong việc xích lại
gần Tây Phương. Năm 2010 mới có một sự đột biến quan trọng. Hồi hạ tuần tháng 7
năm 2010, Ngoại trưởng Clinton tuyên bố tại Hà Nội rằng Hoa Kỳ xem Việt Nam “không
những thật sự là một quốc gia quan trọng mà còn là một bộ phận của chiến lược
nhắm tăng cường cam kết của người Mỹ trong khu vực Á châu Thái bình dương, đặc
biệt là trong vùng Đông Nam Á.” Khi phát biểu tại hội nghị của Diễn đàn Khu
vực ASEAN ở Hà Nội, bà Clinton còn nói rằng Hoa
Kỳ xem việc giải quyết vấn đề tranh chấp chủ quyền ở biển Nam Trung Hoa (Việt
Nam gọi là Biển Đông) bằng đường lối đa phương, theo luật quốc tế, mà không đe
doạ hay dùng võ lực, là một “quyền lợi quốc gia” của Mỹ. Những phát
biểu này đã khiến cho giới lãnh đạo Trung Quốc phật lòng. Báo cáo Chính trị cho
Đại Hội Đảng Việt Nam 2011 cho ghi rõ mục tiêu tăng cường hợp tác với các nước
chung quanh Biển Đông và Thái Bình Dương: "giải quyết các vấn đề còn tồn
tại về biên giới, lãnh thổ, việc xác định ranh giới biển và thềm lục địa với
các nước liên quan trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và
nguyên tắc ứng xử của khu vực; làm tốt công tác quản lý biên giới, xây dựng đường
biên giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác và cùng phát triển. Củng cố, phát triển
quan hệ hợp tác, hữu nghị truyền thống với các nước láng giềng có chung biên giới.
Chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước xây dựng Cộng đồng ASEAN vững
mạnh, tăng cường quan hệ với các đối tác, tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong
các khuôn khổ hợp tác ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. "
Theo giáo sư Úc Carl Thayer chuyên nghiên cứu về Việt
Nam, thì lãnh đạo Việt Nam có hai khuynh hướng: một muốn mở rộng quan hệ quốc tế,
liên hệ với nhiều quốc gia; một muốn nể nang, liên hệ chặt chẽ với Trung Quốc
hơn nước khác (gọi là nhất biên đảo), nhưng cũng theo GS Thayer, trước khuynh
hướng chống Trung Quốc của nhân dân, nhóm thân Trung Quốc này hình như cũng phải
đồng ý phải tìm con đuờng quốc phòng khác dựa vào quan hệ đa phương, không thể
chỉ dựa hay tin vào Trung Quốc.
Cơ chế các tổ chức quốc tế hoàn vũ (global
international organizations) là diễn đàn nêu sự bắt nạt củaTrung Quốc trước dư
luận quốc tế và có thể đi đến những nghị quyết hãm bớt sự hung hăng của Trung
Quốc. Sự hung hăng đe doạ hoà bình trong video trên Internet nói về Công hàm Phạm
Văn Đồng đã lộ rõ trong câu nói là: chỉ cần một vài giờ là đánh tan hải quân Việt
Nam; và có tin mấy hôm này, tháng 5,ngày 20, là Trung Quốc dồn quân đến biên giới
Việt Trung (điều này không chắc có hay không). Nên đưa vấn đế ra Đại Hội Đồng
Liên Hợp Quốc/United Nations General Assembly hay ngay cả Hội Đồng Bảo
An/Security Council (SC). Một nghị quyết của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc là áp
lực công luận quốc tế, có thể làm chùn bước Trung Quốc. Tuy ở Hội Đồng Bảo An,
khi lấy quyết định có thể vấp vào phiếu phủ quyết của Trung Quốc, nhưng Việt
Nam vần cần đưa ra hay nhờ cường quốc đưa ra, vì đó là thủ tục có thế làm bất cứ
khi nào có đe doạ hoà bình và an ninh quốc tế/threat to international peace and
security, như Tàu đem chiến hạm đe doạ và dùng nhiều đòn võ lực với hải giám và
dân chài Việt Nam, như vậy để tạo dư luận quốc tế có lợi cho Việt Nam.
Có học giả Mỹ nhận xét là Việt Nam có vẻ sẵn sàng
dùng biện pháp mạnh để ngăn cản giàn khoan hoạt động. Tiến sĩ Bower thuộc
Center for Strategic and International Studies ở Hoa Thịnh Đốn có viết là Việt
Nam có vẻ cương quyết ngăn cản việc hoạt động của giàn khoan và có đủ khả năng
quân sự hơn Phi luật Tân để làm việc đó, như tàu ngầm Kilo, và có hạm đội và
không đoàn lớn, tuy cũ; và tuy hành động đâm vào tàu Việt Nam có nguy cơ làm
leo thang hơn mức hiện nay, phía Trung Quốc có vẻ bớt hung hăng và cẩn trọng
hơn, chỉ dùng các tàu bảo vệ duyên hải (coast guard) để ngăn tàu Việt Nam tiến
gần giàn khoan, dù họ có tàu chiến hải quân quanh giàn khoan; hơn nữa, lãnh đạo
hai nước không lạ gì nhau và có các đường dây liên lạc, kể cả đường điện thoại
nóng. Việt Nam cũng cho lệnh các tàu hải giám chỉ tiến gần đến giàn khoan, hô
hoán các khẩu hiệu về chủ quyền của Việt Nam, nhưng nếu tàu Trung Quốc ép quá
thì rút lui, chứ không dùng bạo lực khí giới, có thể làm leo thang đến chiến
tranh – có lẽ đó là đối sách tối ưu vào lúc này. Những yếu tố đó có thể giúp
tránh một cuộc xung đột lớn. Tuy nhiên, sự đương đầu giữa hai nước Việt Trung
cũng vẫn cần sự can thiệp của cường quốc khác và các nước láng giềng để làm hai
bên giảm căng thẳng và giúp tránh chiến tranh. Việt Nam đã có sự hỗ trợ của nhiều
nước về mặt chính trị ngoại giao, và rồi có thể cả về mặt quân sự, như việc
phát biểu sự ủng hộ Việt Nam trong việc kiện ra Toà Án quốc tế (Tổng thống Phi,
Ngoại trưởng Mỹ) và trong việc có thể nâng cấp quan hệ đối tác toàn diện hiện
có của Mỹ với Việt Nam lên cấp đối tác chiến lược, tức là gồm cả hợp tác an
ninh và quốc phòng, giống như Mỹ đã có với một số nước đồng minh, việc nâng cấp
này áp dụng cho Việt Nam và các nước khác, việc nâng cấp này do Tư lệnh Lực Lượng
Mỹ ở Thái Bình Dương Locklear đề cập tới ngày 23 tháng 5,2014, sau khi ông cảnh
báo là mọi tính toán sai của Việt Nam và Trung Quốc có thể làm xung đột lan rộng.
Chính phủ Việt Nam chắc cũng biết là giàn khoan cần
tiếp tế thường xuyên, đào giếng dẫu cần nhiếu công ty quốc tế cộng tác trong
các vấn đế kỹ thuật, mà Trung Quốc không có đủ kỹ thuật cao (thí dụ ngay trong
việc thử nghiệm bùn hút lên thì phải đem về các phòng thí nghiệm cao cấp xem có
dầu tốt và đủ để bõ khai thác được, hay không), cho nên có thể Trung Quốc hung
hăng muốn dùng giàn khoan để giành chủ quyền, nhưng rồi thấy tốn kém vô ích
trong một vùng biển ít có khả năng có dầu hơn là vùng phía Nam Biển Đông, phải
rút đi, nhứt là nếu Trung Quốc có lý do không mất thể diện là không tìm thầy dầu
hay mùa bão biển đã tới. Về phía Trung Quốc, họ cũng biết là có thể có nguy cơ
bị phá hoại bởi các phần tử quốc tế không ưa Trung Quốc, những người này chỉ cần
có người nhái, hay hành vi cảm tử/ kamikaze khác, với khí giới có thể thuộc đủ
loại, phá đổ một trong bốn chân của giàn khoan, thì giàn khoan chìm, và Trung
Quốc mất cả tỷ Mỹ kim. Chúng tôi là luật sư, cái nghề khiến có khuynh hướng chủ
trương dùng luật là chính, vả lại tất cả những ai ở Mỹ thì phải theo luật
Neutrality Act, luật không cho phép người Mỹ dùng biện pháp quân sự nào đối với
một quốc gia có bang giao bình thường với Mỹ, như Trung Quốc, nhưng chúng tôi,
với tư cách học giả ước tính tình hình khách quan, phải nói lên nguy cơ có thể
có kẻ nghĩ là họ có thể phá hoại giàn khoan dễ dàng vì họ biết cấu trúc giàn
khoan, như kẻ khủng bố biết rõ cấu trúc World Trade Center nên phá dễ dàng hơn
mọi người nghĩ.
PHỤ
LỤC
Luận cứ của Trung Quốc khi họ viện dẫn Công hàm năm
1958 của ông Phạm Văn Đồng là để nói rằng ông Đồng đã ra Công hàm ủng hộ tuyên
bố của Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai, do đó công nhận
“1. lời tuyên bố chủ quyền Trung Quốc trên các
lãnh hải, kể cả lãnh hải tính từ các đảo Hoàng Sa và Trường Sa, và áp dụng
cho toàn lãnh thổ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, bao gồm phần đất Trung Quốc
trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Ðài Loan (tách biệt khỏi đất liền và
các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ, quần đảo
Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác
thuộc Trung Quốc.
2-Phần
biển 12 hải lý tính ra từ các đường căn bản là hải phận của Trung Quốc
3-Nếu
không có sự cho phép của Chính Phủ Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, tất cả máy bay
nước ngoài và tàu bè quân sự không được xâm nhập hải phận Trung Quốc và vùng trời bao trên hải
phận này. Bất cứ tàu bè nước ngoài nào di chuyển trong hải phận
Trung Quốc đều phải tuân thủ các luật lệ liên hệ của Chính Phủ Cộng hoà Nhân
dân Trung Hoa.”
Ông
Phạm Văn Đồng gửi bức Công hàm cho Ông Chu Ân Lai nguyên văn như sau:
“Thưa
đồng chí Tổng lý,
Chúng
tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Chính phủ nước
Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính
phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho
các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của
Trung Quốc. ”
Nên ghi chú ngay rằng ông Đồng chỉ nói đến hải phận
12 hải lý mà không nói về đảo, đất. Nhưng chúng tôi xin đi vào chi tiết hai luận
cứ pháp lý để bác luận cứ của Trung Quốc về Công hàm Phạm Văn Đồng như sau:
(a) Thứ nhất, và quan trọng nhất, Hiệp Định Genève
trao quyền quản lý hành chánh Hoàng Sa và Trường Sa, đều ở phía Nam vĩ tuyến
17, cho chính phủ Miền Nam Việt Nam, tức Việt Nam Cộng hoà (VNCH), ở phía Nam
vĩ tuyến đó, cho nên các hành vi xác lập và hành xử chủ quyền về Hoàng Sa và
Trường Sa phải thuộc thẩm quyền Việt Nam Cộng hoà, và chính phủ này cũng như hải
quân của họ đã mạnh mẽ xác nhận chủ quyền Việt Nam ở các hải đảo trong và sau
biến cố hải chiến 1974, còn ông Đồng, đại diện miền Bắc Việt Nam, tức Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà (VNDCCH) lúc đó, không có thẩm quyền hay không có ý định tuyên
bố gì về chủ quyền đất đai về Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Việt Nam Cộng hoà vào
thời điểm đó, mà chỉ dưa ra lời tuyên bố công nhận hải phận 12 hải lý của Trung
Quốc.
Tuy nguyện vọng “dân tộc Việt Nam là một, nước Việt
Nam là một” là chính đáng, nhưng tình trạng hiện hữu của một quốc gia là một vấn
đề sự kiện thực tại (question of fact) trong luật quốc tế, cho nên thực tại có
hai nước Việt Nam, VNDCCH và VNCH, trong thời gian 1954-1975, là đúng với luật
quốc tế và có lợi về mặt chính trị và pháp luật trong việc bảo vệ chủ quyền đất
đai trên HS/TS bởi VNCH trong thời gian đó, mà ngày nay, sau khi thống nhất dất
nước năm 1976, thì VNDCCH rồi Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia kế
quyền (successor state) trong sự bảo vệ chủ quyền đất đai đó. Sự kế quyền trong
việc bảo vệ chủ quyền đất đai này đã được chính Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói tới.
Vào ngày 25 tháng 11/2011 tại Quốc hội, Ông Dũng đã
có những phát biểu về Hoàng Sa và Trường Sa: Việt Nam chúng ta khẳng định có
đủ căn cứ về pháp lý và lịch sử khẳng định rằng quần đảo Hoàng Sa và quần đảo
Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chúng ta đã làm chủ thực sự ít nhất là
từ Thế kỷ XVII. Chúng ta làm chủ hai quần đảo này chưa thuộc bất kỳ một quốc
gia nào và chúng ta đã làm chủ trên thực tế và liên tục hoà bình. Nhưng đối với
Hoàng Sa, năm 1956 Trung Quốc đưa quân chiếm đóng các đảo phía Đông của quần đảo
Trường Sa. Đến năm 1974 cũng Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần đảo
Hoàng Sa trong sự quản lý hiện tại của chính quyền Sài Gòn, tức là chính quyền
Việt Nam Cộng hoà. Chính quyền Sài Gòn, chính quyền Việt Nam Cộng hoà đã lên tiếng
phản đối, lên án việc làm này và đề nghị Liên Hợp Quốc can thiệp. Lập trường
nhất quán của chúng ta là quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, chúng
ta có đủ căn cứ lịch sử và pháp lý để khẳng định điều này. Năm 1975 giải phóng
miền Nam thống nhất Tổ quốc thì Hải Quân chúng ta đã tiếp quản 5 hòn đảo tại quần
đảo Trường Sa, đó là đảo Trường Sa, đảo Song Tử Tây, đảo Sinh Tồn, đảo Nam Yết
và đảo Sơn Ca, năm đảo này do quân đội của chính quyền Sài Gòn, chính quyền
Việt Nam Cộng hoà đang quản lý chúng ta tiếp quản. Sau đó với chủ quyền của
chúng ta, chúng ta tiếp tục mở rộng thêm lên 21 đảo, với 33 điểm đóng quân.
Ngoài ra chúng ta còn xây dựng thêm, 15 nhà giàn ở khu vực bãi Tư Chính để khẳng
định chủ quyền của chúng ta ở vùng biển này, vùng biển trong phạm vi mà 200 hải
lý thuộc thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của chúng ta. Trong khi đó ở quần
đảo Trường Sa, Trung Quốc cũng đã chiếm 7 bãi đá ngầm, Đài Loan chiếm 1 đảo nổi,
Philippines chiếm 9 đảo, Malaixia chiếm 5 đảo, còn Brunei có đòi hỏi chủ quyền
trên vùng biển nhưng không có chiếm giữ đảo nào.
Khi một quốc gia đã hội đủ 4 điều kiện sau đây của
Hiệp Ước Montevideo 1933 (nó xác lập truyền thống luật quốc tế mấy thế kỷ về
tình trạng quốc gia/statehood), thì phải được coi là một quốc gia (state) thành
viên trong cộng đồng quốc tế: (a) một dân số ổn định vĩnh cửu (a permanent
population); (b) một lãnh thổ rõ rệt (a defined territory); (c) một chính quyền
(a government); và (d) có khả năng giao dịch với quốc gia khác (capacity to
enter relations with other states). VNCH là một thực thể có đủ 4 điều kiện này.
Còn vấn đề các nước khác nhìn nhận một state có đủ 4 điều kiện trên để lập bang
giao thì là một vấn đề chính trị và tiêu chuẩn chính trị thêm vào 4 tiêu chuẩn
luật, và chính phủ nào ghét một nước nào mà không nhìn nhận thì cũng không thể
xoá bỏ tư cách state của nước đó – đó là trường hợp Cuba bị Mỹ ghét, không nhìn
nhận, mà Mỹ đâu có xoá tư cách state của Cuba được. Toà án Mỹ vào các năm
1920’s công nhận chính phủ Bolshevik của Liên Xô có đặc miễn như chủ thể quốc tế
khi có các vụ kiện đòi các tiền ký thác khi xưa trong ngân hàng ở Nga bị
Bolsheviks quốc hữu hoá, mặc dù chinh phủ Mỹ hồi đó chưa nhìn nhận nước Liên
Xô. Nước VNCH 1954-75 đã được mấy chục nước nhìn nhận ngoại giao, có lúc Liên
Xô đã đề nghị cả hai nước Việt Nam vaò Liên Hiệp Quốc. Việc có vô Liên Hợp Quốc
hay không vô được (thí dụ bị một trong 5 quốc gia thành viên thường trực của Hội
Đồng Bảo An phủ quyết), thì là chuyện chính trị, không phải là tiêu chuẩn về sự
khai sinh một nước/state.
Những ai, cứ viện dẫn Hiệp Định Genève nói sẽ có một
nước Việt Nam sẽ được thành lập với tuyển cử thống nhất hai phần đất tạm thời
chia cắt, mà coi nước VNCH như không có trong trời đất, là không hiểu luật
quốc tế mấy trăm năm về statehood và lẫn lộn tiêu chuẩn pháp lý về
statehood trong luật quốc tế với những sự sắp xếp chính trị của các cường quốc
trong một Hiệp Định giữa vài nước mà thôi, đã cố tình quên cái thực tại
chính trị là đã có mấy chục nước nhìn nhận sự khai sinh của VNCH, và cũng quên
mất luật quốc tế theo nghĩa là một số ít nước ký Hiệp Định Genève
không thể truất cái quyền chuyên độc (sovereign) của mấy chục nước kia đã nhìn
nhận VNCH.
Bây giờ ông Thủ Tướng Dũng nói, và trước đây giả thử
tiền nhiệm của ông là ông Đồng nói một cách minh thị hơn nữa, nói đến hai nước
Việt Nam trong giai đoạn 1954-1975, thì cũng không giảm giá trị của sự nghiệp
thống nhất đất nước làm vào năm 1975-76, vì trong lịch sử thế giới, đã có nhiều
quốc gia chia ra nhiều mảnh rồi lại thống nhất, và cũng có quốc gia chia ra
hai, thí dụ Pakistan chia thành hai, nửa kia thành Bengladesh, Sudan trước là một
thì nay là hai quốc gia, mà các quốc gia đó vẫn có vị trí được nhìn nhận trong
cộng đồng các quốc gia; và các lãnh tụ chính trị đưa hai quốc gia của một dân tộc
đến thống nhất, mà biết tôn trọng quyền lợi của cả dân tộc sau khi thống nhất,
thì cũng được lịch sử khen ngợi – như Lincoln, sau Chiến tranh Nam Bắc Mỹ, đã
nói “Cùng nhau, chúng ta sẽ săn sóc cho cô nhi, quả phụ của cả hai bên”.
Vậy xin nhắc lại là ông Đồng, đại diện miền Bắc Việt
Nam, tức Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (VNDCH) lúc đó, phải được giải thích là
không có thẩm quyền hay không có ý định tuyên bố gì về chủ quyền đất đai về
Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Việt Nam Cộng hoà, một quốc gia khác, vào thời điểm
đó, mà chỉ đưa ra lời tuyên bố công nhận hải phận 12 hải lý của Trung Quốc. Có
giải thích như vậy mới không bị Trung Quốc bắt bí, và cứ quy cho Việt Nam cái
thế “há miệng mắc quai” vì lối giải thích Công hàm Phạm Văn Đồng của Trung Quốc.
(b) Thứ hai, một bản tuyên bố đơn phương (unilateral
declaration) như Công hàm Phạm Văn Đồng không có hiệu lực pháp lý về mặt quốc tế.
Trong luật quốc tế, không thể cố áp dụng lý thuyết estoppel, tức là lý thuyết
trong luật pháp quốc nội của một số quốc gia có quy định là “Đã nói ra thì
không nói ngược lại được”, vì lý thuyết này không áp dụng trong luật quốc tế
theo cùng các điều kiện như trong luật quốc nội, vì có những điều kiện ngặt
nghèo, và do đó không thể coi lời nói đơn phương có hiệu lực ràng buộc đương
nhiên trong luật quốc tế. Toà án quốc tế trong một vụ xử giữa Đức và Đan Mạch/Hà
Lan về thềm lục địa đã nói như vậy. Ngoài ra, theo một án lệ khác, khi xét ý
nghĩa của lời tuyên bố đơn phương, toà án quốc tế phải xét một cách chặt chẽ ý
định (intention) của người tuyên bố.
Theo án lệ NUCLEAR TESTS CASE AUSTRALIA& NEW
ZEALAND v. FRANCE 1974 I. C. J. 253, thì “dĩ nhiên là không phải hành vi
đơn phương nào cũng tạo ra nghĩa vụ; nhưng một quốc gia có thể chọn theo một lập
trường về một vấn đề nào đó với ý định sẽ tự ràng buộc – miễn là ý định này phải
xét kỹ bằng sự giải thích hành vi đó. Khi các quốc gia đưa ra lời tuyên bố hạn
chế tự do hành động của mình, thì phải giải thích hạn hẹp.” Toà án cũng nói là:
“chỉ cần xét một vấn đề quan trọng là xem lời văn trong lời tuyên bố có biểu lộ
một ý định rõ rệt không… Toà án phải tự có quan điểm riêng về ý nghĩa và phạm
vi mà tác giả lời tuyên bố đơn phương nào có thể tạo ra một nghĩa vụ pháp lý,
và toà không thể bị ảnh hưởng gì bởi quan điểm của một quốc gia khác vốn không
thể là một bên đương sự trong lời tuyên bố đó.” (Of course, not all unilateral
acts imply obligation; but a State may choose to take up a certain position in
relation to a particular matter with the intention of being bound--the
intention is to be ascertained by interpretation of the act. When States make
statements by which their freedom of action is to be limited, a restrictive
interpretation is called for… The Court further stated in the same case: “… the
sole relevant is whether the language employed in any given declaration does
reveal a clear intention… ” (Ibid., p. 32). Court must however form its
own view of the meaning and scope intended by the author of a unilateral
declarationwhich may create a legal obligation, and cannot in this respect be
bound by the view expressed by another State which is in no way a party to the
text.).
Ý định của Thủ tướng Đồng trong cái câu ông nói ở
Công hàm 1958 (“Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ghi nhận và tán
thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa
quyết định về hải phận của Trung Quốc. Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm
triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc'')
phải được xét trong khuôn khổ quyền hạn thủ tướng chiếu Hiến Pháp 1946,
theo đó Chính phủ gồm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch và nội các (điều 44), trong nội
các đó, có Thủ tướng (điều 44), và Chủ tịch nước mới là người thay mặt cho nước
(điều 49 đoạn a) mà ký hiệp ước với nước khác (điều 49 đoạn h) ràng buộc Việt
Nam về việc quan trọng, thí dụ chủ quyến đất đai như việc nhượng đất, kèm theo
quyết định chuẩn y hiệp ước bởi nghị viện là cơ quan quyền lực cao nhất, thì mới
có quyền về nhượng đất (điều 22 và 23). Còn thủ tướng không thể vượt quá quyền,
theo học lý luật pháp ultra vires, và Công hàm của ông, trong ngôn ngữ dùng, chỉ
có ý định ủng hộ ngoại giao cho Trung Quốc về một điểm là 12 hải lý hải phận mà
Trung Quốc đang lo lắng tuyên bố để chống sự đe doạ lúc đó của Mỹ từ hai đảo
Kim Môn và Mã Tổ quân đội Đài Loan trấn giữ với sự ủng hộ mạnh mẽ của Mỹ và đe
doạ lớn hơn của Mỹ từ eo biển Đài Loan với Hạm đội 7. Hơn nữa, ý định của ông Đồng
không thể được giải thích là liên quan đến nhượng đất, vì Trung Quốc yêu sách về
tất cả các đảo ở Hoàng Sa và Trường Sa, trong đó nhiều đảo thuộc quyền chiếm hữu
của một số quốc gia Đông Nam Á, mà ông Đồng không là đại diện để nói về chuyện
nhượng đất; lời ông Đồng nói, Trung Quốc không thể đem đối kháng với các quốc
gia Đông Nam Á đó được – kể cả VNCH. Theo án lệ Nuclear Tests case nói trên,
Toà án quốc tế không cần nghe giải thích chủ quan, thủ lợi theo ý mình, của
Trung Quốc.
NGOÀI RA, CÓ THỂ CÓ NHỮNG BIỆN LUẬN CÃI CỐ CỦA TRUNG
QUỐC, THÌ TA TRẢ LỜI NHƯ SAU.
Trong việc Trung Quốc cố biện luận là Việt Nam đã có
những lời tuyên bố nhìn nhận chủ quyền của họ trên Hoàng Sa, Trường Sa, thì
ngoài Công hàm Phạm Văn Đồng, họ còn có thể viện dẫn báo Nhân Dân ngày 6 tháng
8 năm 1958 khi đăng tuyên bố của Chu Ân Lai có in cả đoạn nói về Tây Sa và Nam
Sa và bài báo Nhân Dân ngày 9 tháng 5 năm 1965 khi phản đối Mỹ cũng nói là Mỹ
đã vi phạm lãnh hải của Trung Quốc ở Tây Sa và Nam Sa. Họ cũng có thể viện ra lời
của Thứ trưởng Ngoại giao Ung văn Khiêm. Họ cũng có thể nói thêm Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà đã im lặng nhiều năm, không phản đối chuyện mất Hoàng Sa về tay họ
năm 1956 (khu vục Amphitrite với đảo Woody, phía Đông Hoàng Sa) và 1974 (khu vực
Crescent có đảo Pattle/Hoàng Sa phía Tây Hoàng Sa). Sau hết, Việt Nam có in bản
đồ ghi Tây Sa, Nam Sa (Trung Quốc).
NHƯNG Việt Nam có thể bác khước là ngay cả lời tuyên
bố đơn phương/unilateral declaration của ông Thủ tướng Đồng cũng không có giá
trị về chuyển nhượng lãnh thổ, nữa là mấy bài báo Nhân dân của mấy ký giả Việt
Nam hay lời nói thoáng qua của Bộ trưởng Ngoại giao Khiêm chỉ nhắc lại nguyên
văn bản tuyên bố của Trung Quốc hay chỉ nịnh Trung Quốc bằng những lời không có
nội dung chuyển nhượng lãnh thổ hay bằng những lời của những ai không có tư
cách như Chủ tịch nước phát ngôn chuyển nhượng lãnh thổ.
Còn việc Trung Quốc biện luận là Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà im lặng khi mất Hoàng Sa trong những năm trước 1975 thì có thể trả lời là
lúc đó, việc phản đối thuộc thẩm quyến chính phủ có quyền quản lý là quốc gia
VNCH và VNCH đã mạnh mẽ phản đối, kể cả chống cự bằng võ lực. Sau khi thống nhất,
hay khi sắp sửa thống nhất, thì hải quân VNDCCH cũng đã vội chiếm trong tay
quân đội VNCH các đảo ở Trường Sa vào năm 1975 và từ 1976 trở di, chính phủ của
nước Việt Nam thống nhất liên tục lên tiếng phản đối để bảo lưu chủ quyền Việt
Nam.
Sau hết, việc in bản đồ ghi Tây Sa, Nam Sa (Trung Quốc)
là Việt Nam chỉ nói để làm được lòng Trung Quốc, đồng minh của VNDCCH đang viện
trợ lúc đó, muốn yêu sách như vậy, cũng như Trung Quốc bây giờ in khung Đường
Lưỡi Bò vào trong sổ hộ chiếu họ dùng, nhận vơ hầu như tất cả Biển Đông trong
khung Đường Lưỡi Bò đó; cả hai việc đó không có giá trị của một lời hay một hiệp
ước nhượng đất của các cơ quan hiến định Việt Nam có quyền nhượng đất, là Chủ tịch
nước và nghị viện hay quốc hội.
T.
V. T.
Tác giả gửi BVN.
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 14:08
No comments:
Post a Comment