June 6, 2014 11:55 AM
Vào đầu tháng 5 vừa qua, Trung Quốc đưa giàn khoan Hải
Dương 981đến đặt tại vùng biển gần đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa, mà
Trung Quốc đã đánh chiếm của Việt Nam Cộng Hòa ngày-19-1-1974. Sự xuất hiện
giàn khoan nầy làm rộ lên trở lại dư luận trong và ngoài nước vấn đề công hàm
ngày 14-9-1958 của Phạm Văn Đồng, thủ tướng Bắc Việt Nam trước đây.
1.-
TUYÊN BỐ CỦA TRUNG QUỐC
Từ 24-2 đến 29-4-1958, các thành viên Liên Hiệp Quốc
(LHQ) họp tại Genève bàn về luật biển. Hội nghị ký kết bốn quy ước về luật biển.
Riêng quy ước về hải phận mỗi nước, có 3 đề nghị: 3 hải lý, 12 hải lý và 200 hải
lý. Không đề nghị nào hội đủ túc số 2/3, nên LHQ chưa có quyết định thống nhất.
Lúc đó, Trung Quốc và hai miền Nam và Bắc Việt Nam không phải là thành viên LHQ
nên không tham dự hội nghị nầy.
Trước cuộc tranh cãi về hải phận, ngày 28-6-1958,
Mao Trạch Đông tuyên bố với nhóm tướng lãnh thân cận: “Ngày nay, Thái Bình
Dương không yên ổn. Thái Bình Dương chỉ yên ổn khi nào chúng ta làm chủ nó.”
(Jung Chang and Jon Halliday, MAO: The Unknown Story, New York: Alfred
A. Knopf, 2005, tr. 426.) Tiếp đó, ngày 4-9-1958, Trung Quốc đưa ra bản tuyên bố
về hải phận gồm 4 điểm, trong đó điểm 1 và điểm 4 được dịch như sau:
(1) Bề rộng lãnh hải của nước Cộng Hòa Nhân Dân
Trung Quốc là 12 hải lý. Điều lệ nầy áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng Hòa
Nhân Dân Trung Quốc, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo
ngoài khơi, Đài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả)
và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa [Xisha tức
Hoàng Sa], quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa [Nansha tức Trường Sa], và các đảo
khác thuộc Trung Quốc.
. . . . . . . . . . . . . .
(4) Điều (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Đài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu [Bành Hồ], quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc… (Nguồn: ).
. . . . . . . . . . . . . .
(4) Điều (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Đài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu [Bành Hồ], quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc… (Nguồn: ).
Mục đích của bản tuyên bố ngày 4-9-1958 nhằm xác định
hải phận của Trung Quốc là 12 hải lý. Tuy nhiên điểm 1 và điểm 4 của bản tuyên
bố cố ý lập lại và mặc nhiên khẳng định chắc chắn rằng hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa (vốn của Việt Nam) thuộc chủ quyền của Trung Quốc và gọi theo tên
Trung Quốc là Xisha [Tây Sa tức Hoàng Sa] và Nansha [Nam Sa tức Trường Sa].
Điểm cần chú ý là Trung Quốc lúc đó chưa phải là
thành viên Liên Hiệp Quốc và không thể dùng diễn đàn của Liên Hiệp Quốc để bày
tỏ quan điểm và chủ trương của mình, nên Trung Quốc đơn phương đưa ra bản tuyên
bố nầy, thông báo quyết định về lãnh hải của Trung Quốc. Vì vậy các nước không
nhất thiết là phải trả lời bản tuyên bố của Trung Quốc, nhưng riêng Bắc Việt
Nam lại tự ý đáp ứng ngay.
2.-
CÔNG HÀM CỦA BẮC VIỆT
Trước khi ký kết hiệp định Genève ngày 20-7-1954
chia hai đất nước, đảng Lao Động (tức đảng Cộng Sản Việt Nam) đã sắp đặt trước
kế hoạch tiếp tục chiến tranh đánh miền Nam. Chủ trương nầy được đưa ra rõ nét
tại hội nghị Liễu Châu (Liuzhou) thuộc tỉnh Quảng Tây (Guangxi), từ ngày 3 đến
ngày 5-7-1954 giữa Hồ Chí Minh và Chu Ân Lai.
Sau khi đất nước bị chia hai, Bắc Việt nằm dưới chế
độ cộng sản do Hồ Chí Minh và đảng Lao Động (tức đảng Cộng Sản Việt Nam) lãnh đạo.
Muốn đánh miền Nam, thì Bắc Việt cần được các nước ngoài viện trợ, nhất là Liên
Xô và Trung Quốc. Vì vậy, khi Trung Quốc đơn phương đưa ra bản tuyên bố về lãnh
hải ngày 4-9-1958, chẳng cần tham khảo ý kiến Bắc Việt, thì “không gọi mà dạ”,
Phạm Văn Đồng, thủ tướng Bắc Việt, lại hưởng ứng ngay, ký công hàm ngày
14-9-1958, tán thành quyết định về hải phận của Trung Quốc để lấy lòng chính phủ
Trung Quốc.
Mở đầu bản công hàm, Phạm Văn Đồng viết: “Thưa Đồng
chí Tổng lý”. Kết thúc bản công hàm là câu: “Chúng tôi xin kính gởi Đồng
chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.” Gọi nhau đồng chí là ngôn ngữ giao
thiệp giữa đảng với đảng trong cùng một hệ thống cộng sản quốc tế, khác với
ngôn ngữ ngoại giao thông thường. Nội dung bản công hàm Phạm Văn Đồng
nguyên văn như sau:
“Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận
và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng Hòa
Nhân Dân Trung Quốc, quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tôn trọng
quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để
tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng Hòa
Nhân Dân Trung Quốc trên mặt bể.”
Chắc chắn bản công hàm nầy đưọc Hồ Chí Minh và Bộ
chính trị đảng Lao Động (tức đảng Cộng Sản) chuẩn thuận và được gởi thẳng cho
Trung Quốc mà không tham khảo ý kiến hay thông qua quốc hội Bắc Việt. Quốc hội
Bắc Việt lúc đó nguyên là quốc hội được bầu ngày 6-1-1946, gọi là quốc hội Khóa
I. Sau chiến tranh 1946-1954, đất nước bị chia hai. Nhà nước Bắc Việt triệu tập
những dân biểu cộng sản còn sống ở Bắc Việt vào tháng 9-1955, tiếp tục hoạt động
cho đến ngày 8-5-1960, Bắc Việt mới tổ chức bầu lại quốc hội khóa II, khai mạc
phiên họp đầu tiên tại Hà Nội ngày 6-7-1960.
3.-
TRUNG QUỐC BIỆN MINH
Khi tự động đem giàn khoan 981 đặt trong vùng biển
Hoàng Sa, vi phạm lãnh hải Việt Nam, Trung Quốc liền bị dân chúng Việt Nam biểu
tình phản đối mạnh mẽ và dư luận quốc tế lên án, thì nhà cầm quyền Trung Quốc
cho người sử dụng công hàm Phạm Văn Đồng ngày 14-9-1958 để nói chuyện.
Cùng ngày 20-5, hai nhân vật Trung Quốc đã lên tiếng
biện minh cho hành động của Trung Quốc. Dĩ nhiên họ được lệnh của nhà nước Bắc
Kinh mới được quyền lên tiếng.
Thứ
nhứt, đại biện lâm thời Trung Quốc ở Indonesia, ông Lưu Hồng
Dương, có bài đăng trên báo Jakarta Post (Indonesia), xác định rằng quân đảo
Tây Sa [tức Hoàng Sa] là lãnh thổ của Trung Quốc. Bài báo viết: “Trong tuyên
bố ngày 14-9-1958, thay mặt chính phủ Việt Nam khi đó, Phạm Văn Đồng, công khai
thừa nhận quần đảo Tây Sa và các đảo khác ở Nam Hải là lãnh thổ Trung Quốc.” Lưu
Hồng Dương, tác giả bài báo, còn viết: “Việt Nam rõ ràng vi phạm nguyên tắc
“estoppels”. [không được nói ngược].
Người
thứ hai là tiến sĩ Ngô Sĩ Tồn, giám đốc Viện Nghiên cứu Nam
Hải của Trung Quốc, trả lời phỏng vấn hãng tin Deutsch Welle (DW) của Đức, được
đưa lên Net ngày 20-5. Ông nầy nói như sau: “Năm 1958, thủ tướng Việt Nam khi
đó là Phạm Văn Đồng đã công nhận chủ quyền Trung Quốc đối với Tây Sa và Nam Sa
trong công hàm gửi thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai… Hà Nội chỉ thay đổi lập trường
sau khi đất nước thống nhất năm 1975. Nhưng theo nguyên tắc estoppel, Trung Quốc
không tin rằng Việt Nam có thể thay đổi lập trường về vấn đề chủ quyền.”
4.-
CỘNG SẢN VIỆT NAM CHỐNG CHẾ
Trả lời những cáo buộc trên đây của Trung Quốc,
trong cuộc họp báo ngày 23-5-2014 tại Hà Nội, ông Trần Duy Hải, phó chủ nhiệm Ủy
ban Biên giới Quốc gia, cho rằng công hàm của thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958
không có giá trị pháp lý về vấn đề chủ quyền biển đảo Việt Nam.
Ông Hải nói: “Việt Nam tôn trọng vấn đề 12 hải lý
nêu trong công thư chứ không đề cập tới Hoàng Sa, TrườngS, vì thế đương nhiên
không có giá trị pháp lý với Hoàng Sa và Trường Sa… Bạn không thể cho ai thứ mà
bạn chưa có quyền sở hữu, quản lý được. Vậy điều đó càng khẳng định công văn của
cố thủ tướng Phạm Văn Đồng không có giá trị pháp lý…”
Ngoài ra, còn có đại sứ của hai phía Trung Cộng và
Việt Cộng ở Hoa Kỳ tham gia cuộc tranh cãi, lên tiếng bênh vực lập trườøng của
chính phủ mình. Báo chí hai nước cũng đưa tin và bình luận cáo buộc đối phương
mà trước đây ít khi thấy. Lời qua tiếng lại còn nhiều, nhưng đại khái lập trường
hai bên là như vậy.
5.-
HIỂU CÁCH NÀO?
Bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Trung Quốc đưa ra hai
chủ điểm: 1) Xác định hải phận của Trung Quốc là 12 hải lý. 2) Mặc nhiên xác nhận
chủ quyền của Trung Quốc trên một số quần đảo trên Biển Đông trong đó có hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vốn của Việt Nam từ lâu đời.
Dầu công hàm Phạm Văn Đồng không có chữ Hoàng Sa và
Trường Sa như ông Trần Duy Hải nói, nhưng công hàm Phạm Văn Đồng “ghi nhận
và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng Hòa
Nhân Dân Trung Quốc”, có nghĩa là nhà nước Bắc Việt cộng sản công nhận hai
chủ điểm của bản tuyên bố của Trung Quốc.
Trần Duy Hải còn nhấn mạnh rằng sau hiệp định
Genève, Hoàng Sa và Trường Sa thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng Hòa và “Bạn
không thể cho ai thứ mà bạn chưa có quyền sở hữu, quản lý được.” Ông Hải
nói chuyện lạ lùng như một người nước ngoài. Nếu Nam Việt không phải là một phần
của Việt Nam, thì tại sao Bắc Việt lại đòi “Chống Mỹ cứu nước” hay “Giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước.”? Khi xâm lăng Nam Việt, thì Bắc Việt nhận Nam
Việt là một phần của Việt Nam. Khi cần xin viện trợ thì Bắc Việt bảo rằng đó là
của Nam Việt, rồi Bắc Việt dùng để trao đổi với nước ngoài? (Một giải thích lạ
lùng hơn nữa là bà Nguyễn Thị Thụy Nga (Bảy Vân), vợ Lê Duẫn, trả lời trong cuộc
phỏng vấn năm 2008 của đài BBC rằng “ngụy nó đóng ở đó nên giao cho Trung Quốc
quản lý Hoàng Sa.” (CTV Danlambao – danlambaovn.blogspot.com).
Một nhà nghiên cứu trong nước còn nói
rằng công hàm Phạm Văn Đồng không thông qua quốc hội nên không có giá trị pháp
lý trong bang giao quốc tế. (BBC Tiếng Việt 21-5-2014, “Hoàn cảnh lịch sử công
hàm 1958”).
Khái niệm nầy chỉ đúng với các nước tự
do dân chủ. Trong các nước tự do dân chủ, tam quyền phân lập rõ ràng. Những quyết
định của hành pháp phải được lập pháp thông qua, nhất là những hiệp ước về lãnh
thổ, lãnh hải phải có sự đồng ý của quốc hội. Tuy nhiên dưới chế độ cộng sản, cộng
sản không cai trị theo luật pháp, mà cộng sản thống trị theo nghị quyết của đảng
cộng sản. Với cộng sản, tam quyền không phân lập mà tam quyền đồng quy vào
trong tay đảng CS, nên CS chẳng cần đến quốc hội. Chủ trương nầy được đưa vào
điều 4 hiến pháp cộng sản mà ai cũng biết.
Trung Quốc là một nước cộng sản từ năm
1949. Đảng Cộng Sản Trung Quốc cũng thống trị đất nước họ như đảng Cộng Sản Việt
Nam (CSVN). Vì vậy, giữa hai nước cộng sản với nhau, Trung Quốc rất am hiểu
truyền thống của nhau, am hiểu ngôn ngữ cộng sản với nhau. Chính công hàm của
Phạm Văn Đồng cũng viết theo ngôn ngữ cộng sản: “Thưa Đồng chí Tổng lý”.
Vì vậy, Trung Quốc hiểu công hàm Phạm Văn Đồng theo cách thống trị đất nước của
nhà nước cộng sản, nghĩa là quyết định của đảng cộng sản là quyết định tối hậu,
trên tất cả, chẳng cần gì phải có chuyện quốc hội phê chuẩn.
Hồ Chí Minh
và đảng Lao Động (tức đảng CSVN ngày nay) ủng hộ hay không ủng hộ bản tuyên bố
về hải phận của Trung Quốc, dân chúng Việt Nam không cần quan tâm. Tuy nhiên, đối
với dân chúng Việt Nam, chuyện Phạm Văn Đồng cùng Hồ Chí Minh và đảng Lao Động
tán thành “quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa], …, quần đảo Nam Sa [Trường
Sa], … thuộc Trung Quốc” là một hành vi bán nước và phản quốc.
6.-
LIÊN MINH QUÂN SỰ?
Trước hiểm họa Trung Quốc đe dọa ngày nay, vì Việt
Nam không đủ sức chống lại Trung Quốc nên có ý kiến cho rằng nhà nước CSVN cần
phải liên minh với nước ngoài để chống Trung Quốc. Ví dụ liên minh với Hoa Kỳ
hay với khối ASEAN chẳng hạn.
Tuy nhiên, trong cuộc họp báo tại Bắc Kinh vào ngày
25-8-2010, trung tướng Nguyễn Chí Vịnh, thứ trưởng Quốc phòng CSVN đã đưa ra chủ
trương “ba không” của đảng CS và nhà nước CSVN là: Không tham gia liên minh
quân sự, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự và không cùng một nước khác chống
lại nước thứ ba. (Xem Internet: chủ trương ba không của CSVN.)
Về phía Hoa Kỳ, thì vừa qua, ngày 28-5-2014, trong
bài diễn văn trình bày tại lễ tốt nghiệp Học viện Quân sự West Point, New York,
tổng thống Obama đưa ra nét căn bản về chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ: “Hoa
Kỳ sẽ sử dụng quân đội, đơn phương nếu cần thiết, nếu cần cho lợi ích cốt lõi của
chúng ta – trong trường hợp người dân chúng ta bị đe dọa, nguồn sống chúng ta gặp
nguy hiểm hay an ninh của các nước đồng minh bị thách thức …” (BBC Tiếng Việt,
29-5-2014.)
Chủ trương sử dụng sức mạnh để bảo vệ lợi ích cốt
lõi của nước mình không phải là chủ trương riêng của Hoa Kỳ hay của một nước
nào mà là chủ trương chung của tất cả các nước trên thế giới. Nước nào cũng vì
quyền lợi của nước mình mà thôi. Vậy thử hỏi Hoa Kỳ có quyền lợi gì khi giúp Việt
Nam (90 triệu dân) nhằm đổi lại với việc Hoa Kỳ giao thương với Trung Quốc (hơn
1 tỷ dân)? Ngoài ra, Hoa Kỳ khó trở thành đồng minh của Cộng Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam chỉ vì một lý do đơn giản là CHXHCNVN là một nước cộng sản vi phạm
nhân quyền một cách trầm trọng.
Hơn nữa, Hoa Kỳ mới liên minh trở lại với Phi Luật
Tân để ngăn chận Trung Quốc từ xa. Vì Phi Luật Tân ở xa, nằm phía bên kia bờ Biển
Đông phân cách Phi Luật Tân với lục địa Trung Quốc, nên an toàn hơn cho Hoa Kỳ.
Vì vậy, Hoa Kỳ có cần liên minh với CSVN hay không?
Các nước trong khối ASEAN cũng không khác gì Hoa Kỳ,
tập họp với nhau vì quyền lợi kinh tế của mỗi nước. Có nước chẳng ưa thích gì
Việt Nam như Cambodia, Lào vì truyến thống lâu đời. Có nước chẳng có quyền lợi
gì trong vấn đề Việt Nam và Biển Đông như Miến Điện, Mã Lai. Đó là chưa nói hầu
như các nước ASEAN đều quan ngại thế lực của Trung Quốc về nhiều mặt và các nước
ASEAN còn muốn Việt Nam luôn luôn ở thế yếu kém, bị động để đừng quay qua bắt nạt
các nước láng giềng.
Như
thế, chỉ là ảo tưởng nếu nghĩ rằng nhà nước CSVN có thể liên minh với bất cứ nước
nào để chống Trung Quốc. Trung Quốc dư biết điều đó. Cộng sản Việt Nam
phải tự mình giải quyết lấy bài toán của mình do những sai lầm của Hồ Chí Minh
và đảng CSVN gây ra. Nhờ Trung Quốc đánh Pháp chẳng khác gì nhờ một tên
ăn cướp đuổi một kẻ ăn trộm. Còn nhờ Trung Quốc chống Mỹ không phải là giải
pháp để cứu nước mà là con đường dẫn đến mối nguy mất nước …
7.-
PHẢI QUYẾT ĐỊNH
Lịch sử cho thấy từ bao đời nay, dân tộc Việt Nam
luôn luôn chiến đấu để bảo vệ lãnh thổ, chống lại các cuộc xâm lăng của nước
ngoài. Ngược lại, từ giữa thế kỷ 20, đảng CSVN cướp được chính quyền năm 1945,
đã dùng đất đai do tổ tiên để lại như một vật trao đổi nhằm mưu cầu quyền lực,
mà công hàm Phạm Văn Đồng là một ví dụ điển hình.
Muốn
thoát khỏi tấn bi kịch hiện nay, một trong những việc đầu tiên là phải vô hiệu
hóa công hàm Phạm Văn Đồng, chấm dứt sự thừa nhận của Phạm Văn Đồng và đảng Lao
Động tức đảng CSVN đối với tuyên bố của Trung Quốc.
Muốn vô hiệu hóa công hàm Phạm Văn Đồng thì phải vô hiệu hóa
chính phủ đã ký công hàm. Phạm Văn Đồng đã chết. Chính phủ Phạm Văn Đồng không
còn. Tuy nhiên, chính phủ thừa kế chính phủ Phạm Văn Đồng còn đó ở Hà Nội. Vậy
chỉ còn cách giải thể nhà nước cộng sản hiện nay ở Hà Nội mới có thể vô hiệu
hóa công hàm Phạm Văn Đồng.
Có hai cách giải thể:
Thứ
nhứt, đảng Cộng Sản Việt Nam hiện nay, hậu thân của đảng
Lao Động trước đây, thừa kế chính thức của nhà nước do Phạm Văn Đồng làm thủ tướng,
phải tìm cách tự lột xác như ve sầu lột xác (kim thiền thoát xác), mới phủ nhận
những điều do nhà cầm quyền cũ ký kết. Trên thế giới, đã có hai đảng cộng sản
theo thế kim thiền thoát xác là trường hợp Cộng sản Liên Xô với Yeltsin và cộng
sản Cambodia với Hun Sen.
Vấn đề là những nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam hiện
nay có vì sự sống còn của đất nước, có chịu hy sinh quyền lợi của đảng CS, có
chịu giải thể đảng CS như Yeltsin đã làm ở Liên Xô, để cùng dân tộc tranh đấu bảo
vệ non sông?
Thứ
hai, nếu những nhà lãnh đạo cộng sản vẫn cương quyết bám
lấy quyền lực, cương quyết duy trì đảng CSVN, thì chỉ còn con đường duy nhứt là
toàn dân Việt Nam phải tranh đấu lật đổ chế độ cộng sản. Cuộc tranh đấu sẽ rất
cam go, khó khăn, nhưng hiện nay đất nước chúng ta đang đứng bên bờ vực thẳm,
đang lâm vào thế cùng. Cùng đường thì phải tranh đấu để biến đổi và tự cứu
mình.
Vậy chỉ còn con đường duy nhứt là chấm dứt chế độ
CSVN để chấm dứt công hàm Phạm Văn Đồng, đồng thời chấm dứt luôn những mật ước
giữa đảng CSVN với đảng Cộng Sản Trung Quốc từ thời Hồ Chí Minh cầu viện, qua
thời Thành Đô và cho đến hiện nay.
Đã đến lúc phải quyết định dứt khoát: Hoặc CSVN theo
thế “ve sâu lột xác”, hoặc CSVN phải bị lật đổ mà thôi. Nếu không, hiểm họa một
thời kỳ Hán thuộc mới đang chờ đợi Việt Nam.
TRẦN
GIA PHỤNG
(Toronto, 5-6-2014)
(Toronto, 5-6-2014)
No comments:
Post a Comment