Shinzo
Abe
Anh
Khôi chuyển ngữ, CTV Phía Trước
Posted on Jun 5, 2014
TOKYO – Nhật Bản đang ở một vị trí tốt hơn bao giờ hết
để đóng vai trò to lớn cũng như chủ động hơn trong việc đảm bảo hòa bình ở châu
Á và trên thế giới. Chúng tôi có được sự ủng hộ cũng như hỗ trợ nhiệt tình từ
các nước đồng minh và một số quốc gia khác, bao gồm tất cả các nước thành viên
trong khối ASEAN và Hoa Kỳ, Úc, Ấn Độ, Anh và Pháp. Tất cả các nước đều biết rằng
Nhật Bản luôn ủng hộ nền tảng pháp quyền không những khu vực cho châu Á mà còn
cho tất cả mọi người.
Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe phát biểu trong buổi khai mạc Đối thoại
Shangri-La hôm 30 tháng Năm, 2014 tại Singapore. Ảnh: mindef.gov.sg
Chúng tôi không hề đơn độc. Trong hầu hết các nước ở
châu Á–Thái Bình Dương, tăng trưởng kinh tế đã nuôi dưỡng tự do tư tưởng và tôn
giáo cũng như hệ thống chính trị có trách nhiệm và đáp ứng tốt hơn. Mặc dù tốc
độ thay đổi từ nước này sang nước còn khác nhau nhưng ý tưởng về pháp quyền thực
sự đã bắt đầu thấm sâu vào góc rễ. Và điều đó có nghĩa rằng các lãnh đạo chính
trị của các nước trong khu vực cần phải tôn trọng luật pháp quốc tế.
Hiện nay không có lĩnh vực nào cần pháp quyền bằng
luật biển quốc tế. Khu vực châu Á–Thái Bình Dương đã đạt được mức tăng trưởng
to lớn trong một khoảng thời gian rất ngắn. Thật đáng tiếc, một phần tương đối
lớn của những thành quả đó đang hướng tới việc mở rộng quân sự. Nguồn gốc bất ổn
không chỉ bao gồm các mối đe dọa của vũ khí hủy diệt hàng loạt mà còn mang tính
hiện thời như các nỗ lực cố gắng thay đổi hiện trạng lãnh thổ thông qua vũ lực
hoặc cưỡng chế. Và những nỗ lực đó chủ yếu diễn ra trên biển.
Gần đây, Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama và tôi cùng
tái khẳng định mối liên minh Mỹ–Nhật là nền tảng của hòa bình và an ninh trong
khu vực. Hơn nữa, Hoa Kỳ và Nhật Bản đang tăng cường hợp tác ba bên với các đối
tác cùng chí hướng để thúc đẩy hòa bình trong khu vực cũng như toàn cầu và tăng
trưởng kinh tế. Cho đến nay, Thủ tướng Úc Tony Abbott và tôi đã cùng đồng ý rằng
chúng tôi nên làm chính xác những điều đó.
Lịch sử về luật biển quốc tế rất dài và chủ đề này
có thể đi ngược trở lại thời Hy Lạp cổ đại. Bởi thời La Mã, các vùng biển được
mở rộng cho tất cả mọi người, bao gồm cả sở hữu cá nhân và phân vùng bị cấm.
Nhưng kể từ Thời đại Khám phá, nhiều người đã vượt qua các vùng biển với vô số
lý do, và thương mại từ đó trở nên phụ thuộc nhiều hơn vào đường biển để kết nối
các khu vực khác nhau trên thế giới. Tự do trên biển đã trở thành một nguyên tắc
nền tảng cho sự thịnh vượng của con người.
Không một quốc gia hay một nhóm nào đặc biệt tạo ra
luật biển quốc tế như chúng hiện đang tồn tại. Đó là sản phẩm bao gồm nhiều trí
tuệ tập thể của nhân loại được trao dồi qua nhiều năm. Ngày nay, nhiều lợi ích
cho toàn dân vẫn tiếp tục phụ thuộc vào sự cởi mở tại các vùng biển từ Thái
Bình Dương sang Ấn Độ Dương.
Nhưng những điều đó có nghĩa như thế nào? Nếu chúng
ta có thể chắt lọc một số tinh thần được lưu truyền vào luật pháp quốc tế qua
các thời đại và tái cấu trúc chúng theo ba nguyên tắc thì nền tảng pháp quyền
trên biển sẽ trở thành một vấn đề tất yếu.
Đầu tiên, các quốc gia cần phải thực hiện và làm rõ
yêu sách chủ quyền của mình dựa trên luật pháp quốc tế. Thứ hai, các quốc gia
không nên sử dụng vũ lực hoặc cưỡng ép để cố gắng áp đặt chủ quyền của mình. Và
thứ ba, các quốc gia nên tìm cách giải quyết tranh chấp bằng biện pháp ôn hòa.
Tất cả ba nguyên tắc này rất đơn giản – và gần như hiển nhiên – và chúng cần phải
được nhấn mạnh bởi vì tất cả các chính phủ ở châu Á và Thái Bình Dương đều cần
duy trì chúng một cách chặt chẽ.
Xem xét trường hợp của Indonesia và Philippines vì cả
hai nước này đều đã đạt được thỏa thuận ôn hòa về phân định vùng đặc quyền kinh
tế chồng lấn của họ. Tương tự, chính phủ của tôi ủng hộ mạnh mẽ lời kêu gọi của
Philippines đối với các giải pháp tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông và những điều
đó thật sự phù hợp với ba nguyên tắc của luật biển quốc tế. Chúng tôi cũng hỗ
trợ những nỗ lực của Việt Nam trong việc giải quyết mâu thuẫn chủ quyền lãnh thổ
thông qua đối thoại.
Thay vì cố gắng củng cố thay đổi tình trạng hiện tại
bằng cách lấp lấn một việc đã rồi sang một tình trạng khác, các chính phủ trong
khu vực nên thực hiện một cam kết vững chắc để trở lại với tinh thần và các quy
định của Tuyên bố năm 2002 về Cách Ứng xử của các bên ở Biển Đông, mà tất
cả các bên liên quan đã cùng đạt thỏa thuận. Trong thế giới ngày nay, các quốc
gia không nên lo sợ rằng sự ép buộc và đe dọa [quân sự] sẽ thay thế các quy định
và pháp luật. Tôi rất hy vọng rằng các quốc gia thành viên trong khối ASEAN và
Trung Quốc có thể nhanh chóng thiết lập một bộ quy tắc ứng xử thực sự hiệu quả
dành riêng cho khu vực Biển Đông.
Trong nhiệm kỳ thủ tướng đầu tiên, tôi và cựu Thủ tướng
ôn Gia Bảo đã đồng thuận về điều này. Chúng tôi đã cam kết hai nước cùng tạo ra
cơ chế truyền thông trên biển cũng như trên không nhằm ngăn chặn các sự cố
không lường trước được giữa hai nước từ các vụ căng thẳng và tính toán sai lầm.
Thật không may, cam kết này cho đến nay vẫn chưa được thực hiện.
Chúng tôi không hoan nghênh việc máy bay chiến đấu
và tàu biển đụng độ nhau một cách nguy hiểm. Những gì Nhật Bản và Trung Quốc cần
làm là trao đổi bằng từ ngữ. Phải chăng chúng ta nên gặp nhau tại bàn đàm phán,
trao đổi và bắt tay, và thực sự ngồi xuống để nói chuyện?
Tôi tin rằng thực hiện thỏa thuận hồi năm 2007 mà
hai nước đã đạt được sẽ thúc đẩy sự nghiệp hòa bình và ổn định trong toàn khu vực.
Nhưng tôi cũng biết rằng việc đảm bảo an ninh lâu dài sẽ đòi hỏi phải có nhiều
hiệp định hơn như thế này vì mỗi nước là một sợi dây quan trọng trong trang lưới
tự do và thịnh vượng.
©
2014 Bản tiếng Việt TẠP CHÍ PHÍA TRƯỚC – www.phiatruoc.info
No comments:
Post a Comment