Thứ
năm, ngày 07 tháng ba năm 2013
Để trả lời câu hỏi: Tại sao đảng cộng sản Việt nam
vẫn kiên quyết “cố thủ” điều 4 hiến pháp, nhiều nhà nghiên cứu lý luận đã có
những bài viết phân tích về vấn đề này. Ở đây tôi chỉ muốn đưa ra vài suy nghĩ
nhỏ về việc đảng đang cố bấu víu vào ý thức hệ cộng sản (Marx) ở Việt nam như
chiếc phao cứu sinh cho thể chế độc tài (thực chất là quyền lợi phe nhóm) mà hy
sinh quyền lợi dân tộc.
Amartya Kumar Sen là nhà kinh tế học, triết gia Ấn
Độ. Năm 1998, ông giành được giải Nobel kinh tế (tức giải thưởng về khoa học
kinh tế được trao bởi Ngân hàng Thụy Điển) bởi những đóng góp về: kinh tế phúc
lợi, công trình về sự khan hiếm các nguồn lực, nguyên lý phát triển con người,
những cơ chế nằm bên dưới sự nghèo nàn và lý thuyết về chủ nghĩa tự do chính
trị.
Khi quan sát hiện tượng chậm tiến, nghèo đói và xã
hội vô chính phủ ở những nước Á, Phi và Nam Mỹ trong vòng nửa thế kỷ qua, ông
Amartya Sen đã thấy rằng hễ nơi nào có
độc tài là nơi đó có chậm tiến. Qua công trình nghiên cứu này, ông đã đi
đến kết luận là có sự liên hệ ( corrélation) giữa độc tài và chậm tiến. Ông
tuyên bố : “Qua nửa thế kỷ qua, người ta thấy dân tộc các nước Á châu, Phi
châu, Nam mỹ chậm tiến ít bị ảnh hưởng bởi thiên tai và các tác động khách quan
mà nguyên nhân chính là do những chính quyền độc tài bản xứ.” Công trình nghiên
cứu này đã đưa ông đến giải Nobel kinh tế năm 1998.
Không ai phủ nhận Việt nam là một quốc gia nghèo.
Thậm chí còn là một quốc gia đứng trong số những nước nghèo nhất thế giới. So
sánh với các nước khác có điều kiện địa chính trị, hoàn cảnh lịch sử như Việt
nam, nước ta là quốc gia chậm tiến. Có thể nói rằng sự chậm tiến này liên quan
hữu cơ, nếu không nói là yếu tố quyết định cho sự cho sự chậm tiến, kém phát
triển của Việt nam chính là sự vận hành của chế độ hiện hữu: một thể chế
độc tài theo ý thức hệ cộng sản.
Thế nào là “Ý thức hệ”? Theo tôi hiểu ý thức hệ là
tư tưởng có hệ thống được tác tạo bởi một (hoặc) nhóm người được xã hội tự giác
hoặc bị cưỡng bức (thông qua tuyên truyền) thừa nhận, trở thành một trào lưu,
ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội.
Việt nam chưa bao giờ có một hệ tư tưởng của mình.
Ngay cả Trung quốc hoặc Liên xô trước đây cũng không có một hệ tư tưởng mà thực
ra họ đã chọn lựa đi theo ý thức hệ của Marx, một hệ tư tưởng được thai
nghén từ một nước tư bản châu Âu, lớn lên ở một nước phong kiến quân chủ nửa
Tây nửa Đông là nước Nga Sa hoàng, biến thể ở một nước phong kiến phương đông
hoang dã là Trung quốc và trở nên già cỗi, quặt quẹo ở Việt nam, Cu ba, Bắc
Triều Tiên.
Nếu nhìn lại lịch sử Việt nam từ khi thành lập đảng
cộng sản đến nay ta thấy có ba giai đoạn của sự du nhập, phát triển ý thức hệ
cộng sản ở Việt nam. Từ năm 1930 đến năm 1945, các lãnh tụ đảng CS Việt nam
nhiệt thành với ý thức hệ Marx. Từ năm 1945 đến năm 1990, họ bị (được) ý thức
hệ Marx cưỡng dâm thông qua các bàn tay lớn từ Liên xô, Trung quốc. Từ
năm 1990 đến nay, ý thức hệ Marx chỉ còn tồn tại trong các văn bản của đảng,
nhà nước trên danh nghĩa còn trong thực tế ý thức hệ hoang tưởng này đã trở
thành tấm áo tả tơi trước cơn bão thông tin toàn cầu.
Nói như vậy không có nghĩa ý thức hệ Marx là thứ
vứt đi mà nó vẫn còn rất quý giá bởi trong hoàn cảnh của vài nước XHCN còn sót
lại trên thế giới, nó là chiếc pháo cứu sinh cho giới cầm quyền bám víu khi con
tàu “Titanic thể chế” đã đâm vào núi băng sự thật.
Đứng trước nguy cơ bắc thuộc trước mắt, đảng cộng sản Việt nam không hề
lưu tâm trước chủ quyền đất nước bị xâm phạm mà chỉ lo giữ thể chế. Chẳng thế mà một ông tướng của quân đội “nhân dân” Việt nam, thượng
tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Quốc Phòng khẳng định tính cách tương đồng
của Hà Nội và Bắc Kinh cùng chung một ý thức hệ Cộng sản sẽ giúp cho sự nghiệp
xây dựng CNXH dễ dàng hơn.
Thứ trưởng Vịnh công nhận rằng “Nền tảng di sản đó chi phối cách ứng xử của
hai nước. Một trong những đặc trưng của ý thức hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc
là một Đảng Cộng sản lãnh đạo. Nếu có được một người bạn XHCN rất lớn bên cạnh
ủng hộ và hợp tác cùng có lợi thì sẽ vô cùng thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng
CNXH ở Việt Nam.”
Trên thực tế, đảng CS Trung Quốc đâu có còn theo
đuổi ý thức hệ Marx trên con đường CNXH. Vậy mà Việt Nam lúc nào cũng xác tín
“kiên định chủ nghĩa Marx-Lê”. Chúng ta đã biết, thiếu tướng Nguyễn Trọng
Vĩnh một nhà ngoại giao lão thành từng giữ chức Đại sứ đặc mệnh toàn quyền tại
Bắc Kinh cho hay:
“Truyền thống ông cha đến giờ thì thời kỳ nào Trung Quốc cũng xâm lược
Việt Nam thì làm gì có truyền thống hữu nghị? Chẳng qua là bịa ra thôi. Hai nữa
là cái Ý thức hệ tương đồng cũng không đúng bởi vì từ khi ông Đặng Tiểu Bình
ông ấy phát biểu câu “mèo trắng mèo đen mèo nào bắt được chuột thì là mèo tốt”
thế nghĩa là ông ta đã đi theo con đường tư bản rồi, đã bỏ con đường Xã hội chủ
nghĩa mặc dầu ông ấy vẫn nói XHCN mang mầu sắc Trung Quốc.
Trong thực tế ông ta đã đi con đường tư bản chủ nghĩa và hiện giờ xã hội
Trung Quốc là một xã hội tư bản, phát triển chưa đầy đủ chứ không phải là xã
hội chủ nghĩa, không tìm thấy cái gì gọi là XHCN. Tôi cho ông Nguyễn Chí Vịnh
nói thế là không đúng, là cố nói lấy được mà thôi”.
Sự thật là
Người ta nói ở VN chủ nghĩa cộng sản chỉ là chủ
nghĩa phong kiến thời hiện đại, cha truyền con nối. Con vua thì được làm vua,
không có bất kỳ cơ hội nào cho nhừng ai không phải là đảng viên cộng sản mà
muốn làm lãnh đạo! Ở VN các vị trí cao trong chính phủ đã được sắp xếp chia
chác bởi những người chủ chốt trong đảng, là sự thoả hiệp giữa các lãnh tụ để
bảo đảm cho con cháu họ thừa kế.
Trước đây, ông Nông Đức Mạnh đưa con trai Nông quốc
Tuấn vào TƯ với chức Bí thư tỉnh uỷ. Ông Lê Đức Anh thu xếp để con trai Lê Mạnh
Hà làm Phó chủ tịch UBND TPHCM, con dâu là Nguyễn Thị Doan (hỗn danh là
Doan chém gió) làm Phó chủ tịch nước. Ông Nguyễn Tấn Dũng có con là
Nguyễn Thanh Nghị làm Thứ trưởng Bộ Xây dựng làm bước đệm cho chức Bộ
trưởng sau này và con trai thứ Nguyền Minh Triết mới vào Trung ương Đoàn…vân
vân.
Vì vậy nên có mất nước, đảng vẫn phải bám lấy điều 4 Hiến pháp để bảo
đảm quyền lực cho con cháu của Đảng.
Bất kỳ quốc gia nào cũng phải đổi mới cho phù hợp
với sự vận động của lịch sử để đi lên. Bất cứ hành động nào cũng được hướng dẫn
bởi tư tưởng. Đất nước nào cũng cần được dẫn hướng bởi một ý thức hệ. Tuy nhiên
nó phải được đối chiếu với thực tế và cần phải được sửa sai, (nếu nó không phù
hợp với thực tế). Nay đóng khung tư tưởng thành ý thức hệ Marx, “kiên định điều
4 hiến pháp” như khuôn vàng, thước ngọc nhằm đổ bê tông cho chiếc ghế lãnh đạo
đất nước của đảng cộng sản, nhất định bắt thực tế phải đi theo tư tưởng bằng bất
cứ giá nào, thì khác gì “đẽo chân cho vừa giày”. Đó cũng là quy luật, là thảm
trạng của ý thức hệ Marx và những người áp dụng nó. Sự độc tôn độc tài đã gây
ra quá nhiều sai lầm trong quá khứ và tạo nên sự tụt hậu của đất nước ngày nay,
chưa kể nguy cơ sẽ đưa dân tộc Việt nam đến chỗ trở thành con tin của chủ nghĩa
dân tộc Đại Hán.
Mai Xuân Dũng
No comments:
Post a Comment