25 năm hải chiến
Trường Sa
Nguyễn Tú
11/03/2013 6:45
(TNO) 25 năm trước, ngày 14.3.1988, 64 người con đất Việt đã ngã
xuống biển Đông trước họng súng quân xâm lược Trung Quốc. Sự hy sinh anh dũng
của những người lính Việt Nam đã biến địa danh Gạc Ma (thuộc cụm đảo Sinh Tồn,
quần đảo Trường Sa, tỉnh Khánh Hòa) trở thành bất tử.
Những ngày tháng 3 này dường như đang trôi nhanh đối với hơn 50
cựu chiến binh, thân nhân của những liệt sĩ từng chiến đấu ngoan cường nơi Gạc
Ma khi họ hội ngộ cùng nhau. Thanh Niên Online đã tìm gặp những người
anh hùng năm xưa, những người thân nơi quê nhà của họ để nghe kể về cuộc chiến
bi hùng này.
Kỳ 1: Cuộc xâm lược
của Trung Quốc
Tháng 3.2013, trời Đà Nẵng chuyển lạnh đột ngột vì gió mùa đông
bắc, cơ thể hai cựu binh của trận hải chiến Gạc Ma 1988 là Phan Văn Đức và
Dương Văn Dũng cũng trở chứng theo. Nhưng không chờ những cơn đau của những
thương tích ấy “nhắc nhở”, trong lòng họ vẫn đau đáu một ký ức như mới ngày hôm
qua.
Xem hình
và video tại trang chính : http://www.thanhnien.com.vn/pages/20130310/25-nam-hai-chien-truong-sa.aspx
Ra đi
Năm 1988 anh Phan Văn Đức chiến đấu ở Gạc Ma, Trường Sa. Nay, anh
ở trong căn nhà nhỏ nằm trong con hẻm đường Hoàng Sa ven biển (P.Mân Thái,
Q.Sơn Trà, TP.Đà Nẵng).
Càng đến gần ngày 14.3, anh Đức càng khó ngủ. Mờ sáng, anh bước
vài bước ra quán cà phê Biển Đảo của ngư dân câu mực Trần Văn Mười và nhìn đăm
đăm ra phía biển.
Anh Đức nguyên trú khu vực tổ 5 An Thị (P.An Hải Tây, Q.Sơn Trà),
lớn lên bằng nghề bốc xếp và đi biển. Tuổi đôi mươi, anh cùng người bạn thân là
liệt sĩ Lê Thế ở gần nhà nhập ngũ vào tháng 3.1987.
Nhập ngũ cùng thời gian còn có anh nông dân Dương Văn Dũng, tạm
biệt đám ruộng ở khu vực Bình An (nay thuộc P.Hòa Cường Bắc, Q.Hải Châu, TP.Đà
Nẵng). Sau 6 tháng huấn luyện ở Hội An, họ được giao về Trung đoàn 83 công binh
(Vùng 3 Hải quân) đóng tại Q.Sơn Trà, TP.Đà Nẵng.
Anh Đức được phân công làm anh nuôi cho đơn vị, còn anh Dũng là
lính công binh. Một đêm đầu tháng 3.1988, mọi người nhận nhiệm vụ đi Cam Ranh,
Khánh Hòa và sau đó lên tàu HQ 604 thẳng tiến ra Trường Sa.
Anh Dũng kể, 20 giờ ngày 11.3, anh cùng mọi người lên tàu HQ 604
của Lữ đoàn 125 do Vũ Phi Trừ làm thuyền trưởng, đưa 70 công binh Trung đoàn 83
và 22 chiến sĩ Lữ đoàn 146 rời Cam Ranh.
Khoảng 15 giờ ngày 13.3, tàu đến đảo Gạc Ma và tiến hành làm dây,
hạ xuồng, đưa vật liệu vô để chuẩn bị xây dựng.
Thế nhưng chỉ khoảng 1 tiếng sau là tàu Trung Quốc liên tục đưa
xuồng quần thảo cắt dây vận chuyển của tàu HQ 604, dùng loa yêu cầu tàu HQ 604
phải nhổ neo gấp bằng tiếng Việt.
“Trung tá Trần Đức Thông, Lữ đoàn phó Lữ đoàn 146, vùng 4 Hải quân
đã động viên anh em. Thiếu úy Trần Văn Phương cũng động viên, nói rằng vợ anh
sắp sinh nhưng vẫn sát cánh cùng anh em nên không phải lo”, anh Phan Văn Đức
nhớ lại.
Đến 21 giờ cùng ngày, tàu HQ 604 khẩn trương thả xuồng nhôm để đưa
người và vật liệu xuống bám giữ đảo Gạc Ma và quyết làm nhà trên đó.
Lúc 3 giờ sáng ngày 14.3.1988, các chiến sĩ đã cắm được cờ Tổ quốc
lên bãi đá Gạc Ma.
Anh Đức kể, đến 4 giờ sáng, khi mặt trời lên anh Đức đã cùng
khoảng 20 - 30 chiến sĩ bơi vô đảo nhưng chỉ mang theo 2 khẩu súng AK 47. Hai
khẩu súng này giấu rất kỹ, không để phía Trung Quốc phát hiện vì mục đích của
phe ta là vừa phòng vệ nhưng vẫn giữ hòa khí.
“Trong đêm ở trên đảo, anh em tụi tôi đã xác định đụng độ với
Trung Quốc là không còn đường về vì tàu họ quá hiện đại. Nhưng tụi tôi chấp
nhận, vì nghĩ núi rừng còn chạy được chứ trên trời dưới biển thì làm sao tránh
được”, anh Đức nói.
Chiến
sự
Không khí lúc đó hết sức căng thẳng.
“Phía bên ngoài, Trung Quốc bao vây quá đông, lúc đó chúng tôi chỉ
mặc quần đùi, áo may ô. Thiếu úy Trần Văn Phương, Phó chỉ huy trưởng đảo Gạc
Ma, cắm cờ Tổ quốc giữ đảo rồi bất ngờ bị phía Trung Quốc bắn chết. Ngay lúc ấy
anh Nguyễn Văn Lanh liền nhảy lên gạt súng, xô ngã tên bắn anh Phương nhưng
chính anh đã bị tên khác đâm lê vào sau lưng. Lúc đó chúng tôi chỉ dùng tay
không đánh nhau với địch vì ai cũng nghĩ mất cờ là mất đảo” - anh Đức thuật
lại.
“Lúc ấy, tôi hỏi anh em là 2 cây súng AK đâu rồi, thì được biết là
mọi người đã dụi xuống biển trước đó để tránh bị hiểu lầm. Lúc đó tôi nghĩ mình
chỉ cần 1 cây súng thôi thì ít nhất cũng bắn được trên chục mạng vì lính Trung
Quốc đứng rất đông”, anh Đức sục sôi.
Khoảnh khắc ấy không bao giờ phai mờ trong tâm trí của anh Đức.
“Trước thái độ cương quyết giữ đảo của phe ta trên bãi đá Gạc Ma, phía Trung
Quốc bất ngờ bắn một loạt đạn dày đặc. Tôi nhớ đạn dày đến nỗi lúc đó chỉ có
đạn tránh người thôi chứ người không thể tránh đạn. Tôi bị trúng đạn ở vai trái
ngã xuống nước, khi trồi lên tôi bơi về phía tàu HQ 604. Khi gần đến tàu, tôi
thấy tàu Trung Quốc bắn liền 2 quả, 1 quả chớp đỏ nổ cabin tàu HQ 604, quả còn
lại làm tàu lật luôn”.
Cùng đường, anh Đức ôm một cây gỗ bơi lại vào bãi đá thì được đồng
đội dùng xuồng vớt lên và đưa về đảo Sinh Tồn.
Còn về phần anh Dũng, tàu HQ 604 bị bắn chìm khi anh ở trong bệ
cẩu nằm giữa tàu. Ngoi lên mặt nước thì đạn địch bắn rất rát. Anh ngoi lên hụp
xuống vài lần thì vớ được một thùng gỗ chứa lương khô và bơi ra xa.
Lần lượt anh với tìm được 2 cây gỗ, cùng 2 đồng đội khác ghép ván
tạo thành bè rồi cả 3 người ngồi lên trên. Họ trôi dạt đến 18 giờ cùng ngày thì
bị tàu Trung Quốc bắt giữ, cùng với 6 đồng đội khác bị đưa về Quảng Đông. (còn
tiếp)
Nguyễn Tú
Hải quân TQ nổ súng chiếm một phần quần đảo Trường Sa ngày 14/3/1988, sát
hại 64 chiến sỹ Việt Nam. Tư liệu của phía TQ:
http//www.youtube.com/watch?v=fVQOqJeDIcY&feature=player_embedded
25 năm hải chiến
Trường Sa
Thanh Hùng
12/03/2013
6:35
(TNO)
Như một thước phim quay chậm, cận cảnh vào từng nhát cắt bi hùng Gạc Ma, dòng
hồi tưởng của cựu chiến binh Lê Hữu Thảo (quê Hà Tĩnh) khắc họa chân thật nhất
giây phút ngạo mạn, man rợ của quân xâm lược Trung Quốc. Giây phút ấy cũng làm
nên huyền thoại của những người anh hùng đất Việt.
Xem hình nơi trang
chính : http://www.thanhnien.com.vn/pages/20130310/25-nam-hai-chien-truong-sa-ky-2-anh-hung-dat-viet.aspx
Trong
trận chiến Gạc Ma, anh Lê Hữu Thảo chính là người đã cứu mạng anh hùng Nguyễn
Văn Lanh, cũng là người tìm và bảo quản xác của Anh hùng lực lượng vũ trang
Trần Văn Phương, người đã ngã xuống để giữ cho cờ Tổ quốc tung bay tại đây.
Lê
Hữu Thảo (quê ở xã Hương Thủy, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh) tính tình vui vẻ,
gương mặt trẻ hơn nhiều so với tuổi thực.
Tháng
12.1986, anh lên đường nhập ngũ. Hết thời gian huấn luyện tân binh, anh được
biên chế vào Lữ đoàn 147 Quân chủng Hải quân, sau đó về Tiểu đoàn 3, tiểu đoàn
chiến đấu thuộc Lữ đoàn 147. Đầu năm 1988, đơn vị anh nhận lệnh tăng cường cho
Lữ đoàn 146 đóng tại quân cảng Cam Ranh, Khánh Hòa. Sau khi vào Cam Ranh, đơn
vị anh được được bổ sung vào một đại đội mới được thành lập để đi làm nhiệm vụ
đặc biệt tại Trường Sa. Trần Văn Phương chính là đại đội phó của anh, còn anh
được cử làm tiểu đội trưởng.
Phải
thuyết phục rất nhiều lần, cựu chiến binh Lê Hữu Thảo, người đã tham gia chỉ
huy việc cắm cờ Tổ quốc trên đảo Gạc Ma mới gật đầu cho chúng tôi chép lại
những dòng hồi ức về khoảnh khắc đó. Bởi mỗi lần nhắc lại lịch sử là mắt anh đỏ
hoe vì nhớ đồng đội, trang hồi ức mà chúng tôi chép lại dưới đây cũng nhòe đi
khi anh Thảo nhắc đến những người đã mãi mãi nằm lại giữa biển khơi, hòa xương
máu của mình vào từng cánh sóng, ngày đêm vỗ về đất mẹ
Anh
Thảo chậm rãi kể:
"Chiều
13.3.1988, sau khi vượt trên 400 hải lý trong thời tiết giông tố thì tàu cập
bãi đá ngầm Gạc Ma. Tại đây, chúng tôi đã đối mặt với tàu chiến của Trung Quốc.
Chúng tôi bắc tay làm loa nói về phía tàu Trung Quốc: “Đây là lãnh thổ của nước
CHXHCN Việt Nam, yêu cầu tàu Trung Quốc phải lập tức rời khỏi khu vực này”.
Phía Trung Quốc cũng phát tín hiệu yêu cầu chúng tôi rời Gạc Ma. Sau một hồi
đôi co, tàu chiến Trung Quốc bỏ đi.
Tối
hôm đó, chúng tôi quây quần bên nhau, vì mới về cùng đơn vị nên hầu như anh em
chưa biết mặt, thuộc hết tên của nhau. Chúng tôi vui vẻ trò chuyện về đời tư,
quê quán, hoàn cảnh gia đình của nhau. Hầu hết cán bộ chiến sĩ đều bình tĩnh
trước sự khiêu khích của phía Trung Quốc. Mọi người bảo nhau đi ngủ để lấy sức ngày
mai tiếp tục làm nhiệm vụ.
Rạng
sáng 14.3.1988, chúng tôi dậy từ rất sớm. Tôi được anh Phương (Trần Văn Phương)
và anh Phong - đại đội trưởng - giao nhiệm vụ xuống bãi đá ngầm để chỉ huy việc
cắm cờ. Tôi cùng anh Phương, anh Phong, cậu Tư, cậu Chúc lên xuồng công binh đi
vào đảo Gạc Ma.
Mấy
anh em lội vào đảo, cắm một cây cọc cao chừng 3 m để làm thân buộc cán cờ vào
đó. Thủy triều bắt đầu lên, trên tàu, anh em công binh chuẩn bị bốc vật liệu để
chở vào đảo xây nhà giàn phục vụ việc đóng quân, khẳng định chủ quyền của Việt
Nam.
Lúc
đó, cậu Lanh ở đơn vị công binh E83 đang ở trên tàu cũng nhảy xuống bơi vào chỗ
mấy anh em đang chuẩn bị cọc cắm cờ. Cùng lúc đó, có 3 chiếc tàu chiến Trung
Quốc xuất hiện. Chúng nhanh chóng hạ xuồng, cho quân đổ bộ vào đảo, gần 50 tên
lính Trung Quốc chĩa súng đứng thành hình vòng cung bao vây chúng tôi. Khoảng
cách giữa chúng tôi và lính Trung Quốc rất gần nhau, chỉ khoảng chừng 1 m.
Sau
khi đổ bộ, chúng còn cho xuồng máy chạy vòng quanh tàu HQ 604, chĩa súng đại
liên lên tàu khiêu khích. Lúc đó, chúng tôi và anh em trên tàu hết sức bình
tĩnh, thậm chí còn móc gói thuốc lá Mai chia nhau hút, động viên nhau tiếp tục
làm công việc của mình.
Mặc
cho phía Trung Quốc liên tục khiêu khích, có thái độ trấn áp, các anh em công
binh vẫn tiếp tục bốc vật liệu xuống xuồng và chở vào đảo, trên xuồng lúc đó có
hơn 10 người. Khi xuồng công binh vào đến bãi cạn, lá cờ Tổ quốc được anh em
chuyền tay nhau đưa vào cọc để cắm.
Khi
quốc kỳ Việt Nam từ anh Phong trao đến tay anh Phương bắt đầu tung bay thì tên
chỉ huy rút súng bắn chỉ thiên, ra lệnh cho quân lính nổ súng. Lúc đó, anh
Phương đang cầm lá cờ Tổ quốc nên bị chúng bắn đầu tiên. Anh Phong, anh Phương
và nhiều chiến sĩ công binh hy sinh ngay tại chỗ.
Súng
AK, súng máy hạng nặng, pháo từ 3 tàu chiến Trung Quốc bắn xối xả vào bộ đội ta
trên đảo và tàu HQ 604. Cả tàu HQ 505 tại đảo Cô Lin, tàu HQ 605 tại đảo Len
Đao cũng bị pháo kích nặng nề.
Tôi
và cậu Tư bị ba tên lính Trung Quốc đứng rất gần chĩa súng vào ngực định bắt
sống. Khi một tên vừa nắm lấy Tư thì tôi xông vào cứu, một tên khác dùng lưỡi
lê đâm thẳng nhưng tôi may mắn tránh được. Tôi không cứu được Tư và phải lặn
sâu xuống nước để tránh được đạn. Mỗi khi tôi ngoi lên lấy hơi là chúng lại xả
súng bắn. Không hiểu sao tôi lại may mắn không bị thương khi khoảng cách giữa
tôi và bọn chúng rất gần, súng chúng bắn xối xả mà không trúng. Khi tôi lặn ra
phía xa ngoi lên thì thấy lửa đạn bao trùm tàu HQ 604 và chỉ trong chốc lát tàu
chìm hẳn.
Sau
khi tàu của ta chìm, quân Trung Quốc nhanh chóng rút lên tàu của chúng.
Một số ít lính của chúng rút ra xa phía góc đảo và không bắn nữa. Tôi bơi trở
lại thì thấy chiếc xuồng công binh bị bắn thủng, hư hỏng nặng. Có khoảng 6 đồng
đội sống sót đang bám vào mạn xuồng. Tôi bảo mọi người nhanh chóng tản ra, nếu
như quân Trung Quốc tiếp tục pháo kích thì còn đỡ thương vong. Bản thân tôi
tiếp tục bơi đi tìm những đồng đội bị thương, bị hy sinh.
Tôi
và Chúc cứu được cậu Lanh bị thương nặng và vớt được xác của anh Phương đưa lên
xuồng. Tôi tiếp tục bơi lại nơi tàu chìm và tìm thấy anh Hải bị thương nặng
(anh Hải hiện nay đang là Phó tham mưu trưởng BCH quân sự tỉnh Thanh Hóa). Lúc
này, thủy triều đã lên cao, nước chảy mạnh, chúng tôi đã rất mệt nên không thể
bơi được nữa. Đến quá trưa, nước đã lên quá đầu, chúng tôi bảo nhau xé áo nút
những chỗ thủng lại, dùng tay tát nước ra ngoài. Lúc đó, trên xuồng có thương
binh và thi thể anh Phương nên một số anh em phải bám vào hai bên mạn xuồng,
dùng tay chèo về phía tàu HQ 505.
Bơi
được khoảng một tiếng thì chúng tôi tìm được cậu Hưng, quê ở Hải Phòng, là máy
trưởng tàu HQ 604 đang bơi trên biển. Cũng lúc đó, tàu HQ 505 phát hiện thấy
chúng tôi và cho xuồng máy ra đón về, đến khoảng 4 giờ chiều thì chúng tôi lên
được tàu HQ 505.
Tối
hôm đó, chúng tôi đưa thi thể anh Phương về đảo Sinh Tồn lớn. Cả đêm hôm đó,
tôi và Chúc thức trắng đêm để túc trực bên cạnh xác anh Phương. Sáng hôm sau,
đơn vị trên đảo đã tổ chức an táng anh Phương theo nghi thức quân đội.
Khoảng
10 ngày sau thì chúng tôi được tàu của quân chủng ra đón về đất liền. Nghe tin,
đồng bào cả nước quan tâm chúng tôi lắm. Rất nhiều quà, thư từ, sách báo được
đồng bào, đồng chí trên cả nước gửi đến động viên. Xúc động lắm!".
Sau
bao năm bôn ba, tìm về đồng đội cùng các mạ của anh em đơn vị, người cựu chiến binh
Lê Hữu Thảo đúc kết: “Nếu nói đây không phải là một trận chiến cũng không sai.
Chính xác đây là một sự kiện, sự kiện quân xâm lược Trung Quốc bất ngờ nổ súng
sát hại bộ đội ta. Chúng ta yêu chuộng hòa bình, chủ trương giải quyết tranh
chấp bằng con đường hòa bình, không sử dụng vũ lực. Chính quân Trung Quốc đã
lợi dụng điều này để bất ngờ xả súng vào bộ đội của ta”.
*
Anh hùng Gạc Ma - Trường Sa
Sự anh dũng hy sinh và chiến đấu ngoan cường của các chiến sĩ
trong trận hải chiến Gạc Ma - Trường Sa luôn được những thế hệ sau nhắc
đến.
Một năm sau trận hải chiến ngày 14.3.1988, Chủ tịch Hội đồng Nhà
nước CHXHCN Việt Nam đã phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân
dân cho:
Anh hùng Vũ Huy Lễ (sinh năm 1946, quê ở xã Thái Thọ, huyện Thái
Thụy, tỉnh Thái Bình. Trú quán xã Đằng Hải, huyện An Hải, TP.Hải Phòng.
Khi được tuyên dương Anh hùng, anh là thiếu tá, thuyền trưởng tàu HQ505,
lữ đoàn 125 hải quân).
Anh hùng Nguyễn Văn Lanh (sinh năm 1966, quê ở xã Vạn Ninh,
huyện Lệ Ninh, tỉnh Quảng Bình. Khi được tuyên dương Anh hùng, anh là
trung sĩ, tiểu đội trưởng công binh thuộc đại đội 9, tiểu đoàn 887, trung đoàn
83, Quân chủng Hải quân)
Anh hùng liệt sĩ Trần Văn Phương (sinh năm 1965, quê ở xã Quảng
Phúc, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Khi hy sinh anh là thiếu úy, Phó
chỉ huy trưởng đảo Gạc Ma, lữ đoàn 146 Vùng 4 hải quân.)
Anh hùng liệt sĩ Vũ Phi Trừ (sinh năm 1957, quê ở xã Quảng Khê,
huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa. Khi hy sinh anh là đại úy, thuyền trưởng tàu
HQ604 thuộc lữ đoàn 125, Quân chủng Hải quân)
Anh hùng liệt sĩ Trần Đức Thông (sinh năm 1944, quê ở xã Minh
Hòa, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Khi hy sinh anh là trung tá, Phó lữ đoàn
trưởng lữ đoàn 146, Vùng 4 thuộc Quân chủng Hải quân, nguyên Phó chủ tịch UBND
huyện Trường Sa, tỉnh Khánh Hòa)
Ngoài ra, tàu HQ-505, với nhiệm vụ vận chuyển vật liệu cho bộ
đội xây dựng công trình ở quần đảo Trường Sa, khi ấy đã mở hết tốc độ lao lên
bãi ngầm ở đảo Cô Lin cắm cờ khẳng định chủ quyền Tổ quốc. Khi thấy tàu HQ-604
ở đảo Gạc Ma bị địch bắn cháy và chìm, cán bộ chiến sĩ tàu HQ-505 đã dùng xuồng
cao su cơ động dưới làn hoả lực của địch đến cứu được 44 thương binh đưa về nơi
an toàn. Tàu HQ-505 cũng được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang
nhân dân. (Trích tài liệu của Hội Khoa học lịch sử Bình Dương)
Thanh Hùng
25 năm hải chiến Trường Sa
Nguyễn
Phúc - T.N.Quyền - Nguyễn Tú
13/03/2013
7:00
(TNO)
Khoảnh khắc những người lính bám trụ trên con tàu của hải quân Việt Nam không
kém bi tráng so với hình ảnh quyết tử giữ quốc kỳ trên bãi Gạc Ma, khi tương
quan lực lượng giữa ta và quân Trung Quốc như trứng chọi đá.
Xem hình nơi trang
chính :
Không bao giờ đầu
hàng
22
năm sau khi được phía Trung Quốc trả về nước, cựu binh Trần Thiện Phụng (46
tuổi, trú P.2, TP.Đông Hà, Quảng Trị) giờ đây sức khỏe không tốt, bước đi không
còn nhanh nhẹn, duy đôi mắt sâu hoắm vẫn sáng lên, đôi tay nhăn nheo nắm chặt
khi nhớ về trận chiến năm xưa. Câu chuyện của ông như mới diễn ra hôm qua...
Ông Phụng
là con trai độc nhất trong gia đình có 6 chị em. Ngày 17.3.1987, ông lên
đường nhập ngũ, vào biên chế trung đoàn 83 (thuộc Bộ tư lệnh Hải quân) đóng
quân ở Q.Sơn Trà (Đà Nẵng). Đến tháng 1.1988, ông cùng đơn vị được lệnh
điều chuyển vào quân cảng Cam Ranh (Khánh Hòa) và đến đêm 11.3.1988 bí mật lên
tàu, trực chỉ Trường Sa.
Vào
thời điểm đó có 3 tàu vận tải của hải quân Việt Nam được điều động ra Trường Sa
bảo vệ bãi đá Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao, gồm HQ-604, HQ-605, HQ-505. Ông Phụng
đi trên tàu HQ-604.
Cùng
đi trên tàu với ông Phụng còn có ông Trương Văn Hiền (nay 45 tuổi,
quê gốc Hương Khê, Hà Tĩnh, hiện ngụ tại thôn 3, xã Hòa Thắng, TP.Buôn Ma
Thuột, Đắk Lắk).
Năm
1986, tròn 18 tuổi, Hiền xung phong đi bộ đội, vào quân chủng hải quân, được
huấn luyện làm chiến sĩ đo đạc hải đồ ở Quảng Ninh. Đầu năm 1988, ông được
về phép ăn tết ở quê rồi cùng đồng đội đi tàu hỏa từ Hải Phòng vào Cam Ranh
nhận nhiệm vụ ra Trường Sa.
Theo
ông Phụng, khi ấy tương quan hai bên là không đồng đều khi ta chỉ có súng cá
nhân, tàu vận tải trong khi phía Trung Quốc là tàu chiến với pháo 100 ly. Lúc
nổ súng, Phụng cùng một số anh em được giao nhiệm vụ ở lại để bảo vệ tàu
HQ-604, đồng thời dùng tàu này để lập phòng tuyến, cản hướng tấn công của tàu
Trung Quốc.
“Tôi
nằm bắn ở mũi tàu và bị trúng đạn ở cánh tay, máu ra lênh láng trong khi loạt
pháo đầu tiên giặc hướng về phía ca bin. Tôi gọi đồng đội cũng là hàng xóm của
mình là Hoàng Ánh Đông khi đó đang trong ca bin thì không còn nghe thấy tiếng
trả lời. Sau 2 loạt pháo nữa thì HQ-604 chìm dần, dù vậy tôi nghe thấy lác đác
tiếng súng bắn trả của đồng đội về phía tàu Trung Quốc”, thời khắc sinh tử vẫn
còn nguyên vẹn trong ký ức ông Phụng.
Còn
với Trương Văn Hiền, từ trên tàu ông có thể thấy rõ các đồng đội của mình nắm
tay nhau thành vòng tròn giữ đảo sau loạt súng của quân Trung Quốc.
“Sự
việc xảy ra quá nhanh, vì tàu của ta không trang bị hỏa lực mạnh ngoài những
khẩu tiểu liên AK nên nhanh chóng bị đạn pháo từ tàu chiến Trung Quốc bắn chìm.
Lúc đó tôi ở mũi tàu, bị thương do mảnh đạn pháo, tàu chìm nên vội nhảy xuống
nước ôm lấy một mảnh gỗ, trôi ba ngày hai đêm trên biển. Chỉ trong tích tắc là
tàu HQ-604 chìm, 64 chiến sĩ của ta hy sinh và mất tích ngay trên vùng biển đảo
chủ quyền của Tổ quốc”, ông Hiền xúc động kể lại.
|
Ông
Hiền bị một tàu Trung Quốc vớt lên, bắt làm tù binh. Ông Phụng vớ được thanh
gỗ, lênh đênh trên biển từ sáng đến khoảng cuối giờ chiều thì cũng bị quân
Trung Quốc bắt.
“Lúc
này sức tôi đã kiệt, một tay bị thương và một tay phải bám vào thanh gỗ, lính
Trung Quốc chĩa súng kêu giơ tay đầu hàng thì tôi chỉ lắc đầu và thiếp đi. Về
sau khi chúng tra hỏi “sao lúc đó chúng tao bảo mày giơ tay hàng mà mày không
hàng” thì tôi vẫn nói cứng: Lính Việt Nam không được dạy cách đầu
hàng...”, ông Phụng quả quyết.
Bị
bắt
Ông Phụng, ông
Hiền, ông Dương Văn Dũng (Đà Nẵng) cùng 6 người lính Hải quân Việt
Nam bị giam tại tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc; mỗi buồng giam một người.
Quân
Trung Quốc tra tấn ông Hiền liên miên. “Khoảng ba tháng đầu, chúng tôi bị
phía Trung Quốc liên tục tra khảo, đánh đập để hỏi cung, bắt khai vị trí các
căn cứ quân sự của ta, có loại vũ khí nào… Nhưng lần nào tôi cũng chỉ trả lời
là tân binh, mới được huấn luyện rồi đưa ra Trường Sa, không thể biết các thông
tin về quân sự”, ông Hiền nhớ lại.
Thời
gian đằng đẵng trôi đi, gần như các ông không ai biết gì bên ngoài. Hơn 3 năm
sau, khi có Hội Chữ thập đỏ quốc tế đến thăm thường xuyên, các ông mới bắt
đầu viết thư gửi về nước, báo tin mình còn sống.
Rồi
những bức thư cứ thế mà qua lại, đó là những dòng thư thấm đẫm nước mắt, viết
chi chít chữ để tiết kiệm giấy mà vợ chồng người cựu binh Trần Thiện Phụng vẫn
giữ lại cho đến tận bây giờ. Lần giở những trang giấy bạc màu, rách nát, càng
hiểu thêm tâm trạng của một người lính bị giam lỏng nơi xứ lạ.
Ở
quê nhà, sau trận hải chiến không lâu, gia đình ông Phụng nhận được giấy báo tử
và đồ cá nhân của đời lính. Cha mẹ già, người vợ trẻ và đứa con thơ của ông
Phụng đã bắt đầu tin rằng ông đã hy sinh.
Hung
tin cũng báo về Đà Nẵng, cả 11 gia đình nhận được tin mất tích đều đã lập bàn
thờ, trong đó có nhà ông Dương Văn Dũng.
“Trước
khi ra đảo, anh có về thăm nhà, cuống cuồng vài ngày rồi lại đi, tôi đã biết
điềm chẳng lành. Rồi anh mất tích, tôi đã phải nén mọi nỗi đau để động viên cha
mẹ, buôn bán kiếm tiền nuôi con thì thư về. Có lẽ suốt đời này tôi không quên
cái buổi chiều đó, khi một cán bộ phường cầm bức thư ghi nơi đi là Trung Quốc
vừa chạy vào nhà vừa hét “thư của thằng Phụng, thư của thằng Phụng”.
Tôi òa khóc vì bao tủi hờn đã được giải tỏa, anh còn sống là tốt
rồi”, bà Lê Thị Thiên, vợ ông Phụng vẫn còn ngấn lệ khi nhắc về quá
khứ.
Và
sau ngàn ngày bị giam lỏng, đến ngày 2.9.1991, Trần Thiện Phụng, Dương Văn
Dũng, Trương Văn Hiền và đồng đội mới được bước chân về đất Việt, qua cửa Hữu
Nghị quan.
Khi
về quê Trương Văn Hiền mới biết tên mình nằm trong danh sách 74 chiến sĩ hy
sinh và mất tích trong trận chiến Gạc Ma, gia đình đã lập bàn thờ. Khi nghe tin
ông Hiền "từ cõi chết trở về”, đông đảo người dân trong huyện Hương Khê
đến thăm hỏi, chia sẻ.
*
9 chiến sĩ Trường Sa bị địch bắt làm tù binh
1. Trần Thiện Phụng (P.2, Đông Hà, Quảng Trị)
2. Lê Văn Thoa (TP.Quy Nhơn, Bình Định)
3. Nguyễn Văn Thống (xã Nhân Trạch, H.Bố Trạch, Quảng Bình)
4. Lê Văn Đông (xã Tây Trạch, H.Bố Trạch, Quảng Bình)
5. Mai Văn Hải (xã Liên Trạch, H.Bố Trạch, Quảng Bình)
6. Dương Văn Dũng (P.Hòa Xuân, Q.Cẩm Lệ, Đà Nẵng)
7. Phạm Văn Nhân (thị trấn nông trường Rạng Đông, H.Nghĩa Hưng,
Nam Định)
8. Trương Văn Hiền (thôn 3, xã Hòa Thắng, TP.Buôn Ma Thuột, Đắk
Lắk)
9. Nguyễn Tiến Hùng (Thanh Hóa, đã mất).
Danh sách do ông Trần Thiện Phụng cung cấp (Nguyễn Phúc ghi)
*
Sau bài viết 25 năm hải chiến Trường
Sa - Kỳ 2: Anh hùng đất Việt đăng trên Thanh Niên Online hôm
qua (12.3), được biết cựu binh Lê Hữu Thảo sẽ về dự buổi giao lưu "Hướng về Trường Sa thân
yêu" với sự tham gia của các cựu binh và thân nhân liệt sĩ hy
sinh trong trận chiến bảo vệ Trường Sa, tháng 3.1988 vào ngày 14.3.2013 tại Đà
Nẵng, thông qua báo Thanh
Niên, ông Nguyễn Duy Khánh, Tổng giám đốc Công ty TNHH MTV Thuốc lá
Sài Gòn (đặt tại khu công nghiệp Vĩnh Lộc, TP.HCM), đã quyết định hỗ trợ anh
Thảo (do hoàn cảnh gia đình anh rất khó khăn) số tiền 10 triệu đồng để làm lộ
phí tham gia chương trình trên. Thanh
Niên và cựu binh Lê Hữu Thảo xin chân thành cám ơn Ban giám đốc và
toàn thể nhân viên Công ty TNHH MTV Thuốc lá Sài Gòn. (Tấn Tú)
Nguyễn
Phúc - T.N.Quyền - Nguyễn Tú
25 năm
hải chiến Trường Sa
Trương Quang Nam
14/03/2013
5:00
(TNO)
Đúng ngày này 25 năm trước, ngày 14.3.1988, 64 người con đất Việt đã ngã xuống
biển Đông trước họng súng quân xâm lược Trung Quốc. Sự hy sinh anh dũng của
những người lính Việt Nam đã biến địa danh Gạc Ma (thuộc cụm đảo Sinh Tồn, quần
đảo Trường Sa, tỉnh Khánh Hòa) trở thành bất tử.
Xem hình nơi trang
chính :
Trong
cuộc chiến giữ đảo Gạc Ma, chiến sĩ trẻ Nguyễn Văn Lanh đã anh dũng chiến đấu
giữ ngọn cờ Việt Nam cắm trên đảo, kiên quyết giằng co không cho lính Trung
Quốc cắm cờ. Địch hạ cờ xuống, Lanh lại dựng lên, cho đến khi anh bị quân Trung
Quốc dùng lưỡi lê đâm và bắn vào người…
Từ
buổi sáng 14.3.1988 bi hùng ở Gạc Ma, những người lính trên con tàu HQ 604
không còn uống chung chén nước, ăn chung chén cơm, ngủ chung giường nữa. Mỗi
người lưu lạc một phương trời.
Những
ngày đầu tháng 3.2013, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Văn Lanh
tranh thủ về thăm nhà tại làng quê yên bình Đại Phúc, xã Vạn Ninh, H.Quảng
Ninh, Quảng Bình.
Hiện
mẹ anh, bà Nguyễn Thị Kỷ (77 tuổi) sống một mình trong ngôi nhà nhỏ, là nơi anh
sinh ra và lớn lên. Những ngày anh Lanh về quê, nhà bà Kỷ lúc nào cũng đông vui
như lễ tết. Mọi người tập trung lại ăn cơm, uống chén rượu gạo và chuyện trò.
Người
vui nhất không ai khác là bà Kỷ, cái miệng móm mém của bà không lúc nào thôi
cười. Bà nhớ như in chuyện cách đây 25 năm và kể với tôi rành mạch.
Ngày
đó, khi mới xảy ra sự kiện quân Trung Quốc tấn công chiếm đảo Gạc Ma, bà chỉ
biết loáng thoáng tình hình qua Đài tiếng nói VN, càng về sau càng rõ hơn.
“Nhưng họ cũng chỉ nói là một người tên Lanh, Lanh thì cả nước có biết bao
nhiêu Lanh chứ. Lúc đó tui cũng lo lắm nhưng nghĩ thôi vì lòng căm thù giặc, vì
nghĩa vụ với Tổ quốc, con mình có nằm xuống vì đất nước cũng đành” - bà Kỷ nhớ
lại.
Mãi
hơn 1 tháng sau, khi nhận được thông tin chính xác từ đơn vị, bố anh Lanh (đã
mất) và người anh trai Nguyễn Thanh Long khăn gói vào miền Nam thăm anh tại đơn
vị. Bà Kỷ cũng muốn đi nhưng vì hoàn cảnh, điều kiện nên phải ở nhà. Gặp lại
nhau ở bệnh viện, mấy cha con mừng rơi nước mắt, cứ ôm nhau khóc.
Anh Nguyễn Văn Lanh tâm sự về chuyện muốn đi thăm bạn bè - những đồng đội cũ - trên con tàu lịch sử HQ 604 tại Quảng Bình. Anh bảo: “Bao nhiêu năm, mấy lần đi công tác, về quê nhà, đã hẹn với nhau rồi nhưng cuối cùng chẳng đi được vì trời trở rét, vết thương lại nhức buốt nên phải quay vô TP.HCM cho ấm hơn và để trị bệnh”.
Anh Nguyễn Văn Lanh tâm sự về chuyện muốn đi thăm bạn bè - những đồng đội cũ - trên con tàu lịch sử HQ 604 tại Quảng Bình. Anh bảo: “Bao nhiêu năm, mấy lần đi công tác, về quê nhà, đã hẹn với nhau rồi nhưng cuối cùng chẳng đi được vì trời trở rét, vết thương lại nhức buốt nên phải quay vô TP.HCM cho ấm hơn và để trị bệnh”.
Nghe
thế, tôi nói ngay: “Anh muốn đi đâu em cũng đưa đi, máu xương các anh đã đổ
xuống vì Tổ quốc mà”. Anh nhìn tôi không nói lời nào nhưng ánh mắt sáng lên.
Ngày giỗ sống
Chúng
tôi lên đường và từ đây, một cuộc trở về lịch sử không hẹn mà gặp bắt đầu. Từ
xã Vạn Ninh, chúng tôi theo đường Hồ Chí Minh về quốc lộ 1A, men theo đường
biển Quang Phú rồi ra xã Nhân Trạch để đón anh Nguyễn Văn Thống, người bị Trung
Quốc bắt 3 năm và gia đình đã nhận giấy báo tử. Tiếp tục theo QL 1A ra thị trấn
Ba Đồn, đến vùng nam huyện Quảng Trạch đến nhà anh Trương Đức Nhuân ở thôn Thọ
Hạ, xã Quảng Sơn.
Trên
suốt quãng đường từ Vạn Ninh đến xã Quảng Sơn, điều tôi băn khoăn đó là 25 năm
trôi qua, liệu các anh có còn nhận ra nhau. Anh Lanh khẳng định: “Nhớ chứ, mặc
dù tụi anh không gặp nhau nhưng sao mà quên được từng nét mặt, hành động, cử
chỉ và không gặp nhưng cũng thường xuyên liên lạc với nhau qua điện thoại. Nghe
tin bạn gặp tai nạn, anh cũng gửi tiền ra cho bạn, sống với nhau phải bằng tình
cảm chân thật em à”.
Các
anh gặp lại nhau ở nhà anh Nhuân trong niềm vui vỡ òa, 25 năm rồi chứ ít ỏi gì
nữa.
Điều
đầu tiên là các anh xắn quần, vạch áo sờ lên từng vết sẹo của nhau.
Ngày
ấy, ở tuổi đôi mươi, lứa tuổi vô tư hồn nhiên nhất, thì các anh đã gắn bó với
nhau trong những buổi tập luyện trên thao trường, những lúc sinh hoạt trong
doanh trại. Thời ấy, điều kiện kinh tế khó khăn, các anh nhường nhau từng miếng
cơm, manh áo, có cái gì ngon cũng chia sẻ với nhau. Anh Lanh kể, mình làm nhiệm
vụ đơm cơm cho cấp trên, thế là mình cố tình đơm cho thật nhiều, thành ra chỉ
huy ăn không hết, phần thừa đó mình kêu mấy đứa lên lấy ăn. Ở nhà bếp còn cơm
cháy, anh cũng kêu. Những trò "tăng gia sản xuất” có một không hai cũng
được các anh ôn lại rồi cười vui vẻ.
Ở
cái tuổi tóc đã muối tiêu, các anh vẫn gọi với nhau bằng “tau” và “mi”. “Gọi
thế cho sướng miệng, bọn anh là bạn bè mà, gặp nhau chưa đầy 3 năm để rồi phải
xa nhau từ đó cho đến bây giờ” - các anh bộc bạch.
Với
anh Lanh, từ lúc còn ở đơn vị, mọi người gọi anh là “lép” bởi dáng người gầy
ốm, mỏng manh. Đến bây giờ Lanh vẫn thế. Vừa chạm nhau, anh Nhuân đưa tay còn
lại vỗ vai anh Lanh cái đốp rồi nói: “Hắn đúng là lép rồi, lép chừ vẫn là lép.
Mẹ mi ơi, lấy cơm với thịt cho thằng lép hắn ăn”.
Lép
nhưng lì. Nhớ lại ngày 14.3.1988, các anh Thống, Nhuân đều bảo: “Hắn lì lắm, có
sợ chi lính Trung Quốc. Hắn giằng nhau với lính Trung Quốc để giữ cờ, khi bọn
kia giơ súng, hắn nổi điên nhảy lên đạp một phát”.
Và
máu anh đã đổ xuống. Trong cơn sinh tử giữa biển khơi, đồng đội anh đã kịp cứu,
mang sự sống đến với anh. Trong căn nhà nhỏ ở Quảng Sơn hôm ấy, anh Lanh nói:
“Hôm nay là kỷ niệm ngày giỗ sống của chúng ta”.
Điều
đặc biệt, một trong hai người đưa anh Lanh đang chìm lên tấm ván nổi trên mặt
nước là chiến sĩ Nguyễn Văn Lục (ở xã Quảng Thủy, H.Quảng Trạch) hiện đang ngồi
đối diện với anh Lanh.
Anh
Lục kể: “Lúc đó, chúng tôi đưa Lanh và anh Tứ bỏ lên tấm ván, sau đó bỏ lên
xuồng nhôm, cùng với anh em đồng đội còn sống chèo về đảo Sinh Tồn, đang chèo
thì gặp một tàu dân sự làm nhiệm vụ cung cấp lương thực cho các đảo và được đưa
lên tàu. Nhưng sau đó tàu Trung Quốc kè không cho đi nên mãi từ trưa cho đến 10
giờ tối cùng ngày mới đến được đảo Sinh Tồn. Tứ bị cụt 1 chân, máu ra nhiều quá
nên mất; còn Lanh may mắn qua khỏi”.
Trà
rượu một hồi, anh Lanh nổi hứng tinh nghịch như thời đang cùng nhau huấn luyện
ở Đà Nẵng. Anh Lục cũng không chịu thua khi bảo: “Biết thế bữa đó tau không đưa
hắn lên”. Rồi tất cả cùng cười vui.
Kể
về anh Lanh, anh Nguyễn Đình Phùng (ở xã Quảng Tân, H.Quảng Trạch; lúc đó làm
khí tài) vẫn không quên hình ảnh lúc tàu HQ 604 chuẩn bị rời bến ra đảo, anh
Lanh còn tìm gặp để hỏi xin một lưỡi lê.
Chiều
muộn, dù không muốn vẫn phải rời, Anh hùng Nguyễn Văn Lanh tạm biệt đồng đội
trở lại quê nhà. Đã có những đôi mắt ứa nước khuất dưới mái tóc điểm bạc. Các
anh mạnh mẽ sống chết cùng nhau vì Tổ quốc nhưng phút chia tay ai chẳng ngậm
ngùi.
Bài, ảnh: Trương Quang Nam
Việt
Long (Cựu binh Đoàn
125)
14/03/2013
3:20
Tháng
3.1988, 64 chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam ngã xuống trong sóng biển Đông
đã tạo nên một giá trị lịch sử to lớn.
Sự
kiện tháng 3.1988 không phải là một cuộc hải chiến. Thực tế, chỉ có một bên là
quân Trung Quốc xâm lược với tàu chiến tối tân với pháo 100 li bắn thẳng vào
khoảng 50 chiến sĩ công binh Hải quân Việt Nam, tay không vũ khí và kết thành
vòng tròn bất tử quanh 3 lá cờ Tổ quốc trên bãi đá Gạc Ma, cùng 3 tàu vận tải
đang thực hiện công vụ một cách bình thường.
Xem hình nơi trang
chính :
Không
một điều luật nào của Hiến chương LHQ 1946 cho phép sử dụng vũ lực để tranh
giành lãnh thổ đã có chủ quyền. Nghị quyết 2625 (XXV) của Đại hội đồng LHQ ngày
24.10.1970 (Tuyên ngôn về các nguyên tắc của luật pháp đề cập các quan hệ hữu
nghị và hợp tác giữa các quốc gia phù hợp với Hiến chương LHQ) khẳng định:
“Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một sự chiếm đóng quân
sự, kết quả của việc sử dụng vũ lực trái với các điều khoản của Hiến chương
LHQ. Lãnh thổ của một quốc gia không thể là một đối tượng thụ đắc bởi một quốc
gia khác do đe dọa sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực. Bất kỳ sự thụ đắc lãnh
thổ nào bằng sự đe dọa sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực đều là bất hợp pháp”.
|
Cưỡng
chiếm Gạc Ma và các đảo đá Trường Sa, Trung Quốc đã bất chấp tất cả các quy tắc
về luật Chiến tranh được quy định từ Công ước La Haye năm 1899 và 1907, các quy
tắc về luật Nhân đạo quốc tế trong các Công ước Genève 1949 và các Nghị định
thư năm 1977. Các tàu mang cờ của Hội Chữ thập đỏ đến cứu chữa thương binh và
quy tập hài cốt các nạn nhân đã bị từ chối.
Nhưng
sự hy sinh đó của các chiến sĩ không vô ích. Đất nước không bị bất ngờ, mất
cảnh giác trước âm mưu bành trướng dù chúng ta chưa lường hết tính tàn bạo
trong việc này. Ngay trong tháng 1.1988, Quân chủng Hải quân đã xác định:
"Lúc này, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền vùng biển và quần đảo Trường Sa là
nhiệm vụ quan trọng nhất, khẩn trương nhất và vinh quang nhất của Quân chủng
Hải quân". Chính sự chấp hành không nổ súng, không để mắc mưu đối phương,
chấp nhận hy sinh, giữ vững kỷ luật quân đội của các anh đã giúp đất nước, lúc
đó đang ở thế khó khăn tránh được một cuộc chiến không cân sức, tạo điều kiện
để dân tộc đứng vững được trên 21 đảo như hiện nay. Sự hy sinh quả cảm của các
anh và đường lối ngoại giao bình tĩnh, sáng suốt cũng như sự ủng hộ của dư luận
đã làm đối phương phải chùn bước.
Hành
động cho tàu ủi bãi, hy sinh để giữ đảo trong năm 1988 không phải là của kẻ hèn
nhát không dám nổ súng. Không nổ súng khi bị đối phương tấn công đối với người
lính thật khó khăn. Việc giữ kỷ luật không nổ súng trong năm 1988 có thể so
sánh như chấp hành lệnh kéo pháo ra, chuẩn bị chu đáo để giành chiến thắng chắc
chắn sau này ở Điện Biên Phủ năm 1954. Sự hy sinh cần thiết, ở mức thấp nhất
cho mục đích cuối cùng. Nó cho đất nước có thời gian để giải quyết những việc
hệ trọng ở biên giới tây nam, biên giới phía bắc, phá thế gọng kìm, củng cố lực
lượng mở rộng ra biển.
Biển
Đông là của chung nhân loại, không phải là ao nhà một nước. Nó thực sự là vấn
đề, là quan tâm quốc tế mà không cần phải nỗ lực quốc tế hóa hay song phương
hóa của bất cứ quốc gia nào. Thảy đều hướng tới mục tiêu hòa bình, phát triển
và bảo vệ quyền lợi chính đáng của các quốc gia trong khu vực.
Với
chúng ta, chiến tranh là sự lựa chọn cuối cùng để bảo vệ đất nước, còn hòa bình
mới là kế sách lâu dài. Đạo lý của dân tộc ngàn năm nay vẫn là đem đại nghĩa để
thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo. Bên cạnh việc khẳng định mạnh mẽ
chứng cứ lịch sử và pháp lý đối với chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa, sự kiện tháng 3.1988 đã thúc đẩy ý thức bảo vệ chủ quyền biển của chúng ta
một cách có tổ chức, khoa học, thực tiễn và tự chủ hơn trước. Từ xây dựng cụm
kinh tế - khoa học - dịch vụ trên các bãi ngầm thuộc thềm lục địa Việt Nam năm
1989, đưa chương trình biển đảo vào các trường phổ thông và đại học, gia nhập
Công ước LHQ về luật Biển năm 1994, tới đỉnh cao mới là luật Các vùng biển Việt
Nam năm 2012, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 9.2.2007
“Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020” nhằm mục tiêu đưa Việt Nam trở thành
nước mạnh về biển, đẩy mạnh phát triển kinh tế biển đồng thời bảo vệ vững chắc
an ninh chủ quyền biển.
Tháng
3.1988 đã tạo động lực góp phần đoàn kết người Việt ở trong nước cũng như kiều
bào ở nước ngoài trong mối quan tâm chung và thiêng liêng vì chủ quyền biển
đảo. Việc Trung Quốc dùng vũ lực thôn tính một lãnh thổ có chủ quyền đã cảnh
tỉnh dư luận thế giới và ASEAN về nguy cơ bất ổn mới trong khu vực, thúc đẩy
thông qua Tuyên bố ASEAN về biển Đông năm 1992, Tuyên bố về ứng xử của các bên
tại biển Đông (DOC) và đang hướng đến Bộ quy tắc ứng xử trên biển Đông (COC).
Cúi
mình thắp tâm hương trước anh linh của các anh hùng vừa là nhắc nhở các thế hệ
nối tiếp về tinh thần cảnh giác, luôn đặt lợi ích của dân tộc lên trên hết, hữu
nghị với bạn bè chân chính, kiên quyết với ngoại xâm, sẵn sàng chiến đấu hy
sinh vì chủ quyền đất nước, vì bình yên hạnh phúc của nhân dân.
*
Hướng về Trường Sa
Sáng
nay 14.3, Hội Cựu chiến binh, Thành đoàn, Đài PT-TH Đà Nẵng và Ban Liên lạc Bộ
đội Trường Sa tại Đà Nẵng tổ chức buổi gặp mặt, giao lưu "Hướng về Trường
Sa thân yêu" nhằm ôn lại lịch sử chiến đấu anh dũng của Hải quân nhân dân
Việt Nam nhân 25 năm trận hải chiến Gạc Ma - Trường Sa Việt Nam; đồng thời
tưởng nhớ, tri ân 64 cán bộ, chiến sĩ hải quân hy sinh trong cuộc chiến đấu bảo
vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, trong đó TP.Đà Nẵng có 9 liệt sĩ. Dịp
này, Hội Cựu chiến binh, Ban Liên lạc Bộ đội Trường Sa tại Đà Nẵng thời kỳ
1984-1987 cũng tổ chức gặp mặt các chiến sĩ đã sống, chiến đấu trên quần đảo
Trường Sa, trên tàu HQ84, HQ85, HQ87, HQ88 trong thời kỳ này. Hội Cựu chiến
binh TP tặng quà cho 9 gia đình liệt sĩ người Đà Nẵng hy sinh trong trận hải
chiến này.
Hay
tin có cuộc gặp mặt, anh Lê Hữu Thảo đã bày tỏ nguyện vọng về dự để tìm lại
đồng đội năm xưa. Lê Hữu Thảo, quê ở xã Hương Thủy, huyện Hương Khê (Hà Tĩnh),
là nhân vật trong bài viết 25 năm hải chiến Trường Sa - Kỳ 2: Anh hùng đất
Việt đăng trên Thanh Niên Online. Các đồng nghiệp, bạn bè và đại
diện Báo Thanh Niên tại miền Trung đã tổ chức phương tiện, nơi ăn nghỉ
để anh Thảo vào Đà Nẵng. Hội Cựu chiến binh TP.Đà Nẵng hay tin cũng đã mời anh
Thảo tham gia cuộc gặp gỡ này. Thông qua Báo Thanh Niên, ông Nguyễn Duy Khánh,
Tổng giám đốc Công ty TNHH MTV thuốc lá Sài Gòn (đặt tại Khu công nghiệp Vĩnh
Lộc, TP.HCM), đã quyết định hỗ trợ anh Thảo (do hoàn cảnh gia đình anh rất khó
khăn) số tiền 10 triệu đồng để làm lộ phí tham gia chương trình trên. Sáng 13.3,
đại diện của Thanh Niên đã trao số tiền này cho anh Lê Hữu Thảo.
Nguyễn Thế Thịnh
*
Việt Long
(Cựu binh Đoàn 125)
(Cựu binh Đoàn 125)
------------------------------------------------------
Hữu
Trà 10/08/2012 3:05
Hữu Trà
11/08/2012 3:20
Hữu Trà
12/08/2012 3:25
No comments:
Post a Comment