Thứ Tư, ngày 11 tháng 1 năm 2017
Gửi
Nhóm Bạn Cửu Long
If Tibet dries, Asia dies
Nếu Tây Tạng khô hạn, Châu Á chết
[www.tibetanwomen.org]
Nếu Tây Tạng khô hạn, Châu Á chết
[www.tibetanwomen.org]
Hình 1:Đức Dalai Lama và Cực Thứ Ba của Trái Đất[nguồn:
http://www.activeremedy.org]
CỰC
THỨ BA CỦA TRÁI ĐẤT
Khoảng ba trăm triệu năm trước, Tây Tạng còn nằm dưới
đáy biển Tethys nguyên là một đại dương mênh mông bao trùm cả diện tích Châu Á
và Ấn Độ. Do hành trình va chạm dữ dội của hai khối tiền lục địa Gondwanaland
và Laurasia tạo nên cơn địa chấn với sức ép khổng lồ từ khối đất Ấn Độ dồn lên
phía bắc tạo thành dãy Hy Mã Lạp Sơn và Cao nguyên Tây Tạng.
Với lịch sử địa chất ấy, Tây Tạng là vùng đất cao từ
3500 tới 5000m – được mệnh danh là"xứ tuyết",“nóc của trái
đất”, hay "Cực Thứ Ba / Third Pole"-- hai cực kia là
Bắc Cực và Nam Cực. Tây Tạngvới diện tích hơn một triệu km2 gần bằng Tây Âu
nhưng cô lập với thế giới bên ngoài bởi ba bề núi non hiểm trở: phía nam là dãy
Hy Mã Lạp Sơn, phía tây là rặng Karakoram, phía bắc là các rặng Kunlun và
Tangla;riêng phía đông cũng bị cắt khoảng bởi các dãy núi không cao và lũng sâu
và thoải dần xuống tới biên giới Trung Hoa,ráp gianh với hai tỉnh Tứ Xuyên và
Vân Nam.
Phía tây bắc,Tây Tạnglà một vùng đất hoang đông giá,
gần như không người no-man’s-land trải dài hơn 1200km từ tây
sang đông. Phía nam là vùng núi non với thảo nguyên, nơi sống của dân du mục với
các đàn cừu dê và những con bò Yaks. Phía đông là tỉnh Kham và đông bắc
là tỉnh Amdo (quê hương củaĐức Dalai Lama thứ 14) là vùng trù phú
và đông dân nhất. Thứ đến là vùng đất phía nam khí hậu bớt khắc nghiệt, nơi có
con SôngYarlung Tsangpo với những phụ lưu như một mạch sống.
Người nông dân Tây Tạng chủ yếu trồng lúa mạch và
khoai tây là hoa màu phụ. Khí hậu thay đổi thất thường như mưa đá, đông giá nên
mùa màng luôn luôn bị hư hại. Nguồn thực phẩm ổn định hơn là nuôi gia súc ngoài
đàn bò Yaks còn có trừu, dê và gà để lấy trứng. Tsampalàm từ bột lúa mạch sấylà
món ăn thường nhật của người Tây Tạng. Quốc giaTây Tạng là hình ảnh mênh mông của
những thảo nguyên với núi cao và lũng sâu, bầu trời thường thì trong xanh như
ngọc. Cho tới cuối thế kỷ 19, nếp sống của họ vẫn vậy như từ hàng ngàn năm trước.
XỨ SỞ
CỦA ĐẠO PHẬT
Đạo Phật du nhập vào Tây Tạng 12 thế kỷ sau khi Phật
Thích Ca nhập niết bàn, khoảng thế kỷ thứ 7 sau Công nguyên. Khí Tông Cương Tán
(Songtsen Gampo)là một tù trưởng tài ba đã thống nhất được các bộ lạc trên cả một
vùng băng tuyết tới chân Hy Mã Lạp Sơn;ông cưới công chúa Nepal làm hoàng hậu
và chính nàng công chúa này đã du nhập đạo Phật vào Tây Tạng. Tây Tạng thời kỳ ấylà
một quốc gia hùng mạnh khiến vua Trung Hoa đời Nhà Đường cũng phải xin cầu hòa
và gả công chúa cho Khí Công Cương Tán, nàng công chúa gốc Hán này cũng đem đạo
Phật vào Tây Tạng. Đạo Phật từ đó đã phát triển rất mạnh trên vùng đất mới, hòa
nhập với tín ngưỡng Bon đa thần để biến thể thành một thứ đạo Phật cao siêu và
thần bí.
Tới thế kỷ 14 một vị chân tu tên Tống Cáp Ba –
Tsongkhapa đã sáng lập nên phái Hoàng Mão Hoàng Y của Phật giáo chính thống Tây
Tạng. Sau khi ông mất, người kế thừa cũng là một vị chân tu tên Gendun Drup được
toàn thể giới tăng lữsuy tôn làm Dalai Lama (Lama là một từ Tây Tạng có nghĩa
là bậc thầy), ông có công phát huy đạo Phật đồng thời cũng xây dựng được một nền
hành chánh kết hợp với giáo quyền trị vì quốc gia Tây Tạng. Vị đại sư mưu trí
này đã đặt ra quy luật tái sanh củaDalai Lama theo đó khi chết linh hồn vị
Dalai Lama sẽ nhập vào một trẻ sơ sinh như hiện thân của Bồ Tát Quán Thế Âm –
Bodhisatva Avalokitesara.
Tới thế kỷ 16, do các giáo phái lại chống đối nhau dẫn
tới sự can thiệp của quân Mông Cổ, sau đó thì chính Đại Hãn Mông Cổ là Altan
Khan do cảm phục kiến thức cao sâu của vị đại sư nên cũng xin quy y, đồng thời
phong tước cho vị Lama làDalai Lama– Dalai là từ Mông Cổ có nghĩa biển cả, bao
hàm kiến thức mênh mông.
Đây là thời kỳ cực thịnh của Phật giáo Tây Tạng ghi
dấu bằng công trình xây cất Lâu Đài Mùa Đông – Cung Điện Potala 1000 phòng của
các vị Dalai Lama, được coi như một kỳ quan kiến trúc của thế giới.
Nhưng về phương diện lịch sử thì ngôi Chùa Jokhang mới
là di tích cổ kính nhất, được xây dưới triều vua Khí Tông Cương Tán, nơi chứa
tượng Phật do công chúa Nepal thỉnh về.Kỳ quan của Jokhang không phải chỉ là
các tượng Phật mà là tấm bia đá dựng trước chùa như di tích lịch sử về một quá
khứ hùng mạnh của quốc gia Tây Tạng, đã từng gây khốn đốn cho các vua Trung Hoa
đời nhà Đường. Trên tấm bia là bản hiệp ước được phê chuẩn bởi Đại Hoàng đế Tây
Tạng và Hoàng đế Trung Hoa vào năm 821-822 khắc bằng hai thứ tiếng Tây Tạng và
Trung Hoa với nội dung [Hình 2]:
“Thỏa thuận cùng nhau về sự liên minh giữa hai quốc
gia... tìm cách ngăn ngừa những nguyên nhân gây tàn hại cho hai xứ sở bây giờ
và mai sau, để mang lại hòa bình lâu dài cho thần dân hai nước. Thỏa ước được
khắc trên bia này để cho các thế hệ tương lai được biết tới.” (1)
Hình2: Jokhang, ngôi chùacó lịch sử hơn 1,300 năm
ghi dấu một thời kỳ hưng thịnh của quốc gia Tây Tạng. Tấm bia ghi bản hiệp ước
giữa Đại Hoàng đế Tây Tạng và Hoàng đế Trung Hoa vào năm 821- 822 đã bị phá huỷ.Jokhang,
cùng với lâu đài Potala được UNESCO đưa vào danh sách Di sản Thế giới. [nguồn:
internet]
Giữa thời kỳ hưng thịnh của quốc gia Tây Tạng
[618-907]nơi đầu nguồn Sông Mekong thì lúc ấy Việt Nam lại đang phải sống trong
tối tăm nhục nhã dưới ách thống trị của người Tàu với cái tên An Nam Đô Hộ Phủ.
Việt Nam đã bị nô lệ Tàu tổng cộng 1050 năm trước khi lấy lại được nền tự chủ với
các triều đại Ngô, Lê, Lý, Trần.
Nhưng rồi cũng không tránh được lẽ thịnh suy, những
thế kỷ sau đó Tây Tạng lại bị Trung Hoa xâm lấn, thủ đô Lhasa thường xuyên bị
chiếm đóng. Đến đầu thế kỷ 20,nhân lúc triều đình Mãn Thanh bị cuộc Cách Mạng
Tân Hợicủa Tôn Dật Tiên lật đổ, nhân dân Tây Tạng đã lại vùng lên và tuyên bố độc
lập nhưng bị đàn áp và đã gặp phải sự thờ ơ đến tàn nhẫn của thế giới. Trung
Hoa cho dù dưới thể chế chánh trị nào vẫn xem Tây Tạng như phần lãnh thổ của họ.
MỘT
TÂY TẠNG ĐAU THƯƠNG
Năm 1933 khi vịDalai Lama13 viên tịch, tương truyền
rằng người ta thấy mặt ngài ngoảnh về hướng đông bắc, phía tỉnh Amdo. Kết hợp với
một số điềm báo triệu khác, các vị trong hội đồng giáo phẩm tới được ngôi làng
Takster tỉnh Amdo và họ đã tìm ra đứa trẻ hai tuổi là đứa con thứ tư trong một
gia đình nông dân nghèo khó, và sau một chuỗi những trắc nghiệm thử thách, cậu
bé Tenzin Gyatso sinh ngày 6 tháng 7 năm 1935,được công nhận là hiện thân củaĐức
Dalai Lama thứ 14.
Amdo lúc đó đang thuộc quyền kiểm soát của quân
Trung Quốc nên phải trải qua hai năm thương thuyết khó khăn, cậu bé Tenzin
Gyatso mới được rời Amdo lên thủ đô Lhasa và được đưa vào Cung Điện Mùa Hè Norbulingka
rồi Cung Điện Mùa Đông Potala để được nuôi dưỡng và giáo dục đúng theo giáo lý
bởi những vị cao tăng uyên bác. Trong thời gian đó, một quan nhiếp chính được
chỉ định để lo việc nước.
Tình hình càng trở nên tệ hạikhi Tưởng Giới Thạch bị
thua phải chạy ra đảo Đài Loan (1949), Hồng Quân chiếm trọn Hoa Lục đồng thời
cũng xua quân vào cưỡng chiếm Tây Tạng với chiêu bài “giải phóng nhân
dân Tây Tạng đang bị giai cấp phong kiến áp bức.”
Và đã có ngay từng đợt hàng trăm ngàn binh lính
Trung Cộng tiến vào Tây Tạng, kéo theo sau là gia đình của họ. Khác xa với hứa
hẹn ban đầu bảo đảm tự do tín ngưỡng và phong tục tập quán của dân Tây Tạng, họ
mở ngay chiến dịch chống tôn giáo, đồng thời thi hành “chánh sách tàm
thực/ tầm ăn dâu”không ngừng di dân gốc Hán vào đất nước Tây Tạng.
Năm 1950, do nhu cầu cấp bách của thời cuộc, ở cái
tuổi mới 16, Tenzin Gyatso đã phải rất sớm đứng ra đảm đương mọi trách nhiệm
chánh trị điều hành quốc gia Tây Tạng. Năm 1954, Gyatso bị đưa sang Trung
Quốc gặp Mao Trạch Đông trong ý muốn thuyết phục vị Dalai Lama trẻ tuổi ấy chấp
nhận một xứ sở Tây Tạng sát nhập vào trật tự nước Trung Hoa.
Trước nguy cơ diệt vong, năm 1959 nhân dân Tây Tạng
lại nhất loạt nổi dậy, nhưng đã bị Hồng Quân trấn áp và tàn sát không thương tiếc.
Trong cuốn tự truyện Tự Do Trong Lưu Đầy – Freedom in Exile, Tenzin Gyatso viết:
“Trong gần một thập niên, ở cương vị người lãnh đạo
chánh trị và tôn giáo cho dân tộcTây Tạng, tôi đã cố gắng tái tạo mối liên hệ
hòa bình giữa hai quốc gia Tây Tạng và Trung Hoa, nhưng trách vụ ấy không thể
hoàn thành. Tôi đi tới kết luận là tôi sẽ phục vụ dân tộc tôi được nhiều hơn nếu
tôi sống ở nước ngoài.” (1)
Đức Dalai Lamathứ 14 đã dẫn hơn một trăm ngàn dân
Tây Tạng vượt biên giới thoát sang Ấn Độ. Bất chấp sự chống đối và cả hăm dọa của
Bắc Kinh, chánh phủ Ấn vẫn giúp định cư số người Tây Tạng lưu vong này nơi thị
trấn Dharmasala dưới chân rặng Hy Mã Lạp Sơn. Một chánh phủ lưu vong Kashag được
hình thành như niềm hy vọng sống còn đối với người dân Tây Tạng trong nước.
Phía Trung Quốc bất kể nguyện vọng dân Tây Tạng ra
sao, họ vẫn sát nhập quốc gia này vào “Nước mẹ vĩ đại Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa.”Tháng 9 năm 1965, Bắc Kinh tuyên bố lập “Vùng tự trị Tây Tạng –
Tibetan Autonomous Region” trực thuộc nước Trung Hoa. Điều ấy có nghĩa
là quốc gia Tây Tạng bị Bắc Kinh xoá tên trên bản đồ thế giới.
Và rồi các giai đoạn thảm khốc nhất đã diễn ra trong
suốt thập niên sau đó khi có cuộc Cách Mạng Văn Hóa. Cả một di sản văn hóa của
dân tộc Tây Tạng bị tận diệt một cách công khai và có hệ thống bởi những đoàn Vệ
Binh Đỏ. Các đền đài tu viện bị phá trụi, các tranh tượng tôn giáo bị hủy hoại.
Hàng chục ngàn người Tây Tạng bị kết tội “phản động” vì không chịu lên án Đức
Dalai Lamavà từ bỏ đức tin của họ.
Theo thống kê của Trung Cộng (1982) có 3.87 triệu
người Tây Tạng, nếp sống đơn sơ và hiếu khách nhưng họ là một dân tộc đang phải
sống trong nô lệ và chịu nỗi khổ đau vô hạn"trong nước Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa”.
Hình 3:Uống nước nhớ nguồn. Ngay sau cuộc nổi
dậy của nhân dân Tây Tạng 1959 bị Bắc Kinh đàn áp đẫm máu khiếnĐức Dalai Lama
và hơn 100,000 người Tây Tạng phải tỵ nạn sang Ấn Độ. Việt Nam Cộng Hoà lúc ấy
đã tức thời gửi lúa gạo sang cứu trợ. Lúa gạo ấy đã được gieo trồng từ nguồn nước
con Sông Mekong. Đức Dalai Lamađã tiếp Phái đoàn Việt Nam tại Darjeeling, Ấn Độ.
Từ trái: Gs Lê Xuân Khoa Tổng thư ký Hội Văn hoá Á Châu, Thượng toạ Thích Trí
Dũng,Đức Dalai Lama, và Phó Chủ tịch Quốc Hội VNCH Cổ Văn Hai.(4)
Tháng 10 năm 1987, không còn kiên nhẫn hơn được nữa,
dân Tây Tạng lại vùng dậy và cũng lại bị quân chiếm đóng Trung Cộng đàn áp tàn
bạo. Đã có khoảng 1.2 triệu người Tây Tạng bị giết, một con số thật khủng khiếp
nếu so với tổng số dân Tây Tạng chưa tới 4 triệu.
Để phối hợp với các cuộc đấu tranh ở trong nước, Đức
Dalai Lamađã rời Dharmasala và du hành qua nhiều quốc gia trên thế giới để nói
lên nguyện vọng được sống trong độc lập và tự do của nhân dân Tây Tạng.
Tenzin Gyatso chỉ nhận mình là một nhà sư giản dị,
không bao giờ tự huyền thoại hóa mình là Phật Sống. Bất cứ ở đâu, bất cứ lúc
nào, vẫn luôn luôn là một con người nhu hòa không định kiến, vượt lên trên mọi
khen chê. Ông là một con người giàu lòng từ bi, hơn thế nữa là con người của tự
do. Với tinh thần bất bạo động linh hoạt – active non-violence, ông
luôn luôn cố gắng tái tạo mối liên hệ tin cậy và hòa bình với phía thù nghịch
cho dù Bắc Kinh không từ một thủ đoạn nào đểgây tai tiếng và bôi nhọ ông.
Hình 4:Jampa Yeshi, tên người thanh niên Tây Tạng
đang chạy như một ngọn đuốc trên một đường phố New Dehi 26.3.2012 đòi tự do cho
nhân dân Tây Tạng.Từ 2009 tới 2016, đã có 153 nhà sư và thường dân Tây Tạng tự
thiêu phản kháng sự chiếm đóng của Trung Quốc.[nguồn:AP, photo by Manish
Swarup]
Cho dù gần đây Trung Cộng cho xây dựng lại một số
chùa chiền ở Tây Tạng bề ngoài như một “sửa sai sau Cách Mạng Văn Hóa” nhưng chỉ
là để phát triển kỹ nghệ du lịch; cùng một lúc họ cho gài công an chìm vào khắp
các tu viện, đi xa hơn nữa Bắc Kinh còn cấm người trẻ đi tu và đồng thời cưỡng
bách các vị sư già ngoài 60 tuổi phải về hưu trong khi vẫn không ngừng rêu
rao “Tự do tôn giáo là điều được ghi trong hiến pháp”.
Nếu chỉ viếng thăm Tây Tạng “như một khách du lịch”
và đi theo đoàn du khách với cô hướng dẫn người gốc Hán thì mọi sự đều rất êm
thấm, cũng như một số khách Tây Phương – kể cả chánh trị gia lão thành Edward
Heath cựu thủ tướng Anh, được Bắc Kinh tổ chức cho đi thăm Tây Tạng, khi trở về
nói mọi chuyện ở đó đều tốt đẹp. Họ nói thật qua những điều dàn dựng và được
phép cho thấy. Và bao giờ cũng vậy, những điều cho thấy ấy là một sự dối trá trắng
trợn.
TÂY
TẠNG VÀ BÀI HỌC AN NAM ĐÔ HỘ PHỦ
Trong khoảng hơn 20 nămtừ 1995,kể từ khi có mối quan
tâm về con Sông Mekong dài hơn 4,800 km ấy, về phương diện địa dư chính
trị/ geopolitics, người viết luôn luôn xem Tây Tạng như một quốc gia, và
con SôngMekong chảy qua 7 quốc gia - thay vì 6.Nếu không kể Tây Tạng như một quốc
giađầu nguồn, một cách vô thức, cộng đồng quốc tế đã mặc nhiên hợp thức hoá dã
tâm của Bắc Kinh muốn xoá Tây Tạng trên bản đồ thế giới.
Trong buổi lễ trao Giải thưởng Nhân quyền Robert F.
Kennedy ngày 9 tháng 11 năm 1998 tại Đại Học Georgetown, Đức Dalai Lamatỏ ý ao
ước được viếng thăm Việt Nam năm 2000. Điều đặc biệt hơn nữa làĐức Dalai
Lamacòn có đề nghị với các học giả Việt Nam hãy cung cấp cho các nhà sử học Tây
Tạng những sử liệu liên quan tới mối quan hệ giữa Việt Nam - Trung Hoa và Việt
Nam - Tây Tạng.
Và ai cũng hiểu rằngĐức Dalai Lama muốn nhân dân Tây
Tạng tìm đến "Bài học Việt Nam", làm thế nào dân tộc Việt
vẫn lấy lại được nền tự chủ sau cả ngàn năm đã bị người Tàuđô hộ và quyết tâm đồng
hóa. Đó như một "thông điệp hy vọng" của những người
dân Tây Tạng đang bị Trung Quốc áp bức như hiện nay. (4)
Nhưng cũng đểthấy ngay một khác biệt sâu xa giữa hai
quốc gia Việt Nam và Tây Tạng.Trong hơn một ngàn năm bị đô hộ ấy, Trung Hoa
chưa có nạn nhân mãn, Việt Nam vẫn là xứ xa xôi còn bị coi là man di chưa xuống
xa tới Đồng Bằng Sông Cửu Long, chưa phải đối đầu với "chính sách
tàm thực di dân Hán hóa” như thảm trạng hiện nay của Tây Tạng, khiếndân
Tây Tạng đang mau chóng trở thành thiểu số trong biển người Hán ngay trên chính
quê hương của họ. Với chiêu bài dân chủ nhân danh quyền tự quyết, nếu có một cuộc
trưng cầu dân ý diễn ra trên đất nước Tây Tạng do Bắc Kinh chủ xướng, thì đó là
một "cuộc tự sát" mà không một người dân Tây Tạng nào có thể ngây thơ
chấp nhận.
Đã 16 năm kể từ năm 2000, Đức Dalai Lamanăm nay cũng
đã hơn 81 tuổi, và không có cuộc viếng thăm nào củaĐức Dalai Lama tới Việt Nam.Chấp
nhận hay không cuộc viếng thăm ấy là một thử thách can đảm đối với nhà cầm quyền
Cộng sản Hà Nội. Đó cũng là thước đo mức tự chủ của Việt Nam đối với Trung Quốc.
TÂY
TẠNG MẠCH SỐNG CỦA CHÂU Á
Các con sông lớn như mạch sống cho toàn vùng Châu Á
đều bắt nguồn từ Cao nguyên Tây Tạng. (2)
Phía tây, gần rặng núi Kailash là hai con Sông Indus
và Sutlej chảy về hướng tây nam và giao thoa với ba con sông khác để hình thành
vùng châu thổ Punjab giữa hai nước Ấn và Hồi.
Phía nam là con Sông Yarlung Tsangpo hay “nguồn
tinh khiết”còn được mệnh danh là “con sông cao nhất thế giới”,với
các ghềnh thác xuyên dãy Hy Mã Lạp Sơn, rồi chảy qua Ấn độ, Bhutan và
Bangladesh, con sông mang tên Brahmaputra trước khi đổ vào Vịnh Bengal, thuộc Ấn
Độ Dương.
Phía đông là khởi nguồn của các con sông lớn khác:
Sông Dương Tử 6,500km dài nhất Châu Á chảy về hướng đông theo suốt chiều ngang
lãnh thổ Trung Hoa tới Thượng Hải, còn Hoàng Hà thì chảy về hướng bắc rồi sang
đông tới Thiên Tân – Tianjin, và cả hai cùng đổ ra biển Trung Hoa.
Phía nam là hai con Sông Irrawaddy và Salween chảy
xuống Miến Điện theo hướng bắc nam trước khi đổ vào Biển Andaman, những con đập
thuỷ điện Made-in China nay đang bắt đầu xiềng xích và huỷ hoại hệ sinh thái của
hai con sông Miến Điện này. [Hình 5]
Hình 5: Quốc gia Tây Tạng, nơi phát xuất những con
sông lớn của Châu Á[nguồn: Meltdown in Tibet, Michael Buckley, Palgrave
MacMillan 2014]
Riêng con Sông Mekongdài hơn 4,800km, mang nhiều tên
khác nhau, bắt nguồn từ Tây Tạng: có tên Dza-Chu có nghĩa“nguồn nước của
đá,”tiếp tục chảy về hướng nam băng qua những hẻm núi sâu của tỉnh Vân Nam
với tên Trung Hoa là Lancang Jiang“con sông xanh cuộn sóng,” qua đến
biên giới Lào Thái mang một tên khác Mae Nam Khong “con sông mẹ,” xuống
Cam Bốt lại mang một tên khác nữa Tonle Thom “con sông lớn” cuối
cùng chảy qua Việt Nam mang tên Cửu Long “chín con rồng” với
hai nhánh chính là Sông Tiền và Sông Hậu đổ ra Biển Đông bằng chín cửa sông, và
nay chỉ còn bảy.
Cũng để thấy một con Sông Mekong hoang dã không còn
nữa khi 6 con đập dòng chính khổng lồ Vân Nam đã hoàn tất, và 12 con đập hạ lưu
Lào và Cam Bốt đang lần lượt được triển khai, cùng với những kế hoạch thuỷ lợi
nguy hiểm là chuyển dòng lấy nước trên suốt chiều dài con Sông Mekong. Hậu quả
là sự suy thoái của toàn thể hệ sinh thái lưu vực Sông Mekong và Đồng Bằng Sông
Cửu Long thì khô hạn, nhiễm mặn và đang chết dần.
TIẾNG
NÓI BẢO VỆ MÔI SINH
Đức Dalai Lamakhông chỉ là vị lãnh đạo tinh thần của
dân Tây Tạng, ông còn là tiếng nói của "từ tâm" luôn luôn đấu tranh
cho nhân quyền và bảo vệ môi sinh cho toàn hành tinh này.
Với quốc gia Tây Tạng, Đức Dalai Lamađã giành ưu
tiên cho bảo vệmôi sinh thay vì thay vì những vấn đề chính trị nóng bỏng.
"Lịch trình chính trị có thể hoãn lại 5 - 10
năm nhưng cộng đồng quốc tế cần tập trung quan tâmtới biến đổi khí hậu trên Cao
nguyên Tây Tạng:khối băng tuyết đang tan rã, nạn phá rừng, và ô nhiễm nguồn nước
do những dự án khai thác hầm mỏ, là những vấn đề cấp thiết, không thể chờ đợi."
Đức Dalai Lamađã nói với Đại sứ Hoa Kỳ Timothy
Roemer như vậy trong một gặp gỡ ở New Delhi, thủ đô Ấn Độ vào tháng 8, 2009.
[nguồn: Wikileaks Cables, the Guardian 10 Aug. 2009]
Từ trên đầu nguồn, những con sông lớn Châu Á đang bị
Trung Quốc phá huỷ một cách toàn diện và có hệ thống: với khí thải từ các nhà
máy gây hiệu ứng nhà kính khiến khối băng tuyết đang tan rã, rồi nạn phá rừng tự
sát / suicidal deforestation, tới các kế hoạch khai thác hầm mỏ đại quy mô, tàn
phá sinh cảnh, gây ô nhiễm các nguồn nước; những con sông trên Cao nguyên Tây Tạng
cũng đang bị Trung Quốc xiềng xích bởi những con đập thuỷ điện và người dân Tây
Tạng thì bị đuổi ra khỏi vùng đất đang sinh sống của họ.
Hình 6: Hâm Nóng Toàn Cầu trên Tây Tạng; Nếu Tây Tạng
khô hạn, Châu Á chết[nguồn: Meltdown in Tibet, Michael Buckley, MacMillan 2014]
Hoa Lục xác nhận là sẽ xây các con đập lớn trên thượng
nguồn Sông Yarlung Tsangpo – Brahmaputra, trước khi con sông ấy chảy sang Ấn
Độ, Bhutan và Bangladesh. Brahmaputra là dòng sông huyết mạch của bao nhiêu triệu
cư dân của 3 quốc gia này.
Giới chức Hoa Lục cho biết họ sẽ còn xây thêm những
con đập khác giữa các quận hạt Sangro và Jiacha. Khi hoàn tất, tổng số công suất
của những con đập thủy điện này sẽ “nhiều lần lớn hơn” công suất con đập Tam Hiệp
(Three Gorges Dam) lớn nhất thế giới trên sông Dương Tử. Nguồn năng lượng mới
này tương đương với 100 triệu tấn than đá, hoặc bằng toàn trữ lượng dầu khí
trên Biển Đông. Yan Zhiyong, tổng giám đốc Nhóm Tham vấn Thủy điện Trung Quốc
(China Hydropower Engineering Consulting Group) nhận định: “Tây Tạng là nguồn dự
trữ thủy điện lớn nhất so với các tỉnh khác của Trung Quốc. Chuyển điện từ Tây
Tạng sang các tỉnh miền Đông sẽ giải quyết vấn đề thiếu năng lượng của Trung Quốc”.
Anant Krishnan, nhà ngoại giao cao cấp của Ấn Độ cho
rằng kế hoạch xây đập tràn lan của Bắc Kinh, cho dù đó là trong lãnh thổ Trung
Quốc -- thực ra là trong lãnh thổ quốc gia Tây Tạng, chắc chắn sẽ ảnh hưởng tác
hại tới mối quan hệ đối với các quốc gia hạ nguồn. Rồi ông ta cũng không quên
so sánh:
“Ấn Độ bị báo động vì những con đập trên sông
Yarlung Tsangpo- Brahmaputra, cũng giống như với các quốc gia Thái Lan, Lào,
Cam Bốt và Việt Nam đối với những con đập Vân Nam trên thượng nguồn Sông
Lancang – Mekong”.
Hình 7:Cứu Tây Tạng là cứu mạch sống Châu Á[nguồn:
International Campaign for Tibet]
Cho dù đang có những mối lo âu về sự tồn vong của
quê hương nhưng Đức Dalai Lamacũng rất quan tâm tới những vấn đề chung của nhân
loại. Ông đề cập tới vấn đề môi sinh với một tầm nhìn xa và trong mối tương
quan toàn cầuvà luôn luôn muốn "giữ xanh" hành tinh
này, qua thông điệp nhân Ngày Môi Sinh Thế Giới / World Environment Day
[06.05.1986]:
“Hòa bình và sự sống trên trái đất đang bị đe dọa bởi
những hoạt động của con người thiếu quan tâm tới những giá trị nhân bản. Hủy hoại
thiên nhiên và các nguồn tài nguyên thiên nhiên là do hậu quả của lòng tham lam
và thiếu tôn kính đối với sự sống trên hành tinh này...Chúng ta dễ dàng tha thứ
cho những gì đã xảy ra trong quá khứ do bởi u minh. Nhưng ngày nay do hiểu biết
hơn, chúng ta phải duyệt xét lại với tiêu chuẩn đạo đức là phần gia tài nào mà
chúng ta thừa hưởng, phần nào chúng ta có trách nhiệm sẽ truyền lại cho thế hệ
mai sau."
NGÔ
THẾ VINH
California, ngày 11.01.2017
Tham
khảo:
1/ Freedom in Exile; The Autobiography of The Dalai
Lama. Tenzin Gyatso, Hodder & Stoughton Ltd, London, 1990.
2/ Meltdown in Tibet:China's Reckless Destruction of
Ecosystems from the Highlands of Tibet to the Deltas of Asia. Michael Buckley.
Palgrave MacMillan, New York, 2014
3/ Global Ecology and the Made in China Dams; Ngô Thế
Vinh, Viet Ecology Foundation 2010;
http://vietecology.org/Article.aspx/Article/62
4/ The Nine Dragons Drained Dry, The East Sea in
Turmoil. Ngô Thế Vinh,
Viet Ecology Press, Người Việt Books, Nxb Giấy Vụn
2016
No comments:
Post a Comment