Sunday, September 6, 2015 3:31:45 PM
QUẢNG
NAM (NV) - Ba đứa trẻ thuộc sắc tộc Xê Đăng, trốn khỏi một trại gỗ, vừa được
giải thoát khỏi một cuộc săn người và đưa về tạm trú ở Trung tâm Công tác xã hội
tỉnh Quảng Nam.
Ba đứa trẻ thuộc sắc tộc Xê Đăng đang tạm trú tại
Trung Tâm Công Tác
Xã Hội tỉnh Quảng Nam. (Hình: Tuổi Trẻ)
Xã Hội tỉnh Quảng Nam. (Hình: Tuổi Trẻ)
Theo tờ Tuổi Trẻ, cách nay hơn một tháng, Hồ Văn Đôi
- 13 tuổi, Hồ Văn Điếu - 14 tuổi, Hồ Văn Bâng - 15 tuổi, cùng ngụ tại xã Trà
Linh, huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam, đã đi theo một phụ nữ chưa xác định được
lai lịch, đến huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, vì bà ta hứa sẽ giới thiệu cho
cả ba đi làm, với mức lương là ba triệu đồng/tháng/người. Đôi, Điếu, Bâng đã được
giao cho ông Đoàn Văn Phước, chủ một trại gỗ ở huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng
Nam...
Khi cả ba thắc mắc vì làm việc quần quật hơn một
tháng mà không được trả lương thì ông Phước dọa “đập chết.” Biết bị gạt, cả ba
đứa trẻ bỏ trốn, còn ông Phước cho người đi tìm, bắt chúng quay lại. Hôm 4
tháng 9, người của ông Phước tìm được ba đứa trẻ lúc chúng đi đến xã Bình Lâm,
huyện Hiệp Đức. May mắn là dân địa phương kịp gọi điện thoại báo cho công an xã
nên cả ba đứa trẻ được giải cứu rồi được chuyển cho Trung Tâm Công Tác Xã Hội tỉnh
Quảng Nam. Nơi này đang thu xếp để đưa ba đứa trẻ về với gia đình.
Sự kiện vừa kể cho thấy, tại Việt Nam, buôn người và
cưỡng ép làm nô lệ vẫn còn là vấn nạn vừa phổ biến, vừa nghiêm trọng.
Năm 2013, Walk Free - một tổ chức chuyên tranh đấu
cho nhân quyền, công bố “Chỉ số tình trạng nô lệ 2013.” Theo đó, xét trên bình
diện toàn cầu, Việt Nam xếp thứ 64/162 về tình trạng công dân bị buộc làm nô lệ.
Nếu xét riêng khu vực Châu Á, Việt Nam xếp thứ 9. Còn xếp theo tổng số nô lệ,
Việt Nam đứng thứ 15 trên thế giới.
Con số nô lệ tại Việt Nam được Walk Free ước đoán nằm
trong khoảng từ 240,000 đến 260,000. Walk Free nhận định, tình trạng người Việt
bị cưỡng ép lao động phổ biến cả ở bên ngoài lẫn bên trong Việt Nam.
Trước đây, chuyện lừa gạt, cưỡng ép làm việc và dùng
nhiều biện pháp khác nhau để cầm giữ người lao động, cột chặt họ với giới chủ
chỉ xảy ra với những người Việt đi làm thuê ở ngoại quốc và những người Việt là
nạn nhân của nạn buôn người ra ngoại quốc. Tuy nhiên trong thập niên vừa qua,
thảm trạng tồi tệ này đã trở thành phổ biến trên khắp Việt Nam.
Chẳng hạn năm 2010, 121 người dân tộc Bh'noong ở huyện
Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam, được Xí Nghiệp Nguyên Liệu Giấy Đắk Lắk “tuyển dụng”
làm công nhân trồng rừng. Sau sáu tháng làm việc quần quật như nô lệ nhưng
không có ai được trả đồng nào, chưa kể do ăn ở kham khổ, lao lực, một người đã
thiệt mạng, tất cả đã bỏ việc... Do bị công chúng chỉ trích kịch liệt, mãi tới
giữa năm 2013, chính quyền Việt Nam mới chịu can thiệp, 120 nạn nhân mới được
Xí Nghiệp Nguyên Liệu Giấy Đắk Lắk “hứa trả lương.” Gia đình người thiệt mạng
thì được hứa sẽ nhận khoản hỗ trợ là 20 triệu đồng!
Khoảng tháng 10 năm 2013, nhiều tờ báo ở Việt Nam
đưa tin, hàng trăm người thiểu số, cư ngụ tại nhiều khu vực khác nhau ở Tây
Nguyên đã bị gạt, bị buộc làm việc như nô lệ ở Lâm Đồng và cuối cùng, thân nhân
phải trả tiền chuộc họ về.
Tháng 4 năm ngoái, báo chí Việt Nam đồng loạt đưa
tin về thảm trạng của 75 phu đào vàng làm việc cho Công Ty Phước Minh ở Quảng
Nam. Những phu đào vàng này bị đánh đập, buộc làm việc liên tục, không được nghỉ
ngơi, kể cả khi đau bệnh còn Công Ty Phước Minh chỉ hứa trả lương chứ không đưa
tiền. Tuyệt vọng vì bị lừa gạt, bị đối xử như nô lệ, họ cùng đào thoát và dự
tính sẽ đi bộ, vượt qua quãng đường dài khoảng 600 cây số để về sinh quán là
huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Tuy nhiên đến thị trấn Khâm Đức, huyện Phước
Sơn, tỉnh Quảng Nam thì tất cả kiệt sức và chuyện 75 con người xếp thành một
hàng dài, quần áo tả tơi, lả đi vì đói khát và cả vì phải cuốc bộ hàng trăm cây
số mới được chú ý.
Walk Free không phải là tổ chức đầu tiên cảnh báo về
tình trạng nô lệ tại Việt Nam. Hồi tháng 8 năm 2013, BBC từng đăng một phóng sự
điều tra của Marianne Brown về “nô lệ trẻ em” ở Việt Nam. Thông qua Quỹ Trẻ Em
Blue Dragon, bà Brown đã tiếp xúc với nhiều đứa trẻ được Blue Dragon giải cứu.
Đa số là con em người thiểu số sống tại miền Bắc và miền Trung Việt Nam, bị dụ
dỗ vào Sài Gòn rồi bị cầm giữ, bị buộc phải làm việc trong các xưởng may, bị ép
ăn xin, thậm chí bán dâm.
Theo bà Brown, 25% số trẻ em mà Blue Dragon giải cứu
hồi năm 2012 là những đứa trẻ bị ép phải làm việc trong các xưởng may ở Sài
Gòn. Những “xưởng may” này thường rất chật hẹp và vừa là nơi làm việc, vừa là
nơi ăn ở của hàng chục đứa trẻ. Chủ xưởng chỉ cho các em vào nhà tắm 8 phút một
ngày. Tám phút đó dành cho cả việc đánh răng, tắm rửa và đi vệ sinh.
Nói cách khác, sau khi trở thành nổi tiếng vì là một
trong những cái nôi của tệ buôn người, nổi tiếng vì phụ nữ và trẻ em Việt Nam
đã bị biến thành hàng hóa để bán đi Trung Quốc, Đông Nam Á, châu Âu, Việt Nam
tiếp tục nổi tiếng vì người Việt bị biến thành hàng hóa để mua bán ngay tại Việt
Nam.
Ông Florian Forster, trưởng Văn Phòng Di Trú Quốc Tế
(IOM) tại Việt Nam, từng nói với bà Brown: Buôn người xuyên biên giới đã được
công nhận từ lâu nhưng buôn người tại Việt Nam chỉ mới được chính thức thừa nhận
từ năm 2011.
Bà Vũ Thị Thu Phương, một thành viên trong dự án
liên kết các tổ chức Liên Hiệp Quốc để phòng chống buôn người (UNIAP) từng xác
nhận: Hầu hết các vụ buôn người tại Việt Nam không bị coi là tội phạm mà chỉ bị
phạt hành chính. (G.Đ)
No comments:
Post a Comment