November 01, 2011
.
Chân dung Niccolo Machiavelli
1. Phong trào Phục Hưng tại nước Ý
Ngày 25 tháng 3 năm 1436,
dân chúng miền Florence hân hoan đón mừng buổi lễ khánh thành
ngôi giáo đường được đặt tên là Santa Maria del Fiore, hay Nữ Thánh
Mary của loài Hoa. Việc xây dựng ngôi nhà thờ này được bắt đầu vào cuối thế kỷ
13 và công tác đã kéo dài cho tới ngày hôm nay.
Cả thành phố Florence đã
hãnh diện về kiến trúc rực rỡ này. Đi dọc theo đường phố hai bên có treo cờ xí
đủ màu là đoàn diễn hành gồm các nhạc công dẫn đầu, với quần áo sặc sỡ, với tiếng
đàn hát có âm điệu tuyệt vời khiến cho người dân tưởng chừng như nghe được những
âm thanh của các thiên thần ở trên tầng cao. Trong đoàn diễn hành còn có các nhạc
sĩ, văn sĩ, nghệ sĩ, các chính khách rồi tới vị Giáo Hoàng trong áo choàng trắng
và vương niệm, 7 vị hồng y với áo gấm đỏ, 37 vị tổng giám mục trong y phục màu
tím rồi sau cùng là các viên chức thành phố và các lãnh tụ nghiệp đoàn. Ngôi
giáo đường mới Santa Maria del Fiore là một biểu tượng mới về uy tín của thành
phố Florence.
Florence quả thực rất rực rỡ cũng như một số thành phố khác nằm tại miền bắc
nước Ý. Những nơi này đã phát triển rất nhanh nhờ vào kỹ nnghệ và mậu dịch, rồi
nhờ vào các tài sản kiếm được do hai phạm vi kể trên, các bộ môn học thuật khác
cũng đổi mới: văn chương, nghệ thuật, kiến trúc… Một nền văn hóa mới đã thành
hình tại các thành phố của nước Ý vào hai thế kỷ 14 và 15. Loại văn hóa mới này
được gọi là phong trào Phục Hưng (Renaissance) theo
danh từ tiếng Pháp là sống lại. Các ý tưởng mới, các sáng tạo mới của
phong trào Phục Hưng đã tỏa rộng khắp nơi, lan tới các xứ sở khác của châu Âu.
Phong trào Phục Hưng không nằm trong phạm vi tôn giáo, mà là
một phong trào thế tục qua đó nhiều học giả đã quan tâm tới văn chương, nghệ
thuật, khoa học… họ xét lại các tư tưởng cổ điển của thời Cổ Hy Lạp và La Mã với
nền văn hóa chú trọng tới cá nhân con người và đời sống của con người trên mặt
đất. Các nhà tư tưởng của thời kỳ này tin rằng con người có thể cải thiện qua học
hỏi và sau đó xã hội có thể trở nên hoàn hảo.
Nền văn hóa Phục Hưng như
vậy đã được sinh ra tại một nơi đặc biệt, vào một thời điểm đặc biệt. Có nhiều
lý do làm nẩy sinh sự phát triển này. Một trong các lý do quan trọng là nền
mậu dịch đang bành trướng tại các thành phố của nước Ý. Vào giữa thế kỷ
14, phần lớn các con đường mậu dịch đều gặp nhau tại phần phía đông của Địa
Trung Hải. Các nhà buôn người Ý đã mua hàng hóa tại vùng biển này, với các
mặt hàng có giá trị tại châu Âu vào thời bấy giờ là tiêu, gừng, quế, thảm dệt…
và nữ trang, sau đó bán lại tại các hải cảng của miền bắc nước Ý rồi từ những
nơi này, hàng hóa được chuyên chở qua rặng núi Alps, tới các xứ Bắc Âu, hay bằng
đường biển để đến các miền tây của châu Âu.
Đóng góp vào việc giàu có
do nền mậu dịch mang lại là cấu trúc chính trị của miền bắc nước Ý. Miền này được
chia thành các quốc gia-thành phố (city-state) với lãnh thổ riêng, chủ
quyền riêng. Nền mậu dịch đã mang lại sự giàu sang cho các thành phố Venice, Florence,
Milan và Genoa. Mạnh nhất trong 4 thành phố này là Venice,
nơi được gọi là Nữ Hoàng của vùng biển Adriatic. Venice nằm tại
trung tâm của các con đường mậu dịch đông tây. Vào thế kỷ 15, các thương gia
Venetian đã có đội thương thuyền gồm 3.000 chiếc và chính quyền của thành phố
đã kiểm soát phần lớn nền mậu dịch của hai miền Adriatic và Địa Trung Hải.
Kế tiếp thành phố Venice là Florence,
nơi có các hoạt động kỹ nghệ và ngân hàng. Vào năm 1500, Florence là thành phố
rộng lớn thứ 5 của châu Âu, với dân số 130.000 người và trong số này, có lẽ
3.000 dân đã làm việc trong kỹ nghệ vải sợi, loại mặt hàng được trao đổi khắp
châu Âu. Florence còn nổi danh vì nghệ thuật, và nhiều hoạt động sáng tạo đã được
trợ giúp tại nơi này.
Tượng Niccolo Machiavelli
2. Chế độ tư bản xuất hiện
Nền văn hóa Phục
Hưng phát triển được là nhờ những tài sản tích lũy tại các thành phố của
miền bắc nước Ý. Do các phương pháp thương mại mới, tiền bạc đã đổ về đây khiến
cho đã ra đời chế độ tư bản. Chế độ tư bản có thể được định nghĩa là một hệ thống
kinh tế trong đó các cá nhân và các công ty – chứ không phải là chính quyền – sở
hữu các thương mại. Mục đích của các nhà tư bản là làm ra càng nhiều lợi nhuận
càng tốt rồi sau đó, lại đầu tư tiền bạc vào các thương mại để làm thêm ra các
lợi nhuận khác. Một trong các hình thức mới của cách khai thác tư bản là ngành
ngân hàng (banking).
Vào hai thế kỷ 14 và 15,
các nhà buôn của châu Âu đã trở nên giàu có, họ tìm cách bảo vệ tiền bạc của họ,
mượn thêm tiền và đầu tư vào các công việc làm ăn. Do địa điểm thuận tiện đối với
các công cuộc mậu dịch, nhiều người Ý đã trở nên chủ ngân hàng đầu tiên và
ngành ngân hàng là một kỹ nghệ chính của nước Ý trong hai thế kỷ này. Chính nhờ
các giấy tờ, chứng thư của ngân hàng, hàng hóa được nhận tại một nơi này, trả
tiền tại một nơi khác. Nhiều loại tín dụng đã được thực hiện rồi trở nên rất phổ
thông. Đã có các gia đình có tư bản lớn cho nhiều giới vay tiền với lãi xuất
cao: thương nhân, quý tộc, vua chúa.
Trong số các gia đình tư
bản này, đáng kể là giòng họ Medici của miền Florence.
Gia đình này đã làm chủ các nhà máy sản xuất lụa và len, điều hành tiền bạc cho
Giáo Hoàng và sở hữu một hệ thống ngân hàng lớn nhất châu Âu. Gia đình này cũng
cai trị thành phố Florence trong thời kỳ Phục Hưng. Với tính cách hoạt động ban
đầu như vậy, chế độ tư bản đã phát triển thành một hệ thống kinh tế chính của
châu Âu.
Đồng thời với nền kinh tế,
hoàn cảnh chính trị của nước Ý cũng là một cơ sở cho thời kỳ Phục Hưng. Trong
thời Trung Cổ, các vua chúa của xứ Đức đã muốn hợp nhất xứ Đức với các xứ Ý lại
thành Đế Quốc Thần Thánh La Mã (the Holy Roman Empire), giống như công
việc mà Hoàng Đế Charlemagne đã làm trước kia. Tư
tưởng chính trị này đã bị Giáo Hoàng phản đối rất mạnh vì e ngại bị mất uy quyền.
Do cả Giáo Hoàng và Hoàng Đế Đức đều không đủ sức mạnh để chinh phục nước Ý,
nên họ đã hợp tác lại với nhau.
Nước Ý vào thời đó gồm có
các quốc gia thành phố với các đặc quyền, chẳng hạn như quyền làm ra luật lệ
riêng, quyền bầu cử các viên chức, quyền đánh thuế và tăng thuế, tức là tại mỗi
khu vực đã có một hình thức chính thể cộng hòa. Với cách tổ chức chính quyền
này, các công dân tham dự vào cuộc sinh hoạt của thành phố và người dân các xứ
Ý đã không muốn chấp nhận thẩm quyền của cả Giáo Hoàng lẫn của Hoàng Đế Đức và
như vậy, vào lúc đầu của thời Phục Hưng, cá nhân đã trở nên
quan trọng. Các giới hạn đặt lên cá nhân của thời kỳ Trung Cổ khiến cho con người
bị mất tự do về tư tưởng và hành động đã bị đảo ngược, và cá nhân bắt đầu diễn
tả các ý tưởng riêng của họ về đời sống và nghệ thuật. Các niềm tin và tập tục
cũ đã bị phê phán, các tư tưởng chính trị mới bắt đầu thành hình tại các thành
phố của nước Ý, đặt căn bản cho thời Phục Hưng.
Vào thời kỳ Phục Hưng,
các quốc gia thành phố của nước Ý đã duy trì các tinh thần độc lập,
và bởi vì trên lãnh thổ Ý đã không có một chính quyền trung ương, mỗi thành phố
tự làm ra luật pháp và luật pháp cũng không đủ. Trong thành phố thường xẩy ra
các xung đột giữa các nhà buôn giàu có và các gia đình quý tộc, và một mối oán
thù giữa hai giòng họ đã được Đại Văn Hào William
Shakepeare mô tả trong vở kịch Roméo và Juliette,
sáng tác vào thập niên 1590.
Trong hoàn cảnh xã hội
thiếu trật tự và luật pháp của thế kỷ 15, đã xuất hiện một loại nhà lãnh đạo được
gọi là bạo chúa (despot). Đây là các chính khách
táo bạo, đã nắm quyền lực bằng sức mạnh và lường gạt, nhưng họ cũng cố gắng làm
vừa lòng người dân. Họ giúp đỡ thương mại, duy trì sự bảo vệ an ninh, điều khiển
một chính quyền hữu hiệu, mang lại vinh quang cho thành phố bằng các nghệ thuật
và kiến trúc rực rỡ. Các bạo chúa này có thể từ gốc nhà buôn và ngân hàng như
gia đình Medici ở Florence, hay lãnh tụ của một nhóm
quân đội như gia đình Sforzas của thành phố Milan.
Các bạo chúa của nước Ý
vào thời Phục Hưng đã nắm quyền lực vì họ khéo léo, có khả năng và có sức mạnh.
Một khi đã chiếm được quyền hành rồi, họ cố gắng dùng tài năng và quyền lực để
canh chừng các âm mưu lật đổ. Các chính khách này rất thành thạo cách xử dụng
nhiều phương tiện ám muội: dao găm, thuốc độc và các tai nạn có tính toán. Việc
dùng bạo lực và dối trá trong chính trị đã được một học giả nhận
xét, phê phán rồi phản ảnh qua tác phẩm Quân Vương: đó là nhà ngoại
giaoNiccolo Machiavelli.
Hình bìa tác phẩm The Prince
3. Tác phẩm Quân Vương và đường lối “chính trị dối
trá”
Vào thời Trung Cổ, các
sách vở viết về chính quyền rất hiếm, nếu có chăng, thì các công trình đó chỉ
mô tả các vua chúa, các nhà cai trị là những nhân vật tốt đẹp, trọng đạo đức.
Trái ngược hẳn với thường lệ, Machiavelli lại nói thực về chính quyền đã được
chiếm đoạt ra sao và duy trì ra sao vào thời đại của ông.
Niccolo Machiavelli sinh tại Florence ngày 3/5/1469 trong một
gia đình quý tộc đã phá sản. Cha ông là một luật sư, có được một chức vụ và địa
vị trung lưu. Do không giàu có, Niccolo được giáo dục phần lớn tại gia đình rồi
vào năm 1498, ông kiếm được một chức vụ trong chính quyền địa phương và đã phục
vụ tại Florence trong 14 năm. Vào thời kỳ này, xứ Florence đã phát triển rực rỡ
dưới quyền lực của gia đình ngân hàng rất có thế lực: Lorenzo de Medici.
Nhưng nước Ý hay các quốc gia thành phố đã không ổn định với năm quyền lực
tranh chấp nhau vào cuối thế kỷ 15: Florence, Venice, Milan, Naples và quyền vị
của Giáo Hoàng (the Papacy). Vào thập niên 1490, nước Pháp và nước Tây
Ban Nha đều giành chiếm xứ Naples và trước các kẻ ngoại xâm, các vương quốc Ý
đã đoàn kết lại để bảo vệ quyền lợi, nhưng sự chống trả của họ đã bị giới hạn
và cuốí cùng, nước Tây Ban Nha đã kiểm loát được phần lớn nước
Ý, đặc biệt là miền nam, bao gồm cả hai xứ Milan và Florence.
Trong thời gian gia đình
Medici vắng mặt khỏi chính quyền từ 1502 tới 1512, Piero Soderini đã
là nhà lãnh đạo của quốc gia thành phố Florence và Machiavelli trở nên một nhà
ngoại giao, từng đi khắp nơi từ các vương triều này sang các chính quyền khác của
nước Ý và của châu Âu: nước Pháp, Đế Quốc Thần Thánh La Mã và Nhà Thờ Công Giáo
La Mã, nhờ đó ông đã có các nhận xét sắc bén về quyền lực và thành công tại các
xứ sở mà ông đã viếng thăm.
Công việc phải thi hành
đã cho Machiavelli các hiểu biết và kinh nghiệm mà ông diễn tả trong các cuốn
sách nói về chính quyền sau khi nền cộng hòa Florence đã sụp đổ và sau lần phục
hồi địa vị của gia đình Medici vào năm 1512, với Giuliano de Medici trở nên nhà
cai trị xứ này. Chính vào thời gian bị cho nghỉ việc, Machiavelli đã sống bằng
tài sản riêng, ở bên ngoài thành phố và đã dành thời giờ để viết nên hai tác phẩm
là Quân Vương (the Prince) và Các Đàm Luận về
Livy (Discourses on Livy)cũng như cuốn hài kịch the
Mandrake (1518).
Khi Hồng Y Giulio
de Medici, người mà sau này trở thành Giáo Hoàng Clement VII,
cai trị xứ Florence vào năm 1520, Machiavelli được phục hồi chức vụ cao cấp
trong chính quyền. Để vinh danh nhân vật bảo trợ là Lorenzo Strozzi,
Machiavelli đã soạn ra vào năm 1521 tác phẩm Về Nghệ Thuật Chiến Tranh (On
the Art of War), một cuốn sách khảo sát, đặt nền móng cho các chiến thuật
quân sự mới. Tới năm 1527, gia đình Medici bị loại khỏi chính quyền thì
Machiavelli cũng mất việc vì đã là người phục vụ cho gia đình quyền thế này.
Niccolo Machiavelli qua đời vào ngày 21/6/1527.
Người thời trước và ngay
cả thời nay có thể hiểu nhầm về Machiavelli vì ngôn từ xử dụng và các động lực
đã khiến ông viết ra các tác phẩm, nhưng sự hoài nghi của ông
đã khiến ông nhận biết nỗi bi quan của con người trước sự yếu đuối của tâm hồn,
trước sự thất vọng khi nhìn thấy đạo đức không chiến thắng.
Qua tác phẩm Quân
vương (the Prince), Machiavelli đã tóm lược tất cả các kiến thức
và ý kiến của ông về nghệ thuật làm vua (kingship). Ngày nay có thể đây
là một văn bản nói tới sự tàn nhẫn, nhưng mục đích chính của tác phẩm là trình
bày sự việc làm sao một vị quân vương (the prince) có thể chiếm được
chính quyền, kiểm soát lãnh thổ theo ý muốn và duy trì công việc kiểm soát đó.
Đây là điều mô tả một nhà cai trị của thời kỳ Phục Hưng phải hành động ra sao để
thành công. Phần lớn các lời khuyên dùng cho vị quân vương hoàn toàn thực tế.
Tác phẩm Quân
Vương đã xét lại từ sự sụp đổ của Đế Quốc La Mã tới việc các hoàng đế
xử dụng các đạo quân man rợ làm lính đánh thuê. Nhiều loại xứ sở (states)
đã được đề cập tới, các xứ sở này vì sao đã thành công hay thất bại và
Machiavelli cũng nói tới các phương pháp mà các quân vương phải dùng để chiếm
quyền và giữ quyền, cũng như làm sao các xứ sở có thể tổ chức để tự bảo vệ và
chống lại các kẻ ngoại xâm.
Đối với Machiavelli, đầu
tiên vị quân vương phải là một chiến sĩ có tài, vừa thành công
trong việc tổ chức quân đội, vừa biết tạo ra các cơ hội để bành trướng lãnh thổ
và duy trì nền cai trị. Cũng theo Machiavelli, không nên dùng các đội lính đánh
thuê (mercenary troops) bởi vì lòng trung thành của họ đã bị chia xẻ và
quan điểm này đã đúng khi dân quân của ông chiếm được miền Pisa vào năm 1509.
Hình bìa tác phẩm The Prince
Tác phẩm Quân
Vương cũng khuyên vị vua chúa nên tuyển chọn một cách khôn ngoan các
viên chức trong thời bình, nói rõ sự quan trọng của việc phân quyền và
việc cảnh giác trước những lời tán dương, tâng bốc. Machiavelli cho
rằng sự thành công không phải chỉ do việc dùng sức mạnh. Đối với các miền đất bị
xâm chiếm, rất cần phải lấy lòng các dân tộc mới bị đô hộ và sự kiện này nên
được thực hiện do lừa dối: một nhà cai trị giỏi phải làm ra vẻ muốn thực hiện
điều này trong khi thực sự lại đang làm một việc khác.
Tác phẩm Quân
Vương đã cứu xét tới các đức tính cá nhân của vị quân vương lý tưởng,
cùng các phẩm chất cần thiết cho một nhà cai trị giỏi. Những điều này được rút
từ các nhận xét về một người: Cesare Borgia.
Trong các gia đình vương
giả của thời Phục Hưng của nước Ý, ít có giòng họ nào có quyền lực hơn gia
đình Borgia, với hai người đã làm tới chức giáo hoàng, một người là
nhà lãnh đạo quân đội nổi danh và một người khác nổi tiếng về bảo trợ văn
chương và nghệ thuật. Thế nhưng, gia đình Borgia này còn được người đời nhớ đến
vì các hành động độc ác và các cách lừa dối của
họ.
Vốn giòng dõi quý tộc với
tổ tiên cư ngụ gần Valencia, Tây Ban Nha, người đầu tiên của gia đình này nắm
giữ chức vụ quan trọng là Alfonso Borgia (1378 -1458). Ông này
được bầu làm Giáo Hoàng của Nhà Thờ La Mã năm 1455 và có danh hiệuCalixtus
III. Giáo Hoàng Calixtus đã đưa người cháu Rodrigo (1431-1503)
tới La Mã rồi không lâu, Rodrigo đã được phong chức tổng giám mục bởi người
chú. Là một con người rất khôn khéo và tham vọng, Rodrigo đã trở thành một vị hồng
y (cardinal) khi 25 tuổi. Năm 1492, Rodrigo Borgia được
bầu làm Giáo Hoàng mang danh hiệuAlexander VI rồi
liền sau đó, đã dùng chức vụ và uy quyền của mình để củng cố tài sản và địa vị
cho 3 người con: người con lớn là Giovanni (1476 – 97) lãnh chức
hầu tước Gandia, cai quản đội quân của giáo hoàng, người con thứ hai được cha
yêu thích nhất là Cesare (1476 -1507) được phong tổng giám mục
Valencia rồi năm 1493, trở thành hồng y. Cesare đã từ chức để lãnh đạo quân đội
khi Giovanni bị giết vào năm 1497.
Cesare Borgia được đồng minh người Pháp giúp đỡ, chiếm được vùng Romagnacủa
nước Ý rồi sau đó, đã tấn công các thành phố và thị trấn của nước Ý nào không
công nhận thẩm quyền tối thượng của giáo hoàng, và chính nhờ các công lao của
Cesare, từ các vùng đất rời rạc, vương quốc của giáo hoàng đã được thống nhất.
Năm 1503, khi Giáo Hoàng Alexander VI bị giết trong hoàn cảnh bí mật thì các kẻ
thù của gia đình Borgia đã hợp nhất để chống Cesare. Bị thua trận, Cesare bị bắt
làm tù binh và mặc dù lần vuợt thoát về sau, ông ta đã bị giết trong trận đánh
vào ngày 12/3/1507 tại xứ Tây Ban Nha.
Trong tác phẩm Quân
Vương, đôi khi Machiavelli đã khâm phục Cesare Borgia một
cách công khai và khi thảo luận về các đức tính của một nhà cai trị, ông đã cho
rằngsự tàn ác đôi khi được coi là cần thiết. Sự tàn ác
của Cesare rõ ràng đã làm thống nhất lại xứ Romagna cũng như thiết lập lại trật
tự và luật pháp cho xứ sở này và như vậy, sự tàn ác có thể coi là lòng trắc ẩn
bị che dấu đối với dân chúng của một xứ sở, và chính loại dân chúng này đã được
hưởng lợi từ một chính quyền ổn định. Machiavelli dẫn chứng nhiều về Cesare
Borgia với tài năng điều khiển quân đội, và ông cũng cho rằng nhà cai trị có vẻ
như có hào quang từ Thượng Đế để phục hồi lại một xứ sở.
Không chỉ kính phục một
nhân vật, Machiavelli còn mô tả và bình luận về nhiều loại nghệ thuật làm vua,
thứ nào thích hợp với các nhu cầu của thời đại. Cuốn Quân Vương đã
tập trung, nói về một xứ sở (state) thay vì đề cập tới các đế quốc rộng
lớn của châu Âu bởi vì xứ sở hay quốc gia thành phố là đơn vị chính trị mà người
dân nước Ý vào thời đại đó phải đối phó. Và có lẽ cũng do nhu cầu của nước Ý mà
Machiavelli đề cao sự xảo quyệt, độc đoán, coi đó là một
cách đạt tới sự ổn định xứ sở.
Các sách vở của các thời
đại trước thường cứu xét việc cai trị các quốc gia và các thành công chính trị
trên căn bản đạo đức Thiên Chúa Giáo (christian ethics) và tư cách đức độ
của các nhà cai trị được gắn liền với các thành công. Nhưng với Machiavelli,
ông đã tách rời tôn giáo khỏi chính trị, tách đạo
đức ra khỏi sự thành công và đã cứu xét các vấn đề của quốc gia trên sự liên hệ
với các đồng minh và các kẻ thù.
Tác phẩm Quân
Vương như vậy đã gắn liền với các thực tại chính trị của thời đại, nơi
mà các nghệ thuật của nền ngoại giao và các quyết định cai trị có tính quỷ
quyệtbị coi là cần thiết cho sự sinh tồn của quốc gia. Đây là lý do khi
chính quyền làm việc này mà thực ra là việc khác, khi vị quân vương che dấu tư
tưởng của mình bằng nhiều mặt nạ để có thể đi trước những người
chung quanh, khi các mục tiêu được dùng để biện minh cho các phương tiện xử dụng.
Từ khi được xuất bản vào
năm 1513, tác phẩm Quân Vương đã được nhiều người nghiên cứu kỹ
càng và tranh luận. Một số người đã cho rằng Machiavelli đã vô luân(immoral)
khi không chú trọng đến tôn giáo và các tiêu chuẩn đạo đức của hành vi con người.
Một số khác lại khen ngợi Machiavelli đã khéo léo cứu xét người đời, tại sao họ
đã hành xử, tại sao họ thiếu đi một số đức tính. Theo ý Machiavelli, xứ sở phải
tồn tại bằng mọi giá, điều mà một số nhà cai trị đã theo đuổi để xây dựng các
quốc gia mạnh, đoàn kết.
Sau đây là sơ lược vài tư
tưởng của Niccolo Machiavelli:
Nhu cầu quan trọng nhất của một quân vương là quyền
lực. Vị quân vương phải theo các quy tắc thực tế để nắm giữ quyền lực này. Có
hai cách duy trì quyền lực: luật pháp và sức mạnh. Cách thứ nhất thì tốt nhưng
luôn luôn không đủ. Vị quân vương giỏi phải dùng cách thứ hai, cách của sức mạnh.
Ông ta phải vừa là một con sư tử, vừa là một con cáo,
phải đủ mạnh để làm run sợ các con chó sói và phải đủ khôn ngoan để nhận biết
ra các cạm bẫy. Quân vương không cần giữ lời hứa nếu có điều gì chạm vào quyền
lợi của ông ta. Phần lớn con người thì bất lương, vô ơn, lường gạt, nói dối, sợ
nguy hiểm và tham lợi, cho nên tại sao vị quân vương phải lương thiện với họ.
Một quân vương nên để cho người dân yêu mến hay sợ
hãi? Có thể ông ta cần cả hai. Nhưng nếu phải chọn một trong hai thì an toàn
hơn là để cho người dân khiếp sợ. Tuy nhiên tôi cho rằng vị quân vương nên làm
ra vẻ bác ái và trọng danh dự, vì dù sao phần lớn con người thường bị lường gạt
bởi sự phô trương và tôi đồng ý rằng một quân vương không kiểm soát được mình
thì giống như một kẻ điên, và không còn điều nghi ngờ về một chính quyền được
điều hành bằng luật pháp.
Niccolo Machiavelli đã bị hiểu lầm về lý thuyết của ông vì
thực ra, ông là một người thực tế, hiểu rõ một số bản chất của
con người. Các suy tưởng của Machiavelli về nhân loại đã khiến cho một số học
giả coi ông là nhà sáng lập ra môn Triết Học củaLịch Sử.
© Phạm Văn Tuấn © www.Vietthuc.org
-----------------------
Nguồn :
Niccolo
Machiavelli
|
Vietsciences- Phạm
Văn Tuấn 03/04/05
No comments:
Post a Comment