Trần
Văn Minh dịch
Trong khi Nga đã sử dụng “lính áo xanh lá cây” một
cách lén lút ở Crimea, Trung Quốc sử dụng “lính áo xanh dương” của riêng họ để
hỗ trợ các tuyên bố trong vùng biển gần. Khi quân đội Mỹ hoạt động gần các thực
thể nhân tạo của Bắc Kinh ở Biển Đông và tìm cách ngăn chặn Bắc Kinh mở rộng
yêu sách chủ quyền ra nước ngoài đến những nơi như Bãi Cỏ Mây (Second Thomas
Shoal), Hoa Kỳ cũng có thể phải đối mặt với sự giám sát và quấy rối từ lực lượng
dân quân biển của Trung Quốc. Do đó, Washington và các đồng minh, đối tác, phải
hiểu làm thế nào các lực lượng bán chính quy này được điều khiển và kiểm soát,
trước khi bị bất ngờ và bị họ cản trở.
Trung Quốc từ lâu đã huấn luyện các tổ chức hàng hải
dân sự trở thành lực lượng dân quân biển, chủ yếu bắt nguồn từ sự cần thiết. Những
năm gần đây đã chứng kiến sự chú tâm bất thường vào việc xây dựng lực lượng dân
quân biển và gia tăng khả năng của lực lượng duy nhất này; tuy nhiên khó có thể
xác định ai hay bộ phận nào trong chính quyền Trung Quốc đã đưa ra sự quan tâm
đó. Người ta có thể lưu ý tới chuyến thăm của Tập Cận Bình đến dân quân biển ở
Tanmen vào năm 2013, sau đó việc xây dựng lực lượng dân quân biển nhắm tới Biển
Đông đã phát triển tại những nơi như Hải Nam, Quảng Đông và Quảng Tây. Dù vậy,
việc huấn luyện lực lượng dân quân địa phương và các kế hoạch thành lập tổ chức
trước ngày này đã nhấn mạnh đến việc đào tạo các đơn vị dân quân biển.
Thành
phần và tổ chức:
Lực lượng dân quân của Trung Quốc có hai thành phần
chính: một lực lượng trừ bị “thông thường” đã đăng ký của nam công dân giống
như danh sách dự bị của Mỹ (Selective Service), và một lực lượng “chính” sẵn
sàng huy động hơn để đáp ứng các tình huống khác nhau. Lực lượng chính nhận được
nguồn tài trợ riêng, những quân nhân xuất ngũ, và chương trình đào tạo. Bên
trong lực lượng chính, các đơn vị dân quân biển, chỉ được hình thành ở cấp độ
chiến thuật của tổ chức, nhỏ hơn và chuyên môn hơn bình thường so với các đối
tác trên đất liền của họ. Trong lực lượng dân quân biển, một số nhỏ, nhưng đang
phát triển, các đơn vị ưu tú là những nhóm có thể được triển khai trong các hoạt
động tinh vi liên quan đến việc giám sát, biểu lộ sự hiện diện trước hoặc chống
lại các nhân tố nước ngoài. Họ làm như vậy, một phần, để hỗ trợ hải quân và tuần
duyên Trung Quốc. Một số thành phố có tiềm năng huy động lớn, tức là có một
ngành công nghiệp hàng hải hoặc cộng đồng ngư nghiệp lớn, sẽ thành lập các đơn
vị cỡ tiểu đoàn. Tuy nhiên, hầu hết các địa phương thành lập những đơn vị cỡ đại
đội. Những đại đội này được chia thành các trung đội và tiểu đội, với nhóm nhỏ
nhất dựa trên thành viên của mỗi tàu cá.
Hệ
thống chỉ huy:
Việc quản lý lực lượng dân quân bắt đầu rộng rãi từ
Sở Huy động của Bộ Tổng tham mưu, có nhiệm vụ coi sóc và ban hành các quy định
cho công tác dân quân trên toàn quốc. Riêng lực lượng quân sự địa phương, lực
lượng dân quân biển nằm trong cơ cấu điều hành địa phương của Quân đội Giải
phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA), ảnh hưởng tất cả các cấp của các cơ phận quân
sự địa phương. Như được yêu cầu trong “Các Quy định làm việc của dân quân” của
Trung Quốc, lệnh thực sự đưa ra cho lực lượng dân quân bắt đầu tại cấp quân sự
tỉnh (MD) và bên dưới. Hàng ngàn lực lượng vũ trang nhân dân cấp quận và cấp cơ
sở (PAFD) tại các thành phố cấp huyện, thị trấn, làng mạc và các doanh nghiệp
hàng hải (công ty đánh cá, nhà máy đóng tàu, v.v…) trực tiếp thực hiện việc tổ
chức và huấn luyện lực lượng dân quân biển. Các PAFD cấp cơ sở báo cáo lên PAFD
cấp huyện, và sau đó báo cáo lên trung tâm quân sự huyện (MSD), là nơi báo cáo
lên Trung tâm quân sự tỉnh (MD). Việc xây dựng lực lượng dân quân biển cũng được
sự chú ý của Bộ chỉ huy cấp quân khu, mặc dù dưới kiểu giám sát. Chỉ huy quân sự
cao cấp có vẻ xem các lượng dân quân biển là một tập hợp con của tổ chức quân sự
bên trong hệ thống rộng lớn hơn của lực lượng dân quân địa phương, với sự tập
trung đặc biệt vào nỗ lực huy động rộng lớn hơn. Ngoài ra, các tiểu đoàn và đại
đội dân quân thành lập các chi nhánh đảng để bảo đảm sự kiểm soát của đảng tới
các cấp cơ sở.
Cần phải nhấn mạnh rằng quyền chỉ huy lực lượng dân
quân biển nằm trong nhiều cơ phận, bao gồm cả các bộ phận địa phương (MD, MSD,
PAFD) và phía tương quan đảng / chính quyền. Điều này được gọi là “双重 领导” ở Trung Quốc, có nghĩa là hệ
thống “lãnh đạo song hành” của quân đội địa phương và lãnh đạo chính của chính
phủ. Vì thế, thường thấy một bí thư đảng của thành phố, trong vai trò bí thư thứ
nhất đảng ủy quân sự địa phương cai quản các nỗ lực của PAFD, điều hành lực lượng
dân quân biển. Một ví dụ dễ thấy: bí thư/ thị trưởng thành phố Tam Sa, Tiêu Kiệt,
và người tương nhiệm quân sự của ông, Tư lệnh Cai Xihong đều tham dự buổi lễ
thành lập đại đội dân quân biển của thành phố Tam Sa. “Lãnh đạo song hành” được
củng cố thêm bởi thực tế rằng chính quyền địa phương tài trợ xây dựng lực lượng
dân quân.
Bởi lẽ cả những lãnh đạo quân sự và chính quyền đều
tham gia vào việc xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, Hệ thống Ủy ban Vận động
Quốc phòng (NDMC) được thành lập ở mỗi cấp độ tương ứng đóng vai trò quan trọng
trong việc ràng buộc họ vào một cơ chế ra quyết định. Các NDMC quy tụ các nhà
lãnh đạo để tổ chức, chỉ đạo, phối hợp vận động quốc phòng trên toàn quốc, bảo
đảm rằng các nguồn lực quốc gia có thể được huy động nhanh chóng cho nhu cầu quốc
phòng hay tình trạng khẩn cấp. Các NDMC địa phương cũng có thể thiết lập cấu
trúc chỉ huy liên hợp dân sự – quân sự được hỗ trợ bởi mạng truyền thông vận động
quốc phòng. Là một lực lượng dân quân, lực lượng dân quân biển cần một khoảng
thời gian nhất định để huy động và tập trung ở các khu vực do cấp trên của họ
chỉ định. Lệnh điều động địa phương truyền tới lượng dân quân biển có thể bắt
nguồn từ nhiều nơi khác nhau. Dù thế nào đi nữa, các lệnh được gửi xuống hệ thống
và chuyển giao cho lực lượng dân quân biển đều thông qua các PAFD đang quản lý
lực lượng.
Trong khi các PAFD cấp huyện được điều hành bởi sĩ
quan quân đội tại ngũ, PAFD cấp cơ sở được điều hành bởi cán bộ chính quyền dân
sự. Các nỗ lực đào tạo và giáo dục nhắm tới một “nhóm cán bộ dân quân chọn lọc”
(专职 人民 武装 干部), các lãnh đạo đơn vị (đại đội, trung đội, và tiểu
đội) và “cán bộ thông tin” (信息 员). Nhóm cán bộ này hình thành cột xương sống của lực lượng dân quân biển
và giúp thực hiện sự kiểm soát của đảng, chỉ huy và kiểm soát, và duy trì sự gắn
kết giữa các đơn vị. Thiết yếu cho sự chỉ huy và kiểm soát thành công của các lực
lượng dân quân biển là những “thuyền trưởng” – thường được gọi “船老大” – và các cán bộ thông tin, là
số nhân sự chuyên dụng cho lãnh đạo, nhận dạng và thông tin liên lạc. Lực lượng
dân quân biển còn được tiếp sức thêm bằng việc được gia tăng áp dụng công nghệ
thông tin vệ tinh cho các đội tàu đánh cá.
Quyền
chỉ huy dựa trên sứ mệnh:
Mặc dù lực lượng dân quân biển được xây dựng từ cơ cấu
chỉ huy thông thường của các bộ phận quân sự ven biển, họ cũng phục vụ các lực
lượng thực thi pháp luật hàng hải (MLE) và hải quân. Các mối liên hệ chỉ huy đối
với lực lượng dân quân biển có thể thay đổi tùy theo các nhiệm vụ mà họ đang
thi hành. Ví dụ, các phân đội dân quân trinh sát biển báo cáo kết quả trực tiếp
đến trụ sở MD, trong khi phân đội khác được triệu tập để hỗ trợ cơ phận thực
thi pháp luật hàng hải sẽ được chỉ huy bởi Tuần duyên Trung Quốc (CCG) “cùng với
MD của họ”. Tương tự như vậy, phân đội hỗ trợ phục vụ cho hải quân Trung Quốc sẽ
được đặt dưới sự chỉ huy của Hải quân Trung Quốc, cùng với MD của phân đội. Rõ
ràng là các lực lượng dân quân biển được kiểm soát bởi các cơ phận quân sự địa
phương trên đất liền của họ, một sự sắp xếp đủ linh hoạt để phục vụ một loạt
các vai trò hỗ trợ cho các lực lượng hải quân và MLE. Nhiều nguồn tin Trung Quốc
dùng một cụm từ ngắn gọn để mô tả sự sắp xếp như vậy: “Cơ quan quân sự thể hiện
các yêu cầu, NDMC phối hợp, và chính quyền thi hành” (军事 机关 提 需求, 国 动 委 搞 协调, 政府 抓 落实), ám chỉ sự
hợp tác xảy ra giữa các nhà lãnh đạo dân sự và quân sự trong việc xây dựng lực
lượng dân quân biển.
Có
nhiều cách để kết chặt nhau:
Tổ chức và chỉ huy của lực lượng dân quân biển có thể
thay đổi tùy theo địa phương. Điều này xuất phát chủ yếu từ ngành công nghiệp
hàng hải địa phương và ảnh hưởng của nó trên cấu trúc dân quân, đòi hỏi các nhà
lãnh đạo địa phương phải hoạch địch kế hoạch từ những gì có sẵn. Sắp xếp tiến
trình chỉ huy và ra quyết định dựa trên các điều kiện địa phương là rất quan trọng
cho sự hoạt động đúng đắn của một lực lượng như vậy. Nhiều nhóm nhỏ chuyên nghiệp
hàng đầu được thành lập để xử lý một khu vực có vấn đề, hoặc cung cấp hướng dẫn
tạm thời cho các nhiệm vụ nào đó. Nhiều tổ chức hỗ trợ xây dựng lực lượng dân
quân biển (như Tuần duyên (CCG), Cục Thủy sản, Cơ quan An toàn Hàng hải) có thể
tham gia vào cấu trúc chỉ huy với một cách nào đó.
Việc giảm 300.000 quân mà Tập Cận Bình công bố tại
cuộc diễu binh ngày 3 tháng 9 ở Bắc Kinh có thể sẽ gửi thêm nhân viên đến các lực
lượng dân quân biển, và thậm chí có thể thay đổi thêm mô hình chỉ huy và kiểm
soát. Đặc biệt là các nỗ lực để chỉnh đốn chuỗi báo cáo dài dẵng hiện nay thông
qua các lực lượng đất liền có thể phát sinh. Và có một lý do quan trọng hơn nữa,
điều vô cùng khẩn cấp là tìm hiểu xem “những người lính áo xanh dương” Trung Quốc
nhận lệnh ra khơi bằng cách nào, và những lệnh đó là gì.
No comments:
Post a Comment