Tôi
(và chắc nhiều bạn khác) vẫn hay nghĩ rằng chỉ cần tìm hiểu tình hình bên Tàu cộng
là chúng ta có thể hiểu và biết tình hình Việt Nam, kể cả những bất cập và sự
kiện man rợ xảy ra trong quá khứ. Thật vậy, các bạn hãy đọc bài dịch dưới đây,
các bạn sẽ thấy VN đã áp dụng một cách rập khuôn các thủ đoạn dã man của Mao Trạch
Đông vào VN như thế nào.
Bài này cho rằng Mao Trạch Đông đã cho triển khai
triệt để một số thủ đoạn để triệt tiêu đường sống (hay nôm na là bóp bao tử) của
công chúng và buộc công chúng phải phục tùng ông.
Có 5 thủ đoạn chính:
• chế
độ hộ khẩu;
• chế
độ tem phiếu;
• chế
độ lí lịch;
• chế
độ cải tạo; và
• chế
độ cơ quan đơn vị.
Đọc qua 5 thủ đoạn này, có lẽ các bạn thuộc thế hệ của
tôi sẽ kêu lên kinh ngạc: sao mà giống VN thế! Thực sự thì cũng không ngạc
nhiên, vì VN chỉ rập khuôn theo Tàu mà thôi. VN không có cách mạng văn hoá,
nhưng cũng có những chiến dịch tương tự ở qui mô nhỏ hơn. VN cũng có chế độ hộ
khẩu, và cho đến bây giờ vẫn còn duy trì chế độ này dù không dã man như trước
đây. May phước là chế độ tem phiếu đã đi vào dĩ vãng, nhưng cũng đủ để lại những
di chứng kinh hoàng. Chế độ cải tạo đã gây biết bao kinh hoàng của người miền
Nam sau 1975, và một số người miền Bắc trước đó.
Nhiều người nói rằng VN không còn chế độ lí lịch,
nhưng sau khi tiếp xúc với bà con, bạn bè, đồng nghiệp, tôi thấy chế độ này vẫn
còn tồn tại nhưng dưới hình thức khác. Rõ ràng là việc bổ nhiệm vào các chức vụ
quan trọng vẫn dựa vào màu đỏ của lí lịch. Người công giáo không được phục vụ
trong ngành công an (?) Còn Việt kiều, thì tôi nghe nói (chứ chưa có chứng cứ cụ
thể) là Nhà nước phân biệt 2-3 nhóm. Nhóm miền Nam đi vượt biên là xấu nhất;
nhóm miền nam đi du học trước 1975 là xấu chút chút; còn nhóm miền Bắc đi du học
hay lao động nước ngoài là tốt. Như vậy là vẫn có sự kì thị có hệ thống và có tổ
chức, chứ chủ nghĩa lí lịch chưa hết ở VN. VN sẽ chẳng bao giờ khá nổi với chủ
nghĩa lí lịch chỉ dành ưu tiên cho đảng viên — tôi có thể tiên lượng khẳng định
như thế.
Chế độ quản lí cấp vi mô như cơ quan đơn vị, theo
tôi thấy, vẫn còn được duy trì. Chẳng hạn như sinh viên hay nhân viên tham gia
biểu tình chống Tàu cộng là bị “hỏi thăm” ngay tại trường đại học hay cơ quan. Trường
hợp tiêu biểu là Nguyễn Phương Uyên, em ấy chẳng những bị đuổi học mà còn bị
triệt tiêu đường học. Chưa thấy nước nào đối xử với công dân man rợ như thế. Có
khi quan chức cấp trung tham gia kí các thỉnh nguyện thư chống Tàu bị cơ quan
cô lập ngay. Do đó, các thủ đoạn mang nặng “Mao tính” này vẫn còn tồn tại ở VN,
dù dưới hình thức khác và cường độ dã man có phần giảm chút so với trước đây.
Sự việc xảy ra trong quá khứ thì chúng ta chẳng muốn
khơi dậy làm gì, nhưng không được quên (vì đó là một phần lịch sử). Tôi nghĩ những
ai đang ra sức lấy điểm bằng cách áp dụng 5 thủ đoạn trên để đàn áp người dân
yêu nước, đàn áp sinh viên, đàn áp đồng nghiệp, v.v. nên đọc bài dưới đây, và
suy nghĩ lại việc làm của mình. Những ai đã sống đủ thời gian và trải qua những
thời gian đau khổ sẽ chứng nghiệm một qui luật rằng: những kẻ làm những việc ác
ôn trong quá khứ thì trong tương lai gần họ hoặc gia đình họ sẽ chịu những hình
phạt nặng nề như những gì họ gây ra cho người khác, y như câu mà người phương
Tây hay nói what goes around comes around (có lẽ dịch là “gieo nhân nào thì gặt
quả đó”).
NVT
————————————–
06-11-2013
Cách
mạng văn hóa là tội của ai?
Hidematsu
Hiyoshi [1]
(trao đổi với giáo sư Mao Vu Thức)
Trong thời đại Mao Trạch Đông, dân chúng không có
quyền tự do ngôn luận, tự do theo đuổi nghề nghiệp, tự do cư trú và tự do đổi
nơi cư trú. Điều mà người dân có thể làm chỉ là sự phục tùng. Bởi vì “kẻ không
phục tùng không có cơm ăn”, ai không phục tùng thì phải “đói mà chết dần”. Tất
cả bi kịch cũng như mọi chuyện hoang đường xuất hiện trong thời Cách mạng Văn
hóa không phải là trách nhiệm và lỗi lầm của nhân dân Trung Quốc (trong
đó có giáo sư Mao Vu Thức[2]). Tạp chí Minh Kính số tháng 8
đăng bài “Kỉ niệm một vị nữ thánh” của Ngô Giá Tường.[3]Trong
bài có nhắc đến chuyện kinh tế gia Mao Vu Thức phát biểu trong lễ kỉ niệm
tròn 90 năm ngày sinh Vương Bối Anh[4]rằng “Bi
kịch Cách mạng Văn hóa dù do lãnh tụ vĩ đại Mao Trạch Đông đích thân đạo diễn,
cộng thêm nhóm tứ nhân bang cùng những kẻ tay sai trợ ác cùng lắm cũng chỉ mấy trăm
người. Vậy mà cả nước sáu bảy trăm triệu người điên cuồng vào cuộc. Có một nửa
trách nhiệm ở người dân. Nếu Mao Trạch Đông và lũ bốn tên sang Hoa Kì làm việc
đó thì khẳng định là làm không nổi”.[5]Giáo sư
Mao có dũng khí phản tỉnh như vậy thực đáng ca ngợi. Vậy mà người viết bài này
quả thật không dám đồng ý với phát biểu cho rằng nhân dân phải gánh một nửa
tránh nhiệm về bi kịch Cách mạng Văn hóa và nếu như là ở Mĩ thì không thể tiến
hành được cuộc cách mạng đó. Chúng tôi cho rằng quan điểm đó có vấn đề về
logic rất đáng được trao đổi thêm.
“Kẻ
không phục tùng không có cơm ăn”
Cách mạng Văn hóa sở dĩ có thể phát động và lôi cuốn
dân chúng – việc này hoàn toàn có quan hệ với thể chế chính trị Trung Quốc. Dưới
thời Mao, dân không chỉ mất quyền tự do ngôn luận. Đến quyền tự do chọn nghề
nghiệp, tự do cư trú và di chuyển cũng chả có. Mỗi một người đều trở thành “chiếc
đinh ốc” trong cỗ máy quốc gia. Còn nhà nước thì trở thành người chủ nhân công
duy nhất, người kinh doanh của tất cả các xí nghiệp. L.Trotsky nói từ 1937:
“Trong những nước mà nhà nước là người thuê nhân công duy nhất, phản kháng đồng
nghĩa với việc “từ từ chết đói”. Nguyên tắc xưa cũ “kẻ không lao động không được
ăn” đã bị thay thế bởi nguyên tắc mới “kẻ không phục tùng không được ăn”[6](sách “Đường
đến nô dịch”). Trong một xã hội như thế, việc mà dân chúng có thể làm chỉ có thể
là phục tùng và phục tùng. Bởi vì “kẻ không phục tùng không được ăn”, kẻ không
phục tùng thì sẽ đối diện với uy hiếp của việc phải “từ từ chết đói”.
Ta hãy xem tình cảnh xã hội Trung Quốc thời Mao.
Chính quyền mới được thành lập sau 1949. Trong thập niên những năm 50 hàng loạt
các cuộc vận động chính trị và trấn áp phản cách mạng do Mao phát động đã tiêu
diệt triệt để giai cấp trí thức thân hào trong xã hội Trung Quốc truyền thống.
Những chức năng có tính truyền thống của xã hội Trung Quốc theo đó cũng tiêu
vong. Trên một cơ sở như thế Mao đã sử dụng năm thủ đoạn kể sau để khống
chế chặt chẽ xã hội dưới tay mình.
Thủ
đoạn thứ nhất – Chế độ hộ khẩu
Chế độ hộ khẩu kiểu Trung Quốc phân tách thành thị
và nông thôn. Nông dân suốt đời bị cầm cố ở nông thôn, các hộ dân quê không có
cách nào để dời lên thành phố. Không có hộ khẩu thành phố thì không có chỗ làm,
không có hộ khẩu thành phố thì không có phân phối lương thực, không có hộ khẩu
thành phố không những không làm được bất cứ việc gì mà chính ra là không thể
sinh tồn. Dân thành phố cũng bị cầm cố tại chính nơi cư trú của mình. Việc chuyển
chỗ ở giữa các thành phố cũng vì chế độ hộ khẩu mà chịu sự khống chế hoàn toàn.
Chế độ hộ khẩu đó dẫn đến vấn đề bất bình đẳng về mức sống, việc làm, đi học giữa
nông thôn và thành phố. Vậy nhưng chỗ giống nhau về quyền lợi chính trị mà dân
nông thôn và dân thành phố được hưởng đều là “không có gì”. Chế độ hộ khẩu
Trung Quốc còn có một công năng khác, đó là thông qua hộ khẩu cưỡng chế những
ai không phục tùng hay có kiến giải độc lập về nông thôn tiếp thu giáo dục lao
động cải tạo. Sự khác biệt giữa thành phố và nông thôn kiểu như thế hoàn toàn
là do con người tạo nên. Những ai có hiểu biết về thời kì lịch sử đó đều thấy
rõ như thế.
Thủ
đoạn thứ hai – Chế độ tem phiếu phân phối
Mao Trạch Đông dùng chế độ phân phối tem phiếu để nắm
chặt trong tay mình nguồn nhu yếu phẩm phục vụ đời sống nhân sinh. Bất cứ một số
lượng tiêu dùng nhu yếu phẩm nào cần thiết cho sinh hoạt đều được phân phối,
người dân không thể tự do có được các nhu yếu phẩm đó. Khi mua lương thực không
những cần có sổ mà còn cần cả tem phiếu, có tiền cũng không mua được định mức
quy định theo tháng. Điều cần phải chỉ rõ là, phiếu lương thực còn chia thành
loại phiếu thông dụng toàn quốc, loại phiếu dùng ở địa phương các tỉnh và loại
phiếu dùng cho các thành phố. Trừ loại phiếu lương thực thông dụng toàn quốc
ra, hai loại sau chỉ có thể dùng trong phạm vi các tỉnh các thành phố. Người ta
không thể xoay trở được nếu như không có phiếu lương thực. Chỉ riêng với chế độ
phiếu lương thực đã có thể khống chế được quyền tự do hành động của dân chúng.
Nhưng chế độ phân phối của Mao gồm một nội dung hết sức rộng rãi. Tất cả đều được
phân phối theo phiếu – có phiếu dầu ăn, phiếu vải, phiếu trứng, phiếu đường,
phiếu thịt, phiếu máy khâu, phiếu xe đạp,… Đến tết có phiếu hàng tết. Đủ loại
tem phiếu quán xuyến toàn bộ đời sống người dân Trung Quốc.
Thủ
đoạn thứ ba – Chế độ hồ sơ lí lịch
Chế độ hồ sơ lí lịch không xa lạ đối với mỗi người
dân Trung Quốc. Cho dù anh học ở trường, công tác ở các đơn vị cơ quan hay về
hưu ở nhà (về hưu hồ sơ lí lịch được chuyển về khối phố hoặc công xã nơi đương
sự sinh sống). Hồ sơ lí lịch theo liền với từng người cho đến hết đời. Chức
năng của chế độ hồ sơ lí lịch không thua kém gì một sự theo dõi ngầm của cơ
quan công an. Trường học và cơ quan sẽ ghi vào hồ sơ nếu đương sự bị kỉ luật.
Những nhận xét hay giới thiệu mà chính đương sự không được đọc thấy hay không
được chính đương sự xác nhận cũng được phê viết vào hồ sơ lí lịch. Tính cách
tiêu cực hay tích cực của những lời phê đó ảnh hưởng đến đến cuộc sống giữa xã
hội của chủ nhân bộ hồ sơ. Những ai có dũng cảm phàn nàn, nêu ý kiến hay phát
ngôn trái lạ đều bị ghi vào trong hồ sơ lí lịch. Còn như việc sẽ chịu xử lí như
thế nào thì chỉ còn trông chờ vào may rủi. Chế độ hồ sơ lí lịch phi nhân tính
đó trên thực tế đã tước đi quyền tự do ngôn luận.
Thủ
đoạn thứ tư – Chế độ giáo dục lao động cải tạo
Giáo dục lao động cải tạo được nói là một loại xử phạt
hành chính nhưng trên thực tế rất gống với xử phạt hình sự. Chế độ giáo dục lao
động có tính tùy tiện, nó có thể do một đơn vị cơ quan quyết định. Như thế chế
độ giáo dục lao động khiến cho các cơ quan đơn vị trở nên rất gần với một cấp
tư pháp nhưng tùy tiện và vô pháp luật. Mặc dù nói là xử phạt hành chính
và được gọi là “trị bệnh cứu người” nhưng những người bị bắt đi lao động không
những mất quyền tự do nhân thân đồng thời họ cũng trở thành “tiện dân” của xã hội
và chịu sự kì thị. Nghiêm trọng hơn là khi mãn hạn lao-giáo rồi người ta vẫn có
thể cưỡng chế người bị giáo dục bằng lao động đó ở làm việc tại chỗ. Trên thực
tế đó là một thứ tù không kì hạn, suốt đời bị giam thân cảnh tù, mất hẳn tự do.
Việc có thể tùy ý thực hiện chế độ lao-giáo đối với dân chúng là biểu hiện của
sự khủng bố chính trị thời Mao.
Thủ
đoạn thứ năm – Chế độ cơ quan đơn vị
Dưới thời Mao, “cơ quan/đơn vị” trên thực tế chính
là chỗ để khống chế cá nhân. Quyền tự do theo đuổi nghề nghiệp bị tước bỏ, tất
cả mọi người đều nhận công tác theo sự sắp xếp của nhà nước. Người ta không có
quyền chọn công việc và cũng không có quyền từ chối công việc được phân công.
Nhà nước không cho phép tùy ý từ chức hay đổi công tác. Mỗi một người suốt đời
làm việc ở những vị trí công tác đã được phân công. Tiền lương do nhà nước quy
định. Tình trạng đi làm cả đời không có tăng lương là rất nổi bật. Một khi anh
rời khỏi đơn vị hoặc bị đơn vị khai trừ đồng nghĩa với việc hoặc là anh đã ra
khỏi cái xã hội mà Mao đang khống chế hoặc là anh bị cái xã hội đó khai trừ.
Anh sẽ lâm cảnh đường cùng, mất hết nền tảng sinh hoạt. Trong cái chế độ cơ
quan-đơn vị đó, để sinh tồn kiếm sống nuôi gia đình anh chỉ có thể phục tùng và
phục tùng. Nhân dân Trung Quốc không có tội và cũng không có trách nhiệm về
Cách mạng Văn hóa.
Thời đại Mao Trạch Đông chính là dùng những thủ đoạn
như thế để khống chế toàn bộ xã hội Trung Quốc. Cộng thêm vào đó là hết cuộc vận
động chính trị trị này đến cuộc vận động chính trị kia. Tất cả khiến cho nhân
dân Trung Quốc thực không có lấy một cơ hội nào để thở lấy hơi nữa. Cách mạng
Văn hóa trong suốt quá trình của nó xem ra rất là hỗn loạn nhưng cả xã hội vẫn
được khống chế chặt trong tay Mao. Mà Cách mạng Văn hóa là một cuộc vận động
chính trị nhằm giải quyết chuyện người thừa kế quyền lực. Nói cách khác Mao
phát động Cách mạng văn hóa là nhằm mục đích biến giang sơn của một đảng
thành giang sơn của một nhà, chuẩn bị cho Giang Thanh tiếp nối quyền hành[7](Xem Lưu
Thông, “Mục đích của Cách mạng Văn hóa – Xác lập người thừa kế quyền hành”).
Trong Cách mạng Văn hóa, từ trên xuống dưới, từ trong đảng đến người ngoài đảng
tất cả đều bị cuốn vào trong đó. Người bị cuốn vào không biết nguyên do sự việc
nhưng kẻ phát động thì từng bước hướng cuộc vận động đi đến mục tiêu đã dự định
trước. Nhiều lãnh đạo cấp cao bị cuốn vào mà không sao hiểu được nguyên do, họ
lại còn đứng đó hô hào học tập. Họ cảm thấy chuyện dường như là “cách mạng gặp
phải vấn đề mới”. Nhiều lãnh đạo bị lôi ra phê đấu bắt đầu công việc tự kiểm thảo
đi kiểm thảo lại. Mao Trạch Đông bày đặt mê hồn trận, khiến cho đám đông những
là “đối tượng của cách mạng” từ to đến nhỏ không biết phải như thế nào cho phải,
suốt này hoảng hốt giữa rầm trời tiếng hô khẩu hiệu và tiếng hô đả đảo. Trong một
không khí khủng bố chính trị như thế, quần chúng dân đen không chút quyền hành
sống khác gì chết. Họ đến nói năng cũng phải giữ mồm, không cẩn thận là bị hàng
xóm thậm chí chính vợ (chồng) con cái mình phản ánh, tố giác. Trong thời buổi
Cách Văn hóa, ai cũng run sợ cho bản thân, ngay cả người thân cũng không được
tin. Lúc bấy giờ, “tin tưởng” đã trở thành từ đồng nghĩa của từ “nguy hiểm”. Bạn
bè tri âm trở thành người cáo giác, người dám nói thẳng chẳng khác gì đang đào
huyệt cho mình. Cả nước từ trên xuống dưới chỉ mỗi Mao là người hưởng quyền “tự
do ngôn luận” ghi trong hiến pháp. Mọi công dân của cộng hòa quốc này đều đã bị
tước bỏ quyền phát ngôn. Mọi hành động đều chờ chỉ huy của Mao, vạn vật sinh
trưởng cũng nhờ sự tưới tắm của “lời dạy của chủ tịch” (ngữ lục). Trong những
năm tháng gọi là “cách mạng” đó, mở miệng là “muôn năm”, kiểm thảo ngày nào
cũng có, tự sát trở thành ước mơ. Tất cả là để làm gì? Vận động quần chúng là để
chặn đánh tâm lí phản nghịch của quần chúng. Vận động lãnh đạo cao cấp là để chống
lại “lửa bất bình” nơi họ, làm cho họ cụp tai cúi đầu cam nô lệ. Mao gây bao án
oan, bức đồng chí không ngừng tự kiểm thảo. Mao muốn tinh thần “tội tổ tông” thấm
sâu vào thần dân. Chỉ như thế thì mới có thể khiến cho dự trù chính trị của
mình thực hiện thông suốt.
Ham sống sợ chết là thiên tính của con người. Trong
một xã hội mà không khí khủng bố nhuốm mùi tanh của máu, dân chúng xô dạt theo
dòng lớn là chuyện không khó hiểu cả về tình lẫn về lí. Hẵng xem một người tài
năng tót vời như Quách Mạt Nhược đã phải sống một cuộc sống run rẩy kinh hãi ra
sao là đủ biết quần chúng thường dân vì sao lại phải “ngây cuồng”. Hẵng xem biết
bao nhà văn nổi tiếng bỗng chốc tất cả cùng im lặng tập thể, gác bút tập thể là
đủ thấy Mao Trạch Đông đã không chế thành công xã hội Trung Quốc đến mức nào.
Cũng đủ để thấy dân chúng vì sao phải “ba phải a dua”. Bởi vì họ chỉ mỗi việc
phải phục tùng, “ngây cuồng” hay “ba phải vào hùa” là kết quả của việc phải phục
tùng. Không thế thì sẽ “dần dần chết đói”. Dám chắc giáo sư Mao Vu Thức
cũng ở trong đội ngũ đó. Đó quyết không phải là tội lỗi và trách nhiệm của nhân
dân Trung Quốc (gồm cả giáo sư trong đó). Quả đúng như giáo sư đã nói: “Nếu Mao
Trạch Đông và lũ bốn tên sang Hoa Kì làm Cách mạng Văn hóa thì khẳng định là
làm không nổi”. Sở dĩ những việc tương tự Cách mạng Văn hóa không thể phát động
nổi ở Mĩ là bởi vì chế độ chính trị quốc gia này không cho phép các nhà chính
trị muốn làm gì thì làm. Điều còn quan trọng là, các nhân vật chính trị ở Mĩ là
do dân chúng bỏ phiếu chọn ra. Tất cả những người đó (bao gồm cả tổng thống) đều
phải chịu trách nhiệm trước dân chúng. Thế nên chính trị gia tại Mĩ không thể
hành động khinh suất hay tùy ý trái phản ý dân. Ai cũng biết chính trị Trung Quốc
thời Mao và chính trị Hoa Kì không giống nhau. Vậy đương nhiên là ngón nghề của
Mao làm sao mà thi hành được ở Hoa Kì! Bản thân Mao cũng biết rõ điều đó. Sau
lúc Liên Xô hạ bệ Stalin, chính Mao từng nói nếu như ở các nước phương Tây thì
đã không có chuyện kiểu Stalin.[8]Thế nhưng Mao hoàn toàn không rút ra bài học gì cả. Sau
vụ Watergate, Richard Nixon bị điều trần. Bill Clinton vì chuyện quan hệ ngoài hôn nhân mà bị quốc hội điều
tra và ông đã buộc phải xin lỗi dân Mĩ. Ngược lại Mao chưa hề có một lời xin lỗi
nào về những việc sai lầm của mình. Bành Đức Hoài[9]dũng cảm
vì dân cuối cùng cũng chỉ là “Tôi không uống thuốc của Mao Trạch Đông” “Tôi
không ăn cơm của Mao Trạch Đông”.[10]Một
nguyên soái chiến công hiển hách cũng chỉ biết dùng cách đó để phản kháng thì
còn yêu cầu được người dân phải làm thế nào? Một chế độ tốt đẹp có thể khiến một
người xấu không dám làm việc hư, một chế độ bất lương có thể khiến người tốt
làm việc xấu. Đây là lí do vì sao người ta yêu cầu phải cải cách thể chế. Giả sử,
nếu xưa kia các bậc tiên hiền buổi đầu nước Mĩ kiến quốc không dựng nên chế độ
dân chủ, nếu G.Washington sau 8 năm làm tổng thống không sáng suốt và dứt
khoát rút lui khỏi đời sống chính trị, nếu không có việc những người kế thừa
Washington thể chế hóa hành động của ông, nếu Washington thực hiện triệt để chế
độ chính trị kiểu Mao thì hoàn toàn có thể khẳng định – việc xuất hiện thảm cảnh
Cách mạng Văn hóa hay việc nảy sinh bi kịch tương tự bi kịch của những Trương
Chí Tân[11],
Vương Bối Anh là hoàn toàn có thể.
Vì vậy, tất cả những bi kịch hay những chuyện hoang
đường xuất hiện trong Cách mạng Văn hóa chỉ có thể là trách nhiệm của kẻ phát
minh Mao Trạch Đông. Nếu không sẽ là không công bằng đối với lịch sử và cũng là
một điều sỉ nhục đối với người dân Trung Quốc – những kẻ không có chút quyền
kinh tế và quyền chính trị nào trong tay.
Lê
Thời Tân dịch từ nguyên bản tiếng Trung.
(Nguồn: tạp chí Thế giới mới số 14-2013 (1031) ngày
22-4-2013)
đăng lại từ trang khoavanhoc-ngonngu.edu.vn
đăng lại từ trang khoavanhoc-ngonngu.edu.vn
……………………………………………
[1]Học giả
Nhật gốc Hoa. Bài đăng trên 《明鏡月刊》nhan đề “文革”究竟誰之罪:與茅于軾先生商榷” (xin xemcity.mirrorbooks.com).
[2]茅于軾(Mao Yushi 1929- ), nhà kinh tế học Trung Quốc đương đại. Năm 1958
bị quy “phái hữu” đình chỉ công tác. Trong Cách mạng Văn hóa bị khám nhà và đấu
tố rồi bắt đi lao động. Nhận Giải thưởng kinh tế học Milton FriedmanLiberty
Prize của Mĩ năm 2012.
[3]吳稼祥(Wu Jiaxiang 1955 – ), nhà nghiên cứu kinh tế học, từng thỉnh giảng
tại Đại học Harvard. Sau sự kiện mùa xuân Thiên An Môn bị bắt giam. Mãn hạn tù
năm 1992. Ngô là một trong những học giả đề xuất sớm nhất ý hướng cải cách xí
nghiệp quốc doanh và thực hiện chế độ cổ phần ở Trung Quốc.
[4]王佩英(Wang Peiying 1915-1970), nguyên là một nữ nhân viên ngành đường sắt,
do phản đối Mao Trạch Đông mà bị bắt vào viện chữa bệnh tâm thần. Trong Cách mạng
Văn hóa bị gán tội phản cách mạng, nhét gạch vụn vào mồm và giong phố đấu tố.
Sau đó bị phán quyết “lập tức tử hình”. Cuộc xử bắn ngày 27/1/1970 được truyền
hình làm gương. Năm 1980 sửa án sai, kết luận bị bệnh nhân tâm thần không
nên kết án hình sự. Năm 2011 kết luận lại Vương vô tội và rút lại lời kết luận
Vương mắc bệnh tâm thần.
[6]Xem Vương Minh Nghị dịch, 《通向奴役之路》, Trung Quốc Xã hội Khoa học Xuất bản xã, 1997,
tr.116 (The Road to Serfdom của Friedrich August von Hayek có bản
dịch tiếng ViệtĐường về nô lệcủa Phạm Nguyên Trường, Hà Nội, Nxb
Tri thức –ND).
[7]Xem劉松,《文化大革命的目的-確立繼承人》introng日本大學大學院國際關係研究科《大學院論集》, kì 11, 2001,
tr.61~85. Hoặc xem 關心dịch,《毛澤東最後的革命》, Thinker Publishing (HK) Limitedxuất bản, 2009, tr.328 (tức
cuốn Mao’s Last Revolution của Mac Farquhar và Roderick – ND)
[9]Bành Đức Hoài (1898-1974), nguyên soái, từng là Phó Thủ
tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Chống lại chính sách Đại nhảy vọt của Mao từ
Hội nghị Lư Sơn (1959). Bị quy tội phản đảng cách chức và kỉ luật. Trong Cách mạng
Văn hóa bị đấu tố đánh đập rồi quy tội gián điệp. Bị thầm vấn hàng trăn lần. Mắc
bệnh không được chạy chữa, chết ngày 29/11/1974. Trước lúc chết xin được gặp vợ
đã li hôn đang lao động cải tạo ngoại ô Bắc Kinh nhưng bị vợ từ chối. Bình đựng
tro cốt ghi thành họ tên khác. Được khôi phục danh dự năm 1978. Ghi chép trong
tù xuất bản thành sách nhan đề “Bành Đức Hoài tự thuật” (ND).
[10]Xem 馬輅,佩璞,馬秦泉,《彭德懷廬山起禍》(Bành Đức Hoài – Tội khởi từ Hội nghị Lư Sơn), Nhã
Lâm xuất bản xã, 1990, tr.36.
[11]Trương Chí Tân (1930-1975), đảng viên Đảng cộng sản
Trung Quốc. Bị bắt tù từ 1969 cho đến 1975 vì dám phê phán sùng bái cá nhân và
bệnh tả khuynh. Khác biệt giữa hai người phụ nữ Trương Chí Tân và Vương Bối Anh
ở chỗ Trương trước sau không phủ nhận tư cách đảng viên của mình, trong lúc
Vương sớm xin ra khỏi đảng. Trương trước lúc đem ra tử hình đã bị tra tấn đến
phát điên nhưng vẫn bị cho là giả vờ trong lúc Vương khi đưa ra bắn bị xem là
điên. Vương bị siết cổ khi đem ra pháp trường còn Trương bị cắt yết hầu trước
khi xử tử. Năm 1978 Trương được khôi phục danh dự, năm 1979 công nhận liệt sĩ
(ND).
THEO VĂN HÓA NGHỆ AN
-----------------------
No comments:
Post a Comment