THỨ NĂM, NGÀY 20 THÁNG 8 NĂM 2015
Trong lịch sử thế giới chưa có chủ nghĩa nào khơi dậy
nhiều đam mê và gây ra nhiều xung đột đẫm máu cho nhiều dân tộc bằng chủ nghĩa
cộng sản. Việt Nam đã là một trong những nạn nhân đau đớn nhất. Chủ nghĩa cộng
sản và những thảm kịch mà nó đem tới đã biến Việt Nam từ vị trí một nước nhiều
triển vọng bậc nhất thành một trong những quốc gia nghèo đói, lạc hậu và bế tắc
nhất. Ba mươi năm chiến tranh huynh đệ tương tàn, hàng triệu người thiệt mạng,
dân tộc bị chia rẽ trầm trọng. Thành tích của Đảng Cộng Sản Việt Nam tai hại một
cách đáng sợ.
Tôi chưa bao giờ bị chủ nghĩa cộng sản cám dỗ cả.
Nhưng cộng sản đã chinh phục được những con người tôi rất quí mến. Càng lớn lên
tôi càng khám phá ra rằng những trí thức, văn nghệ sĩ mà tôi ngưỡng mộ nhất
trong thời niên thiếu phần lớn đã di theo cộng sản và vẫn còn tiếp tục thán phục
cộng sản. Từ khi bắt đầu theo dõi hoạt động chính trị, niềm đau lớn nhất của
tôi là nhiều bạn bè quí mến nhất của tôi lần lượt ngả theo cộng sản. Cộng sản,
đặc biệt là cộng sản Việt Nam đã có một sức quyến rũ ghê gớm. Ghê gớm đến nỗi
nhiều trí thức lỗi lạc mặc dầu đã hiến trọn cuộc đời cho cộng sản để chỉ được một
chỗ đứng chầu rìa bạc bẽo, mặc dầu phải chứng kiến những tội ác kinh khiếp của
nó, vẫn không thể dứt bỏ nó. Sức thu hút mãnh liệt ấy bắt đầu từ một biến cố trọng
đại rồi cứ trên đà đó mà tiếp tục. Biến cố trọng đại đó là Cách Mạng Tháng Tám.
"Bài học 45" là điều được những người chống
cộng nhắc đi nhắc lại nhiều nhất. Trong những công kích gần đây nhắm vào chủ
trương "hòa giải và hòa hợp dân tộc" của Thông Luận, "bài học
45" cũng được viện dẫn nhiều nhất. Người ta phê phán chúng tôi là không
thuộc lịch sử, không biết "bài học 45". Có lần Trần Thanh Hiệp nhăn mặt
vì giận dữ nói với tôi : "Làm sao người ta có thể tưởng tượng là mình
không biết đến những sự kiện tầm thường như vậy được nhỉ ?".
Tựu trung "bài học 45" được viện dẫn và lý
luận như thế này : "Vào những năm 1945-1946, phe Quốc Gia có lực lượng mạnh,
có thể thắng được Cộng Sản nhưng vì đã ngây thơ, cả tin vào cộng sản, thỏa hiệp
với cộng sản rồi bị lường gạt và tiêu diệt. Bài học cay đắng đó chứng tỏ rằng
thỏa hiệp vời cộng sản là chết. Vì vậy những kẻ còn nói chuyện thỏa hiệp, liên
hiệp, hòa giải, v.v? với cộng sản chỉ có thể hoặc ngây thơ, ấu trĩ, hoặc tay
sai cộng sản, hoặc cộng sản trá hình".
Cái nhìn này được rất nhiều người chia sẻ. Nó đã trở
thành một phần của ký ức tập thể. Suy nghĩ và hành động của chúng ta lệ thuộc rất
nhiều ở ký ức tập thể. Khi ký ức tập thể sai thì những phân tích và kết luận
khó có thể đúng. "Bài học 45" đã được ghi nhận như thế trong ký ức tập
thể của chúng ta. Nhìn lại giai đoạn 1945-1946 vì vậy là điều cần thiết.
Trái với khẳng định của nhiều người, vào thời điểm
1945, phe quốc gia không mạnh, cũng không yếu mà phải nói là không đáng kể,
trong khi đảng cộng sản đã bành trướng khắp nơi và đã nắm trọn được tình hình.
Cán cân lực lượng ngay từ lúc đầu đã lệch hẳn về
phía cộng sản. Nhượng Tống, sáng lập viên Việt Nam Quốc Dân Đảng trong cuốn hồi
ký "Nguyễn Thái Học" của ông, cho biết rằng khi Việt Nam Quốc Dân Đảng
thành lập cuối năm 1927 thi Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, tiền
thân của đảng cộng sản, thành lập năm 1925, đã có cơ sở ở khắp nơi và Việt Nam
Quốc Dân Đảng không thể nào cạnh tranh được với họ. Nhờ hoạt động táo bạo, Việt
Nam Quốc Dân Đảng đã phát triển nhanh trong vòng hai năm, và được cả nước biết
đến và hưởng ứng sau cuộc khởi nghĩa liều lĩnh tháng 2-1930. Nhưng Việt Nam Quốc
Dân Đảng đã phải trả bằng tính mạng của chính mình cho uy tín này. Toàn bộ ban
lãnh đạo bị tiêu diệt, một số nhỏ trốn thoát sang Trung Hoa.
Những đảng viên còn lại trong nước như rắn không đầu
không liên lạc được với nhau nữa và cũng không biết phải làm gì, lại bị truy
lùng ráo riết nên hoàn toàn tê liệt, cái uy tín có được đã không khai thác được.
Đến năm 1931, khi phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh bùng lên kiên cường không kém và
cũng bị đàn áp dã man không kém cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Đảng thì
đảng cộng sản cũng chiếm được tình cảm của quần chúng ngang hàng với Việt Nam
Quốc Dân Đảng. Chỉ khác một điều là cơ cấu của họ vẫn còn và họ khai thác dân
chủ cảm tình này để thu hút quần chúng trong khi Việt Nam Quốc Dân Đảng đã gục
ngã.
Nhìn lại thập niên 1930, người ta phải ngỡ ngàng về
sự ủy mị của trí thức Việt Nam lúc đó. Sau hai cuộc khởi nghĩa đẫm máu của Việt
Nam Quốc Dân Đảng và Xô Viết Nghệ Tĩnh, bên lề những biến động lớn của thế giới,
thanh niên Việt Nam tại cá của thành phố vẫn chỉ biết mê mải đèn sách với mộng
ra làm quan hay đắm chìm trong một phong trào lãng mạn rất khó hiểu. Oái oăm
thay, thập niên 1930 lại được coi như là thời đại vàng son của tiểu thuyết, thơ
tình, nhạc ướt át, tranh ấn tượng? Những người cộng sản ít ra đã không trùm
chăn nằm ngủ trong giai đoạn này, sự dũng cảm của họ không thể chối cãi được.
Sau Cách Mạng Tháng Tám, trí thức Việt Nam ngỡ ngàng tỉnh dậy, hổ thẹn vì sự
hèn nhát của mình và bị thôi miên bởi sự dũng cảm của người cộng sản, từ đó về
sau nhiều người đã phục tùng họ một cách không điều kiện.
Một bước ngoặc quan trọng đã làm cho thế thắng của đảng
cộng sản không thể đảo ngược được là giai đoạn 1936-1938 khi Mặt Trận Bình Dân
[Front Populaire] lên nắm chính quyền tại Pháp. Mặt trận này là một liên hiệp
giữa Đảng Xã Hội Pháp và Đảng Cộng Sản Pháp, và vì vốn chống chính sách thuộc địa
nên đã dành nhiều dễ dãi cho các hoạt động đấu tranh giành độc lập tại Việt
Nam. Đảng cộng sản đã chụp lấy cơ hội để hoạt động và phát triển công khai
trong khi những cơ sở còn lại của Việt Nam Quốc Dân Đảng vẫn chỉ giới hạn trong
một vài hoạt động bí mật. Đảng cộng sản vì vậy đã độc chiếm được cuộc đấu tranh
giành độc lập. Họ đã phối hợp được hoạt động bí mật với hoạt động công khai, đã
xây dựng được cơ sở ở khắp nơi, đã có cơ quan ngôn luận, đã len lỏi và khuynh đảo
được nhiều tổ chức nghiệp đoàn và hiệp hội, đã chủ động được nhiều cuộc đình
công và phá hoại, gây tiếng vang và phấn khởi ở khắp nơi. Khi Thế chiến II bùng
nổ và Nhật vào Đông Dương, họ là tổ chức tranh đấu duy nhất thực sự có hoạt động.
Thế ưu thắng áp đảo của họ cứ thế mà tiếp tục. Nạn đói 1945, trong đó hàng triệu
người bị chết, đã đem lại cho khẩu hiệu xóa bỏ giàu nghèo của cộng sản một hấp
lực ghê gớm. Phẩm giá và mạng sống của người nghèo lúc đó không bằng chén gạo,
củ khoai. Hấp lực của cộng
sản còn đi xa hơn thế nữa, nó còn buôn bán cái ảo tưởng là những người vô học
cũng có thể là những cấp lãnh đạo. Chính cái ảo tưởng đó đã làm say sưa nhiều
người mộc mạc đến độ họ sẵn sàng chết cho đảng. Nhưng cũng chính cái ảo tưởng
đó đã khiến cho sự dốt nát ngự trị trong chính quyền cộng sản và đập phá đất nước
cho đến ngày nay.
Tương quan lực lượng đã như vậy, về đường lối thì
sao ?
Người ta trông đợi rất nhiều ở nhóm Phong Hóa Ngày
Nay, đặc biệt là ở ông Nguyễn Tường Tam và người em xuất chúng của ông là Hoàng
Đạo Nguyễn Tường Long. Họ được coi là những nhà trí thức lỗi lạc nhất lúc đó. Đảng
Đại Việt Dân Chính của họ ra đòi năm 1943 với một cương lĩnh mà ông Nguyễn Tường
Bách, em ruột của hai ông Tam, Long và cũng là một nhân vật cốt cán của Đại Việt
Dân Chính, đánh giá như sau : "?đó là một sự kết hợp hỗn tạp của chủ nghĩa
quốc gia trong đó có thành phần của chủ nghĩa Tam Dân, lại có cả thành phần của
chủ nghĩa phát xít", ông Bách nhận định : "cái cương lĩnh hỗn tạp ấy
dĩ nhiên không thể lôi kéo được quần chúng". Đó là tư tưởng của nhóm trí
thức sáng giá nhất lúc đó. Việt Nam Quốc Dân Đảng thì cũng vẫn không có đường lối
nào rõ rệt cả. Sau này Đại Việt Dân Chính sát nhập vào Việt Nam Quốc Dân Đảng
và các ông Tam, Long, Bách trở thành những nhân vật cốt cán của Việt Nam Quốc
Dân Đảng, ta có thể hiểu rằng Việt Nam Quốc Dân Đảng tán thành cái "cương
lĩnh hỗn tạp" đó. Vào thời điểm này, con người đầu tư vào tư tưởng nhiều
nhất là ông Lý Đông A, nhưng luận thuyết của ông không phải là một cương lĩnh
chính trị, nó chỉ giới hạn ở lý thuyết và lại mang nhiều ngộ nhận về mặt triết
lý và ngôn ngữ. Vả lại Đảng Đại Việt Duy Dân của Lý Đông A không phát triển
trong quần chúng, không đóng vai trò đáng kể nào trong những năm 1945-1946 cả.
Tư tưởng chỉ đạo đã như vậy, chiến lược của phe quốc
gia lại quá nông cạn. Đa số các tổ chức ra đời lúc đó trông đợi ở Nhật đánh đổ
Pháp và trao quyền cho họ. Họ không nhận ra một số sự thật hiển nhiên là Nhật
không thể đánh đổ Pháp; Chính quyền Đông Dương của Pháp lúc đó phục tùng chính
phủ Vichy, đồng minh của Đức, mà Đức lại là đồng minh của Nhật, nên Nhật không
thể có ý định đánh đổ chính quyền thuộc địa Pháp. Vả lại Nhật còn nhiều vấn đề
cấp bách khác cần phải đối phó hơn là đuổi Pháp để trao trả độc lập cho Việt
Nam. Họ còn cần Pháp giữ gìn anh ninh trật tự, bảo đảm hậu cần cho họ tại Việt
Nam. Pháp đã chấp nhận như vậy và đó là tất cả những gì Nhật muốn. Kiến Quốc
Quân của Việt Nam Quang Phục Hội đã phải trả cái giá vô cùng đắt cho lòng tin ở
Nhật, nhưng các đảng phái quốc gia vẫn chưa vỡ mộng, hoặc vỡ mộng nhưng không
nhìn thấy đường lối nào khác. Nhật chỉ đảo chính Pháp khi quốc xã Đức đã đầu
hàng và chính quyền thuộc địa Pháp sắp ngả theo phe Đồng Minh, nhưng lúc đó Nhật
cũng đã tuyệt vọng và không còn nhờ cậy được nữa. Đến khi Nhật đã thua rõ rệt,
các nhóm quốc gia lưu vong lại ngả sang nương tựa Tưởng Giới Thạch.
Đường lối và chiến lược bao giờ cũng là căn bản khởi
đầu của mọi cuộc đấu tranh chính trị. Ccác đảng phái quốc gia đã thiếu đường lối
và không có chiến lược chung nên đã không kết hợp được. Người ta nói nhiều về
khủng hoảng lãnh đạo và che trách các lãnh tụ quốc gia lúc đó là nặng đầu óc
lãnh tụ, không ai chịu ai. Nhưng đó chỉ là hiện tượng ngoài mặt, lý do căn bản
là phe quốc gia đã thiếu đường lối và chiến lược. Khủng hoảng lãnh đạo là hậu
quả tất nhiên của khủng hỏang về lập trường.
Tổ chức rời rạc, đường lối không có, chiến lược cũng
không, các phe phái quốc gia nhỏ bé hoàn toàn rối loạn. Đầu năm 1945 cộng sản,
dưới danh nghĩa Việt Minh, đã kiểm soát được tình hình.
Ông Trần Trọng Kim, thủ tướng chính phủ Nam Triều
thành lập tháng 4-1945, một tháng sau ngày Nhật đảo chính Pháp, nhận định trong
hồi ký "Một Cơn Gió Bụi" như sau : "Đảng Việt Minh lúc ấy rất hoạt
động, đánh huyện này, phá huyện kia, lính Bảo An ở các nơi phần nhiều bị Việt
Minh tuyên truyền, tuy chưa theo hẳn nhưng cũng không chống lại nữa" ; tại
miền Bắc, khâm sai Phan Kế Toại "sợ hãi và chán nãn, chỉ nói chuyện xin từ
chức". Đến gần ngày Nguyễn đầu hàng, ông Hồ Tá Khanh, bộ trưởng kinh tế của
chính phủ Trần Trọng Kim, đề nghị "phong trào Việt Minh mạnh lắm, nội các
Trần Trọng Kim nên thôi đi để cho họ làm việc may ra họ cứu được nước".
Ông Hồ Tá Khanh không hề có cảm tình nào với Việt Minh cả.
Việt Minh không hề giấu giếm là sẽ dùng bạo lực để
nắm chính quyền một mình vì lúc đó họ thấy mình là lực lượng duy nhất. Thủ tướng
Trần Trọng Kim ra Bắc, bí mật tiếp xúc với họ xin thỏa hiệp, họ chỉ cử một
"thiếu niên" (theo lời ông Trằn Trọng Kim) tới gặp. Thiếu niên này
không thèm xưng cả tên tuổi, chỉ nói thẳng cho ông Trần Trọng Kim hay là họ
không cần hợp tác với ai cả, họ sẽ cướp toàn bộ chính quyền bằng võ lực dù cho
nhân dân có mười phần chết chín đi nữa. Ông Trần Trọng Kim gởi hai bộ trưởng
Phan Anh ra Bắc và Hồ Tá Khanh vào Nam để vận động các nhân sĩ, cả hai ông đều
bị Việt Minh bắt giữ trên đường đi. Việt Minh đã kiểm soát toàn bộ lãnh thổ.
Ngay khi Nhật đầu hàng, ngày 14-8-1945, Việt Minh lập
tức khởi nghĩa làm chủ tình hình khắp nơi, tới ngày 19-8-1945 họ huy động dân
chúng xuống đường tràn ngập các cơ quan và nắm chính quyền tại Hà Nội. Điều này
chứng tỏ họ đã có kế hoạch chu đáo. Ngày 25-8, Bảo Đại thoái vị. Ngày 2-9, ngày
Nhật hoàng ký văn kiện đầu hàng cũng là ngày Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập nước
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và công bố nội các đầu tiên của nước Việt Nam độc lập.
Các đảng phái quốc gia hoàn toàn vắng mặt.
Tháng 10-1945, quân Trung Hoa tiến vào Việt Nam, đem
theo một số lãnh tụ của Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh
Hội (Việt Cách). Nhờ sự che chở của quân Trung Hoa, Việt Nam Quốc Dân Đảng và
Việt Cách bắt đầu công khai hoạt động, đả kích Việt Minh, đòi chia quyền. Báo
"Việt Nam" của Việt Nam Quốc Dân Đảng bắt đầu đả kích cộng sản mạnh mẽ,
Việt Cách lập được một trụ sở và một loa phóng thanh ở đường Quan Thánh. Trong
hồi ký "Những Ngày Chưa Quên", Đoàn Thêm cho hay là các buổi phát
thanh của Việt Cách mới đầu lôi kéo cả ngàn người, nhưng càng về sau càng thưa
thớt. Trần Thanh Hiệp có mặt tại trụ sở Quan Thánh trong suốt giai đoạn này
cũng nhìn nhận như vậy. Ảnh hưởng của phe quốc gia chỉ giới hạn ở trong một vài
khu phố tại Hà Nội, ra ngoài các khu này họ có thể bị bắt và bị thủ tiêu dễ
dàng. Ngoài Hà Nội, các cán bộ phe quốc gia bị phát hiện sẽ bị thủ tiêu ngay.
Người ta nói nhiều đến các chiến khu của phe quốc gia ở phía Bắc Hà Nội, nhưng
mọi nhân chứng trong thời gian đó đều xác nhận đó chỉ là những thị xã hoàn toàn
bị cô lập. Quân quốc gia ở đó trong đại bộ phận là các toán lính khố xanh của
Pháp trước đây bơ vơ sau ngày Nhật đảo chính và được các lãnh tụ phe quốc gia kết
nạp trên đường theo quân Trung Hoa về Hà Nội. Mỗi thị xã chỉ có vài chục tay
súng và bị đội quân du kích V Minh vây kín. Sau này, khi các cấp lãnh đạo Việt
Nam Quốc Dân Đảng theo quân Trung Hoa rút về nước thì khi họ triệt thoái khỏi
nơi đâu thò các thị xã lọt vào tay Việt Minh tới đó. Tất cả bị xóa bỏ trong
vòng vài ngày.
Một số người quốc gia mong đọi quân Trung Hoa đánh dẹp
Việt Minh giùm lình. Cũng may mà sự kiện này không xảy ra, nếu không thì chỗ đứng
của phe quốc gia trong lịch sử không biết sẽ ra sao. Nhưng dù quân Trung Hoa có
ra tay đánh Việt Minh chăng nữa, họ cũng chỉ có thể đẩy quân Việt Minh ra khỏi
Hà Nội và Hải Phòng mà thôi, phần còn lại của cả lãnh thổ vẫn ở trong tay Việt
Minh. Các tướng Trung Hoa biết như vậy nên mặc dầu họ không ưa Việt Minh và muốn
bênh vực ohe quốc gia, họ chỉ có thể làm áp lực để Việt Minh nhượng bộ phe quốc
gia được phần nào hay phần ấy.
Chính do áp lực của quân Trung Hoa mà đầu tháng
3-1946, Hồ Chí Minh đã phải nhượng bộ giải tán chính phủ mà ông đã thành lập từ
6 tháng trước và chấp nhận thành lập một chính phủ liên hiệp với sự tham dự của
những bộ trưởng thuộc các đảng phái quốc gia hay không có đảng phái. Vì Việt
Minh đã làm chủ tình hình nên chính phủ này hoàn toàn không có một thẩm quyền
nào cả. Ông Huỳnh Thúc Kháng (bộ trưởng Nội Vụ) tâm sự với ông Trần Trọng Kim
là mọi quyết định đều do địa phương, ông không làm gì cả, còn ông Nguyễn Tường
Tam thì nói rằng hồ sơ Bộ Ngoại Giao của ông chỉ có ba lá đơn của người Tàu nhờ
tìm nhà và tìm hộ cái ví bị mất cắp. Khi quân Trung Hoa sắp rút đi, ông Nguyễn
Hải Thần, phó chủ tịch chính phủ, bỏ nước sang Tàu. Các lãnh tụ Việt Nam Quốc
Dân Đảng sau đó cũng theo đường Việt Trì, Yên Bái chạy sang Trung Hoa. Chính phủ
liên hiệp tan rã sau bốn tháng. Từ đó Việt Minh thẳng tay tàn sát đảng viên Việt
Nam Quốc Dân Đảng.
Chính phủ liên hiệp tháng 3-1946 dầu sao cũng đã có
một tác dụng tốt cho phe quốc gia, nhờ đó mà các cán bộ phe quốc gia không bị
tàn sát thẳng tay trong vài tháng. Sau này tôi có dịp nói chuyện nhiều lần với
ông Vũ Hồng Khanh, chủ tịch Việt Nam Quốc Dân Đảng, nhân vật quan trọng nhất của
phe quốc gia lúc đó. Ông Khanh nói rằng nhờ co chính phủ liên hiệp mà nhiều đồng
chí của ông đã có thì giờ trốn thoát hoặc sang Trung Hoa, hoặc sang những địa
phương khác nếu không thì đã có thể bị tàn sát hết. Tôi nghe rất nhiều người
chê ông Vũ Hồng Khanh là dở. Ông Vũ Hồng Khanh quả nhiên không phải là người
lãnh đạo xuất sắc, ông kém về nhiều mặt, nhưng ông hơn đa số những người chê
ông. Mỗi lần nghĩ tới ông, tôi lại nhớ tới câu nói của ông Ngô Thời Nhiệm :
"gặp thời thế thế thời phải thế".
Sức mạnh của Việt Minh so với phe quốc gia áp đảo đến
nỗi cho tới mãi sau này đại đa số những người cộng sản có vai trò quan trọng
vào thời điểm Cách Mạng Tháng Tám mà tôi đã được gặp, kể cả những người ngày
nay đã thất vọng, chỉ coi các phe phái quốc gia lúc đó như là những bọn phá đám
dựa hơi quân Trung Hoa, hay quân Pháp tại miền Nam, để gây khó khăn cho họ.
Thái độ của họ, dù thiên vị, cũng phản ánh tương quan lực lượng lúc đó.
Cũng có người hiểu biết hơn, nhìn nhận rằng sau Cách
Mạng Tháng Tám, phe quốc gia đã hoàn toàn tuyệt vọng nhưng lại chê nội các Trần
Trọng Kim là hèn nhát đã đầu hàng Việt Minh và đã để cho Việt Minh chiếm cả nước,
nhờ thế mới tạo được sức mạnh. Ông Trần Trọng Kim trả lời rằng những người này ở
ngoài cuộc nên không biết rằng lúc đó nội các của ông không làm được gì khác
hơn là đầu hàng. Trần Trọng Kim đã hỏi người chỉ huy Đoàn Thanh Niên Tiền Tuyến,
đạo quân nòng cốt của chính phủ, và đã được người chỉ huy trả lời rằng cá nhân
ông ta sẵn sàng chống lại Việt Minh, nhưng quân của ông ta thì không có gì bảo
đảm. Các đội quân giữ kinh thành cũng đều ngả theo Việt Minh hết. Quân Nhật lúc
đó có đề nghị dẹp quân Việt Minh giùm cho chính phủ Trần Trọng kim, nhưng ông
Trần Trọng Kim đã từ chối vì thấy như vậy chỉ gây đổ máu vô ích. Quyết định của
chính phủ Trần Trọng Kim là một quyết định sáng suốt của những người có lòng
yêu nước và hiểu tình thế.
Cách Mạng Tháng Tám đã là một biến cố vĩ đại trong lịch
sử nước ta. Kể từ khi người Pháp đánh chiếm Nam Bộ năm 1863, nước ta đã mất chủ
quyền hết thảy 82 năm. Chúng ta đã tủi nhục vì ngoại thuộc trong suốt thời gian
đó. Nhưng tủi nhục nhất là năm năm sau cùng. Trước đó chúng ta bị một cường quốc
đô hộ nhưng từ năm 1940 trở đi khi Pháp đã bị Đức đánh bại, chúng ta bị một
nhóm người Pháp đã mất nước, đã đầu hàng chế ngự và chà đạp mà không làm gì được.
Đáng tủi nhất là đám thực dân đã mất nước này chẳng đông đảo gì. Sở dĩ họ đã đứng
vững được là vì đã có những người Việt Nam tiếp tay cho họ. Mỉa mai thay, những
người này về sau lại là rường cột của các chính quyền được gọi là quốc gia.
Chưa bao giờ nước ta nhục đến thế. Ngày 19-8-1945 đã là ngày người Việt Nam đứng
dậy, xác nhận nước Việt Nam cũng là một quốc gia như các quốc gia khác và người
Việt Nam cũng là những con người như những con người khác trên thế giới.
Người cộng sản đã không cướp đoạt Cách Mạng Tháng
Tám của ai. Họ đã chuẩn bị nó, tổ chức thành công nó sau khi đã chấp nhận muôn
ngàn thử thách cho nó. Người cộng sản đã chịu phần hy sinh chính trong suốt khoảng
thời gian 1931-1945. Máu người cộng sản đã đổ ra nhiều nhất và trong các nhà tù
chính trị, tù nhân cộng sản đông gấp ba bốn lần tù nhân của tất cả các đảng
phái quốc gia cộng lại. Người cộng sản Việt Nam đã tổ chức và lãnh đạo một mình
cuộc khởi nghĩa của nhân dân Việt Nam trong Cách Mạng Tháng Tám. Họ xứng đáng
được hưởng trọn vẹn vinh quang của Cách Mạng Tháng Tám.
Nhưng những
nhân chứng của Cách Mạng Tháng Tám đều nhớ rằng cuộc cách mạng ấy đã khởi đầu với
những phát súng lục vừa động viên vừa uy hiếp tinh thần quần chúng. Chi tiết
này tuy nhỏ mà quan trọng. Đó là thảm kịch của Cách Mạng Tháng Tám, bởi vì bạo
lực đã là tinh thần chỉ đạo của nó cũng như của mọi chính sách của Đảng Cộng Sản
Việt Nam sau này và ngay cho tới bây giờ. Bạo lục này đã tàn sát hàng trăm ngàn
người yêu nước thực sự, những đứa con quả cảm nhất của tổ quốc đáng lẽ phải được
tôn vinh nhưng đã bị giết chỉ vì không tán thành chủ nghĩa cộng sản.
Tôi
phân tích và trình bày sức mạnh áp đảo của cộng sản vào giai đoạn trước và sau
Cách Mạng Tháng Tám, không phải để tâng bốc họ mà để thấy rõ tội ác của họ. Với một sức mạnh và một khí thế vượt trội và hơn hẳn như thế, thực ra Việt
Minh không cần gì phải tàn sát những người không cộng sản cả. Không ai làm gì
được họ hết. Họ vẫn có thể lãnh đạo cuộc kháng chiến giành độc lập, và có lẽ
còn thành công mau chóng và dễ dàng hơn nhiều, nếu không tàn sát những người quốc
gia. Nhưng họ vẫn tàn sát, như họ đã tàn sát hàng vạn người trong Cải Cách Ruộng
Đất, như họ đã hạ nhục tập thể và bỏ tù hàng loạt quân nhân và công chức miền
Nam sau này, bởi vì mục tiêu của họ không phải chỉ la giành độc lập mà là
giành độc lập để thiết lập chủ nghĩa cộng sản. Họ đã tàn sát bởi vì tình dân tộc, nghĩa đồng bào
của họ, nếu có, cũng không có một trọng lượng nào so với chủ nghĩa Mác-Lênin mà
họ tôn thờ. Có thể là người cộng sản cũng yêu nước nhưng họ không phải
chỉ yêu nước mà còn yêu chủ nghĩa, và họ yêu chủ nghĩa hơn yêu nước và trước
khi yêu nước.
Cuốn "Thời Dựng Đảng" của đảng cộng sản viết
về ông Hồ Chí Minh như sau : "các
chế độ đời đời nhớ ơn bác Hồ trước hết là người đã truyền bá chân lý của chủ
nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam". Ngày nay khi chủ nghĩa Mác-Lênin đã
hiện hình trung thực dưới mắt mọi người và mọi dân tộc như một lầm lẫn tai hại
thì những đam mê mà nó khơi dậy bỗng nhiên trở thành kệch cỡm một cách đáng
thương và những tội ác một người ta đã phạm nhân danh nó chỉ còn là một sự đần
độn đẫm máu.
Nhưng tại sao "bài học 45" đã đi vào ký ức
tập thể của những người chống cộng một cách sai lầm ?
Sau khi Nhật đầu hàng, người Pháp đã theo quân Anh
trở lại Việt Nam và họ lập tức nổ súng chiếm lại các tỉnh phía Nam. Ngày
19-12-1946, chiến tranh thực sự bùng nổ tại miền Bắc và quân Pháp mau chóng chiếm
được các thành phố. Đánh chiếm đến đâu, người Pháp lập các cở cấu cai trị đến
đó. Năm 1947, họ gộp các cơ cấu này trọng một "chính phủ quốc gia Việt
Nam" do một thiếu tướng quân đội Pháp gốc Việt là Nguyễn Văn Xuân cầm đầu.
Nguyễn Văn Xuân trước đó một năm đã từng được Pháp cử làm phó chủ tịch
"Nam Kỳ Cộng Hòa Quốc" trọng một âm mưu tách rời miền Nam khỏi Việt
Nam. Âm mưu này thất bại và đã đưa đến cái chết trọng ân hận của Nguyễn Văn
Thinh, nhưng cũng đã giúp cho Nguyễn Văn Xuân được Pháp thăng chức lên thiếu tướng.
Chính phủ này là một sản phẩm của Pháp, gồm những người đã làm việc cho Pháp và
đi lính cho Pháp. Năm 1948, chính phủ này được bàn giao cho Bảo Đại sau Hiệp ước
Elysées của được sự tham gia của một số nhân vật thuộc phe quốc gia trước đây.
Nhưng nó hoàn toàn không dính dáng gì với phe quốc gia trước đây mà chỉ là sự
tiếp nối của chính quyền thuộc địa Pháp. Các đảng phái quốc gia cũ vẫn tiếp tục
bị ngược đãi ngay dưới các chính quyền quốc gia sau này. Gia đình tôi quen biết
hai người bị kết án tù chung thân và bị đày ra Côn Đảo sau cuộc đảo chính của
Việt Nam Quốc Dân Đảng năm 1930. Họ chỉ được phóng thích năm 1955, nghĩa là 7
năm sau các chính quyền gọi là quốc gia được thành lập và sau 25 năm tù đày vì
"hạnh kiểm" tốt. Ông Nguyễn Viết Nguyên, trưởng ban binh bị của Việt
Nam Quốc Dân Đảng năm 1930, cũng ở trong một trường hợp tương tự. Ông mất cuối
năm 1960. Các đồng chí của ông không được chính quyền Ngô Đình Diệm cho phép
làm tang lễ. Họ phải dọa nếu bị cấm sẽ bỏ quan tài ở giữa đường rồi giải tán,
chính quyền Ngô Đình Diệm mới nhượng bộ. Trên đường đưa thi hài người anh hùng
dân tộc đó đến nơi an nghỉ cuối cùng, cảnh sát đứng gờm gờm hai bên đường sẵn
sàng can thiệp.
Tình thế đã thay đổi, độc lập đã trở thành một mục
tiêu không thể chối cãi được, các ông quan lại, sĩ quan và cai đội thời Pháp
thuộc bỗng dưng trở thành những người lãnh đạo cuộc tranh đấu "chống cộng
để bảo vệ chính nghĩa quốc gia". Họ cần hạ uy tín của những người lãnh đạo
phe quốc gia cũ, vì dầu sao đi nữa những người này cũng là những người yêu nước
hơn họ, chống cộng hơn họ, và chính đáng hơn họ ngàn lần trước dân tộc và lịch
sử. "Bài học 45" đã được chế tạo ra như vậy và cho mục đích đó. Dần dần
vì được nhắc đi nhắc lại, nó đi vào ký ức tập thể của phe chống cộng. Nhồi sọ
và xuyên tạc lịch sử không thuộc độc quyền của phe cộng sản.
Sau cùng, nếu cần rút ra bài học của Cách Mạng Tháng
Tám ?
Trước hết, những gì đã xảy ra vào giai đoạn
1945-1946 không chứng tỏ rằng các lãnh tụ phe quốc gia đã dại dột khi liên hiệp
với cộng sản. Chính phủ liên hiệp đã có lợi cho phe quốc gia. Nó đã cho phe quốc
gia một thời gian tương đối yên ổn để hoạt động và tranh thủ quần chúng. Nhưng
thời gian này quá ngắn để phe quốc gia có thể khai thác để thay đổi một tương quan
lực lượng quá chênh lệch.
Giai đoạn 1945-1946 cũng không chứng tỏ rằng liên hiệp
với cộng sản là chết. Trước đó cũng như trong lúc đó và sau đó đã có nhiều
chính phủ liên hiệp tại nhiều quốc gia nhưng không phải phe cộng sản lúc nào
cũng thắng, trái lại họ đã bại nhiều hơn thắng. Một chính phủ liên hiệp giữa
hai phe không thể sống chung với nhhau chỉ tạo ra một tình huống mới và phe nào
có tư thế để vận dụng được tình huống đó thì phe đó sẽ thắng.
"Bài học 45" thực sự chì là một cơ hội cho
những ai đã tiên liệu nó, đã chuẳn bị cho nó, đã chờ đợi nó. Người Việt Nam
nào, nhất là người Việt Nam không cộng sản, không thấy tủi hổ là sau những hy
sinh cao cả của cuộc khởi nghĩa Việt Nam Quốc Dân Đảng, hầu như suốt thập niên
1930, đa số trí thức Việt Nam đã trùm chăn hưởng thụ, đã say mê những câu thơ
lãng mạn, trong khi thế giới biến động mạnh và bất ổn tại châu Âu là điều có thể
nhìn thấy và tiên liệu dễ dàng. Việt Nam đã không chuẩn bị cho cơ hội 1940 và
đã không chuẩn bị kịp cho cơ hội 1945, vì thế Việt Nam đã là Việt Nam ngày nay.
Trong chiều sâu, dân tộc nào không nhiều thì ít cũng xứng đáng với số phận của
mình.
Mười sáu năm đã trôi qua kể từ ngày cả nước qui về một
mối dưới chế độ cộng sản. Nếu các lực lượng dân chủ tiến bộ thực tâm chuẩn bị
nghiêm túc thì chúng ta đã có nhiều cơ hội. Nhưng chúng ta không nhìn thấy những
cơ hội đó. Chúng ta đã lãng phí thời giờ và nghị lực vào những hành động hời hợt
và giả tạo chỉ có tác dụng làm thuốc tê cho cơn đau mất nước và làm thuốc an thần
cho sự tuyệt vọng ngự trị trong lòng. Chúng ta đã không hình thành được một lực
lượng có tầm vóc nào mà cũng chưa đạt tới đồng thuận về một đường lối đấu tranh
nào. Nếu có cơ hội cứu nước thì với thực trạng hiện nay chúng ta cũng không có
khả năng để chụp lấy.
Chuẩn bị cho một cuộc đổi đời và đổi chế độ là một vệc
phải làm âm thầm và kiên nhẫn từ lâu trước khi cơ hội tới. Phe quốc gia không
chuẩn bị trong những năm 1930 nên đã không nắm được cơ hội 1940, và vì mới bắt
đầu chuẩn bị từ 1940 trở đi nên đã không đúng hẹn với cơ hội 1945. Năm 1947, Việt
Minh đã mất rất nhiều uy tín, nhân dân đã vô cùng bất mãn sau hai năm chịu đựng
chính sách khủng bố thô bạo và chờ đợi một giải pháp mới nhưng vì không có một
lực lượng dân tộc nào cả nên đã chỉ có giải pháp Bảo Đại. Năm 1954, khi Pháp đã
bại trận và người Việt Nam có thể thực sự làm chủ được vận mệnh của mình thì
cũng vì không có chuẩn bị nghiêm túc nào cả lại chỉ có Ngô Đình Diệm, con người
đã từng hợp tác với Pháp, với Bảo Đại, đã đi đêm với Nhật và đã tiếp tay đắc lực
đàn áp Việt Nam Quốc Dân Đảng khi đang làm quan. Khi Ngô Đình Diệm bị lật đổ
cũng chỉ có các tướng tá mà một phần khá lớn xuất thân từ hàng ngũ quân đội
Pháp. Cuối cùng Việt Nam đã là Việt Nam ngày nay.
Trong công tác chuẩn bị, điều quan trọng nhất là chuẩn
bị về tư tưởng. Một phong trào hành động luôn luôn phải được một trào lưu tư tưởng
đi trước. Bởi vậy, đối thoại và thảo luận bộc trực là điều chúng ta không thể
tiết kiệm. Và có lẽ trong khi chúng ta thẳng thắn trình bày những khác biệt
chúng ta sẽ nhận ra là những khác biệt ấy không quan trọng lắm. Lúc đó chúng ta
có thể nghĩ đến kết hợp. Chỉ có thể có kết hợp hành động giữa những con người đồng
ý với nhau về mục tiêu phải đạt tới và về con đường phải đi.
Một
yếu tố cũng vô cùng quan trọng là niềm tin bởi vì không thể có thắng lợi nếu
không có lạc quan. Niềm tin này có ba vế : tin ở sự sụp đổ chắc chắn của chế độ
cộng sản để mạnh dạn vượt lên trên những lô gích cũ, những lằn ranh cũ ; tin ở
thế tất thắng của dân chủ để dứt khoát từ bỏ những tâm lý và phương pháp lỗi thời
và hành động như những người dân chủ chân chính ; tin ở thiện chí của nhau để đừng
nhìn đâu cũng thấy kẻ thù và hoảng hốt coi những người khác lập trường với mình
là phản bội.
Đảng
cộng sản đã tiêu xài hết vốn liếng của họ. Vai trò lịch
sử của họ đã hết. Trước những vấn đề lớn của đất nước họ không còn là giải pháp
mà là chướng ngại. Hàng ngũ của họ đang tan rã. Những con người từ những quá khứ
xung đột đang nhìn cùng về một hướng và hướng đó không phải là hướng Mác-Lênin.
Như một trái cây đã chín, chế độ cộng sản sắp rụng. Nó có thể rụng vì bị rung cây, nó có thể rụng vì một cơn gió nhẹ và nó cũng có thể rụng vì đã quá chín dưới trọng lượng của chính nó. Đất nước này cần một giải pháp thay đổi. Chúng ta đang có cơ hội, tiếc rằng chúng ta đã không đủ chuẩn bị. Nhưng cơ hội vẫn còn đó và vẫn chờ đợi chúng ta.
Nhìn lại Cách Mạng Tháng Tám trước hết là để tái lập
một sự thực lịch sử và để có thể rút ra những bài học xác đáng. Nhưng cũng có một
lý do khác thúc đẩy tôi viết bài này. Đó là một sự tương đồng giữa thời lỳ
1940-1945 và tình hình hiện nay. Năm 1940 Pháp đã bị bại trận, đã hoang mang và
rã rượi, mà chính quyền thuộc địa Pháp vẫn tiếp tục một cách hung bạo bởi vì
người Việt Nam, trừ người cộng sản, đã không chuẩn bị trước để nắm lấy cơ hội.
Ngày nay hệ thống cộng sản sụp đổ, các chế độ cộng sản còn lại chỉ còn là những
đứa con côi của một sự phá sản ; không còn người Việt Nam nào, ngay cả những
người trong guồng máy cộng sản, muốn chế độ này tiếp tục nữa, nhưng nó vẫn còn
đó do quán lực của quá khứ. Quán lực này có một tên gọi : đó là sự sợ hãi. Sợ
hãi cho tương lai mình trong một chế độ mới hay sợ hãi một bạo lực đang hấp hối.
Chúng ta sẽ đánh bại được chế độ độc tài này nếu tháo gỡ được quán lực ấy. Lịch
sử sẽ khai thông ngay vào lúc không còn ai sợ hãi nữa, và lịch sử sẽ thuộc về
những ai tìm được giải pháp an toàn và danh dự cho tất cả mọi người.
Thế hệ 1990 phải hơn thế hệ 1940.
No comments:
Post a Comment