S.T.T.D
Tưởng Năng Tiến
Wed, 08/12/2015 - 10:38 — tuongnangtien
My religion is simple. My religion is kindness.
*
Tôi được chị Trương Anh Thụy gửi cho cái máy
ảnh Canon nhỏ xíu (trông cứ như một món đồ chơi) rồi lại được anh
Nguyễn Công Bằng “kiên nhẫn” chỉ cách xử dụng. Xong, tôi đi loanh quanh
để thực tập ngay và chụp được hai tấm hình hơi lạ: một con chó bông
đi lạc, và một manh giấy …tìm rùa!
XIN GIÚP TÌM LẠI CON THÚ THÂN YÊU CỦA GIA
ĐÌNH… CHÚNG TÔI RẤT THƯƠNG YÊU VÀ NHỚ NÓ. PELA BỊ BỆNH TIỂU ĐƯỜNG VÀ
CẦN PHẢI CÓ THUỐC INSULIN. NẾU TÌM ĐƯỢC XIN GỌI SỐ ...
MẤT MỘT CON RÙA LỚN... NÓ CẦN THUỐC MEN VÀ
MỘT CHẾ ĐỘ DINH DƯỠNG ĐẶC BIỆT. TÌM ĐƯỢC XIN HẬU TẠ.
Hai “tác phẩm nhiếp ảnh đầu tay” này, rõ ràng,
không được “đặc sắc” gì cho lắm. Tuy thế, những dòng chữ ghi kèm cứ
làm cho tôi băn khoăn mãi.
Cảm thấy tình trạng bất ổn của một con thú
nuôi trong nhà, đưa đi khám bệnh, tìm ra là nó có bị tiểu đường, rồi
xin toa mua thuốc chữa trị là chuyện tương đối bình thường. Ai nuôi
chó cũng có thể làm như vậy, và ông/bà bác sĩ thú y nào cũng dễ
dàng tìm được loại bệnh này bằng cách đo mức glucose trong máu.
Nhưng nuôi một con rùa (loại thú khép kín và
gần như vô cảm) mà biết nó không khoẻ, cần thuốc men và một chế độ
dinh dưỡng đặc biệt thì chủ nhân phải là một người vô cùng mẫn cảm
và nhân ái.
Cách thiên hạ chăm nuôi thú vật khiến tôi không
khỏi trạnh lòng khi nghĩ đến thân phận con người ở quê hương, xứ sở
của mình – nơi đã xẩy một “Cuộc
Chiến Biệt Vô Tăm Tích,” như lời của blogger Bùi Tín:
Thời gian “biệt vô tăm tích” người thân của mỗi
gia đình một khác, có khi 2, 3 năm, có khi 5, 6 năm, nhiều khi trên 10 năm, tùy
chiến trường Trị Thiên, Tây Nguyên, Nam Bộ, hay chiến trường Lào, Miên. Không
ai biết rõ con em mình ở nơi nào. Rất hiếm khi có những tin tức của bạn
bè, đồng hương bị thương trở ra, được biết là người thân ở Khu 5 hay Nam Bộ,
hay Tây Nguyên, còn sống, vắn tắt, sơ sài thế thôi.
Những quân nhân tử trận được báo tử rất chậm, chậm 1
năm được coi là bình thường, có khi chậm đến 2, 3 năm, do các đơn vị di chuyển
sâu, sổ sách luộm thuộm mất mát, các đơn vị chia ra, nhập vào, thay phiên hiệu,
cán bộ tử thương. Vì lẽ ấy mà đến nay QĐND miền Bắc có đến 300 ngàn trường hợp
quân nhân mất tích, không biết bị tử trận ngày nào, ở đâu...
Có thể nói chính sách “biệt vô tăm
tích” là quốc sách rất thâm và cực kỳ độcác, phi nhân có tính toán của đảng
CS trong thời chiến...
Vào thời bình “quốc sách” này, xem chừng,
cũng không khác mấy – theo tường trình của RFI:
Trong bản Báo cáo Tình hình Buôn người năm 2014, vừa
được công bố ngày 20/06/2014, bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vẫn xếp Việt Nam vào Danh
sách loại 2 ( TIER 2 ), vì chính phủ Việt Nam bị xem là « chưa tuân thủ đầy đủ
những tiêu chuẩn tối thiểu, tuy nhiên cũng đã có những nỗ lực đáng kể nhằm xóa
bỏ nạn mua bán người... »
Cũng theo báo cáo Tình hình buôn nguời 2014 của Bộ
Ngoại giao Mỹ, phụ nữ và trẻ em Việt Nam tiếp tục bị bán sang các nước ở châu Á
vì mục đích cưỡng ép tình dục, đặc biệt là Trung Quốc, Cam Bốt, Malaysia, và
Nga. Nhiều nạn nhân người Việt của việc buôn bán tình dục cũng đã được tìm thấy
ở Ghana. Một số phụ nữ Việt Nam sang Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Macao, Singapore
hay Hàn Quốc để thành hôn với người nước ngoài thông qua môi giới, sau đó đã bị
cưỡng ép phục vụ trong gia đình, hành nghề mại dâm, hoặc cả hai.
Bảo cáo nhắc lại rằng, «làm công trừ nợ, thu giữ hộ
chiếu, và dọa nạt bị trục xuất là những thủ đoạn thường được dùng để bắt các nạn
nhân Việt Nam phải phục vụ ». Các mạng lưới tội phạm có tổ chức của Việt Nam và
Trung Quốc đã đưa những người dân Việt Nam, chủ yếu là trẻ em, sang Vương quốc
Anh và Đan Mạch, buộc họ làm việc trong các trang trại trồng cần sa.
Khi được hỏi về phản ứng của Việt Nam trước báo
cáo của Bộ Ngoại Giao Mỹ, về tình hình buôn bán người trên thế giới, Phó Phát Ngôn
Bộ Ngoại Giao Việt Nam Phạm
Thu Hằng “khẳng định” như sau:
Tôi xin khẳng định Chính phủ Việt Nam hết sức quan
tâm và đã có những biện pháp, chế tài cụ thể kiên quyết đấu tranh và ngăn chặn
nạn buôn bán người, đã thông qua Luật Phòng chống mua bán người và Chương trình
hành động quốc gia phòng, chống mua bán người giai đoạn 2011-2015.
Điều bà Hằng “khẳng định” – xem ra –
không được tương hợp với những sự kiện đã được ghi nhận. The
Guardian, số ra ngày 23 tháng 5 vừa qua, có bài tường thuật
(“3,000 children enslaved in Britain after being trafficked from Vietnam”) của
hai ký giả Annie Kelly và Mei-Ling McNamara. Xin ghi lại vài đoạn ngắn,
theo bản dịch (“3.000 trẻ em bị buôn bán từ ‘đất nước Hồ Chí Minh’ sang
Anh làm nô lệ”) của blogger Nguyễn
Công Huân:
Ảnh: theguardian
Giống như nhiều trẻ em Việt Nam khác,
Hiền đã được đưa đến Anh để sống một cuộc đời nô lệ hiện đại. Em cuối cùng phải
vào tù về tội trồng cần sa...
Chuyến đi của Hiền tới Anh Quốc bắt đầu
khi em bị bắt cóc khỏi làng lúc 5 tuổi bởi một người nói rằng ông ta là chú của
em. Như một đứa trẻ mồ côi, em không còn lựa chọn nào khác ngoài làm theo những
mệnh lệnh của người khác. Em đã mất năm năm đi qua nhiều quốc gia bằng đường bộ,
hoàn toàn không biết mình đã đi qua những đâu, từ Việt Nam qua biên giới giữa
Pháp và Anh để tới một căn nhà ở London. Ở đây em phải làm nô lệ trong nhà
trong 3 năm, nấu ăn và dọn dẹp cho nhóm những người Việt đi ra vào ngôi nhà em
bị giam giữ...
Trong lời khai với cảnh sát, Hiền nói
rằng em vẫn không hiểu chính xác loại cây em trồng là cây gì, mặc dù em hiểu rằng
nó rất có giá trị. Em chăm sóc đám cây, sử dụng thuốc trừ sâu khiến em bị ốm,
và chỉ rời căn hộ khi em giúp chuyển các cây cần sa này tới nơi khác để sấy
khô. Em bị khóa trong nhà, bị đe dọa, bị đánh đập và bị cô lập hoàn toàn với thế
giới bên ngoài.
"Tôi không bao giờ được trả tiền
để làm việc đó", em nói. "Tôi đã không ở lại đó vì tiền mà vì tôi sợ
và tôi hy vọng toàn bộ điều này sẽ sớm kết thúc."
Khi cảnh sát đến, họ tìm thấy Hiền một
mình với đám cây cần sa. Em kể câu chuyện của mình cho cảnh sát, nhưng vẫn bị gửi
đến trại dành cho tội phạm trẻ tuổi ở Scotland, nơi em trải qua 10 tháng tạm
giam, bị buộc tội trồng cần sa. Em chỉ được thả sau khi có sự can thiệp của một
công tố viên hoàng gia dẫn đến việc em được xác định là nạn nhân của nạn buôn
người...
Hiền đang cố gắng để xây dựng lại cuộc
sống của mình sau khi được tị nạn ở Scotland, nhưng đang gặp khó khăn để tìm thấy
bình an sau nhiều năm chấn thương. "Tôi vẫn còn lo lắng rằng những kẻ buôn
người có thể tìm thấy tôi và đến nhà tôi. Nhưng bây giờ tôi biết rằng tôi sẽ phải
tìm kiếm sự giúp đỡ [từ cảnh sát]," em nói. "Tôi nghĩ rằng có công lý
ở đây, nhưng tôi cũng ước rằng họ không giam giữ tôi trong tù trong thời gian
lâu như vậy. Bằng cách kể lại chuyện cuộc đời mình, tôi muốn mọi người hiểu những
gì tôi đã trải nghiệm ở đây. "
Ở những nơi khác thì những đứa bé VN
khác, đôi khi, còn phải “trải nghiệm” qua những cảnh đời tàn tệ
hơn nhiều. Chắc chắn, không ai có thể quên được hình ảnh của những
bé thơ Việt Nam được tìm thấy trong những nơi bán dâm ở Cambodia.
Hai em gái Việt
(tám và mười tuổi) trong một động mãi dâm ở Svay Pak, cách Sứ Quán Việt
Nam tại Phnom Penh chừng 10 cây số. Nguồn: Shanghai Star.
Cảnh sát Cam Bốt
đưa một em bé Việt Nam 11 tuổi ra khỏi nhà thổ ở khu đèn đỏ
Toul Kork thuộc Phnom Penh. Ảnh và chú thích: ECPAT
Khi được phóng viên RFA hỏi về những sự kiện
và hình ảnh trên, nhà phân tích độc lập về vấn đề buôn bán trẻ em vào đường
mãi dâm – ông Aaron
Cohen – đã đưa ra nhận định như sau:
“Tôi tự hỏi tại sao chính phủ Việt Nam
không tạo áp lực với Cambodia về vấn đề đó. Tôi nghĩ là chính ông đại sứ
Việt Nam ở Phnom Penh biết rõ các em gái nhỏ tuổi ở nước mình bị bán qua
Cambodia mà không cố tìm cách ngăn chặn. Quả thực điều này tôi không hiểu ra.”
Tôi cũng không hiểu được thái độ (cũng như cách
hành sử) của những nhân viên sứ quán Việt Nam ở Moscow, sau khi nghe
lời cáo buộc của Tiến Sĩ Nguyễn
Đình Thắng - Giám Đốc Điều Hành BPSOS và đồng sáng lập viên Liên
Minh CAMSA:
“Trong
4 năm qua, Liên Minh CAMSA (Liên Minh Bài Trừ Nô Lệ Mới Ở Á Châu, chú thích
của người viết) đã can thiệp hay giải cứu và giúp đỡ cho trên 4 ngàn nạn
nhân, kể cả khoảng 300 nạn nhân Việt bị buôn sang Nga làm lao nô hay làm nô lệ
tình dục. Trong tất cả các trường hợp ở Nga này, thủ phạm là những người Việt
được bao che bởi một số giới chức ở Toà Đại Sứ Việt Nam ở Nga.”
Cũng liên quan đến sự kiện này, trong bản tin của
BBC (“Nạn
Buôn Người Việt Vào Nhà Chứa Ở Nga”) nghe được vào hôm 25 tháng 4
năm 2015, có đoạn:
BBC Việt Ngữ đã liên lạc qua điện thoại với ông
Nguyễn Đông Triều, Tham tán công sứ của Đại sứ quán Việt Nam ở Nga, để hỏi về
cáo giác này nhưng ông đã từ chối không trả lời và yêu cầu BBC "hỏi cơ
quan chức năng nào khác".
Ông Triều cũng nói:
"Tôi không có trách nhiệm trả lời nhà
báo,"
"Những cái gì cứ gửi tới cơ quan có thẩm quyền."
Khi được hỏi ông làm việc tại Đại sứ quán Việt Nam,
và nếu Đại sứ quán Việt Nam không phải là cơ quan có thẩm quyền thì cơ quan thẩm
quyền mà ông nói là cơ quan nào, ông Triều đã bỏ máy.
Những ông “Tham Tán Công Sứ” (như ông Nguyễn
Đông Triều) này hẳn không hề thiếu trong tất cả những Toà Đại Sứ
Việt Nam, ở khắp mọi nơi. Xứ sở này, lẽ ra, phải được xếp vào
danh sách loại III về nạn buôn người thì hợp lý hơn.
Và tôi cũng còn nói cho hết lẽ vậy thôi chớ
ở một đất nước mà những “đồng chí lãnh đạo” sẵn sàng bán rừng,
bán đảo, bán (tuốt luốt) mọi thứ tài nguyên thì họ có nề hà chi
cái chuyện buôn người.
No comments:
Post a Comment