Loạt
bài “Tư Tưởng Chính Trị” do chúng tôi biên soạn có một mục đích thực tiễn: đó là rút tỉa ra các bài học và kinh nghiệm chính trị thế giới và Việt
Nam để vận dụng vào việc định hình, định tính chế độ chính trị Việt Nam hậu CS.
Riêng trong phần tư tưởng chính trị Việt Nam, tôi đang phân tích giai đoạn đầu
Pháp thuộc, đầu thế kỷ 20, khi mà chính quyền thực dân Pháp đã chiếm toàn bộ Việt
Nam, và bắt đầu chương trình khai thác Việt Nam về mặt kinh tế thương mại, và
Pháp hóa về mặt văn hóa tư tưởng. Việt Nam được thoát Trung vào thời kỳ này
nhưng không do sĩ phu và triều đình Việt chủ động mà do chính quyền thực dân muốn
Pháp hóa nước ta. Hiện nay thoát Trung lại đang trở thành vấn đề thời sự. Lịch
sử dường như đang quay lại. Trong bài này tôi muốn tập trung phân tích công việc
Pháp hóa của chính quyền thực dân tại Việt Nam đầu thế kỷ 20 và phản ứng của giới
trí thức Việt Nam, trong bối cảnh Hán học đang suy tàn và Pháp học mới bắt đầu.
Thực ra không phải đợi đến khi Pháp thuộc nền Hán học
mới suy tàn. Người Pháp chỉ đưa ra những quyết định để chấm dứt một nền giáo dục
đã không còn thích hợp, một quyết định mà triều đình nhà Nguyễn đã không thể
làm được dù có muốn. Có thể lý do chỉ đơn giản là không biết phải canh cải hay
thay thế Hán học như thế nào và bằng một nền văn hóa tư tưởng và giáo dục nào.
Ngay từ giữa thế kỷ 18, theo Đào Duy Anh, học giả Lê Quý Đôn (1726-1784) đã cho
rằng hệ thống giáo dục và thi cử Hán học đã bắt đầu suy thoái từ cuối thế kỷ 15
và đến đầu thế kỷ 16 thì Lê Quy Đôn cho rằng nó đã thật sự suy thoái rồi. Trong
thực tế, năm 1750, vì loạn lạc, ngân sách thiếu, vua Lê Hiển Tông đã cho phép bất
cứ ai đóng 3 quan tiền đều được dự các kỳ thi cống sinh mà không phải vươt qua
kỳ thi trắc nghiệm. Đến đầu thế kỷ 20, trong khi chính quyền thực dân Pháp đã
đưa ra chương trình giáo dục mới, mở một số trường tây học, triều đình mới cải
tổ chương trình thi cử Hán học. Ngày 31 tháng 5 năm 1906, triều đình ban hành Đạo
Dụ cải cách thi cử, theo đó trong hai kỳ thi Hương và thi Hội đều có thi chữ Quốc
ngữ và chữ Pháp. Pháp ngữ trước còn là môn tự chọn, sau trở thành bắt buộc.
Riêng trong kỳ thi Hội, phần Quốc ngữ, ngoài bài luận văn, còn có bài viết hỏi
về địa dư, khoa học thường thức và toán pháp, trình độ lúc đó tất nhiên còn sơ
khai. Chương trình thi cử Hán học cải cách này cũng chỉ tồn tại cho đến năm
1915 tại Bắc Kỳ và 1919 tại Trung kỳ, vì sau những năm này các kỳ thi Hán học bị
chính quyền thưc dân Pháp bắt triều đình bãi bỏ để thay thế hoàn toàn bằng nền
Tây học.
Thực ra những cải cách Hán học này được đưa ra quá
trễ. Tây học đã phát triển hơn 30 năm tại Nam kỳ, sau khi các kỳ thi Hán học bị
bãi bỏ ngay từ năm 1864. Kể từ đó ít nhất 3 thế hệ thanh niên Việt đã ra đời tại
Nam kỳ, chịu ảnh hưởng của nền tân học. Quốc ngữ và Pháp ngữ đã phát triển,
cùng với bốn hệ thống văn hóa-tư tưởng mới là các trường tân học, báo chí quốc
ngữ, các sách dịch thuật tư tưởng tây phương, và hệ thống nhà in nhà xuất bản.
Vào đầu thế kỷ 20, một lớp trí thức tân học đã ra đời tại Nam Kỳ. Tại Trung kỳ
và Bắc kỳ những nhà Hán học cuối cùng còn tồn tại song song với lớp học sinh
Tây học.
Trường tây học đầu tiên được mở tại Hà Nội năm 1885,
ngay sau khi triều đình ký hòa ước Giáp Thân 1884 chấp nhận nền cai trị của người
Pháp trên toàn cõi Việt Nam. Một năm sau đó, 1886, trường thông ngôn được mở
ra. Đến năm 1890 đã có 140 trường tân học được thiết lập tại Bắc Kỳ, phần lớn tại
Hà Nội và các thành phố lớn. Chính quyền thực dân còn lập trường Hậu Bổ tại Bắc
Kỳ năm 1889 và Trung Kỳ năm 1911 để đào tạo công chức cho các công sở Pháp. Năm
1900 Pháp mở một số trường Pháp-Việt lúc đó chỉ nhằm đào tạo “thư ký và thông dịch
viên”. Chính quyền thực dân cũng cho mở một số trường dạy nghề. Trường Canh
nông được mở tại Huế năm 1898, và trường kỹ thuật năm 1899 tại Hà Nội. Tất cả
những trường tân học này được mở ra chỉ nhằm đào tạo nhân viên phục vụ cho việc
cai trị của chính quyền thực dân. Số lượng trường vừa ít, chất lượng lại quá thấp,
giảng viên phần lớn là những người thông ngôn, nhiều trường không có đủ học
sinh theo học. Hán học thì đã hoàn toàn bị bãi bỏ tại Nam kỳ từ năm 1864, còn tại
Trung và Bắc kỳ, không được chính quyền thực dân khuyến khích và hỗ trợ. Ngay cả
một vài cơ sở khoa học có chất lượng như trường Viễn Đông Bác cổ, thành lập năm
1898, lúc đầu cũng nhằm nghiên cứu, tìm hiểu Việt Nam và Đông dương, phục vụ
cho chính sách thực dân của Pháp. Do đó, vào đầu thế kỷ 20, một khoảng trống
văn hóa giáo dục tồn tại ở Bắc và Trung kỳ, nhất là tại Bắc Hà, trung tâm văn
hiến cổ truyền của Việt Nam.
Trong khi đó tại Nam Kỳ, vào đầu thế kỷ 20, nền tây
học đã ổn định và tiếp tục phát triển, đi trước Bắc và Trung kỳ nhiều thập kỷ.
Đặc điểm văn hóa tư tưởng và cả sinh hạt xã hội-chính trị này của Nam Kỳ cần được
lưu ý vì nó sẽ ảnh hưởng đến những biến chuyển chính trị của miền Nam Việt Nam
từ đó đến nay. Nền tân học tại Đông dương và Bắc-Trung kỳ Việt Nam chỉ thực sự
được quan tâm khi Tổng thống Pháp ký nghị định năm 1905 thành lập chức Tổng
Giám Đốc Giáo Dục Đông Dương, và khi Toàn quyền Đông dương lập ra Hội Đồng Cải
cách Giáo dục Địa phương năm 1906. Chính quyền thực dân phải quan tâm đến cải
cách giáo dục vì chính giới sĩ phu Bắc và Trung kỳ đã chủ động tiến hành các cuộc
vận động canh tân đất nước sau khi họ thấy rõ không thể trông đợi ở triều đình
và ở người Pháp. Chúng ta nhớ lại sự kiện hai sĩ phu yêu nước Phan Bội Châu và
Phan Chu Trinh đã vào thăm Đề Thám trong thời gian Đề Thám giảng hòa lần thứ
hai với thực dân Pháp (1897-1909).
Ngay sau đó không bao lâu thì lực lượng Đề Thám tan
rã. Hai nhà chí sĩ họ Phan chắc đã thấy rõ những cuộc kháng chiến chống Pháp kiểu
Phan Đình Phùng, Đề Thám không còn thích hợp và không thể thành công. Họ đã chủ
động tìm những phương thức khác để dành lại độc lập nhưng với hai hướng khác
nhau. Phan Bội Châu tìm đến Nhật Bản trước, sau đó đến phong trào cách mạng mới
tại Trung Hoa. Phan Chu Trinh thì dứt khoát thoát Á, dùng tân học để mở mang
dân trí, nâng cao dân khí, đòi dân quyền trước khi giành lại độc lập chính trị
cho nước nhà. Chúng ta sẽ trở lại hai đường lối này, cũng như về con đường độc
lập dân tộc trong những bài sau. Việt Nam khác Trung Hoa và Nhật Bản vì không kịp
thời chủ động thay đổi để đối phó với Tây phương nên đã mất nước, và do đó lại
chỉ thoát Trung và thoát Á dưới áp lực của Pháp thuộc. Nhật bản đi trước Trung
hoa trong chính sách dứt khoát thoát Á, học hỏi và vận dụng kiến thức và khoa học
kỹ thuật của Tây phương để nhanh chóng canh tân đất nước.
Fukuzawa Yukichi (1835-1901), tư tưởng gia chính trị
lỗi lạc của Nhật Bản, từ giữa thế kỷ 19 đã đưa ra thuyết “Thoát Á”, và nhờ đó
mà Nhật bản đã nhanh chóng đuổi kịp các nước phương Tây và vẫn giữ được bản sắc
độc lập của mình. Trung Hoa cũng chủ động được cuộc canh tân xứ sở dù chậm hơn
Nhật bản và không thành công được như Nhật bản vì tranh chấp quốc-cộng. Những
cuộc thất trận trong chiến tranh nha phiến với Tây phương và chiến tranh
Trung-Nhật đã đánh thức giới sĩ phu và quan lại yêu nước đứng lên làm cuộc cách
mạng dân chủ để canh tân đất nước. Một nước Trung Hoa Dân quốc ra đời sau cuộc
cách mạng Tân Hợi 1911 đã xóa bỏ hẳn chế độ quân chủ. Cuộc vận động chính trị của
giới sĩ phu Trung hoa ảnh hưởng trực tiếp đến sĩ phu yêu nước Việt Nam, nhất là
tại Bắc Kỳ. Tôn Dật Tiên, người lập thuyết Tam Dân, thủ lãnh Quốc Dân Đảng
Trung Hoa, và sáng lập ra Trung Hoa Dân Quốc, đã đến hoạt động trong cộng đồng
người Hoa tại Hà Nội năm 1905. Dù được lưu truyền bí mật, học thuyết chính trị
của ông chắc chắn đã được một số sĩ phu yêu nước Việt Nam biết đến, dù có thể
phải nhiều năm sau đó. Những cuộc vận động của Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi
trước đó chắc chắn cũng vang dội đến Việt Nam.
Ngoài ra các sách bằng Hán tự và quốc ngữ dịch lại
các tác phẩm triết học và tư tưởng chính trị phương Tây đã được lưu truyền
trong giới trí thức mới ở Nam kỳ và các sĩ phu ở Bắc và Trung kỳ. Trí thức yêu
nước Việt Nam lúc đó cũng chịu ảnh hưởng của các tư tưởng chính trị mới này của
phương Tây như giới trí thức yêu nước Nhật bản và Trung Hoa trước đó. Sự thành
công của cuộc canh tân “thoát Á” ở Nhật bản và cuộc cách mạng dân quốc ở Trung
Hoa đã đem lại niềm kích thích mới cho thành phần sĩ phu yêu nước còn nặng lòng
với truyền thống văn hóa chính trị Việt Nam và phương đông. Họ hiểu rằng cần
canh tân, không thể phục cổ hoàn toàn được nữa, nhưng họ cũng không thể chấp nhận
để bị Pháp hóa. Tinh thần đề kháng văn hóa và văn minh Pháp còn mạnh trong đa số
sĩ phu Bắc và Trung kỳ, nhất là những người còn đeo đuổi Hán học và các kỳ thi
do triều đình tổ chức. Tú Xương có thể coi là người đại biểu cho lớp sĩ phu
này. Ông hiểu rõ hơn ai hết thực chất của giai đoạn nửa Hán nửa Tây, Hán đã suy
tàn nhưng Tây vẫn chưa thịnh. Riêng ông vẫn phải đi thi dù thi mãi cả chục lần
vẫn chỉ đậu Tú Tài.
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
Lọng cắm rợp trời, quan Sứ đến,
Váy lê quét đất, mụ đầm ra…
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
Lọng cắm rợp trời, quan Sứ đến,
Váy lê quét đất, mụ đầm ra…
Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt,
Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng!
Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng!
Trong tình cảnh này sĩ phu yêu nước Việt Nam phải
chia hai hướng, một là đi tìm ở Nhật Bản, Trung Hoa con đường cứu nước, hai là
hướng sang trời Tây. Cả hai hướng đều giống nhau là tìm ở bên ngoài hơn là
trông vào nội lực đã suy tàn từ lâu, có lẽ từ thời phân tranh nam-bắc. Nhưng cả
hai hướng đều chưa thật sự thoát Trung hay đúng hơn chưa thật sự đem đến độc lập
chân chính và lâu bền cho dân tộc. Hậu quả của tình trạng này là chúng ta vẫn đứng
giữa hai con đường, hoặc thoát Trung lại thuộc Tây (Pháp, Mỹ hay Nga), hoặc
thoát được Tây lại thuộc Trung, hoặc dân tộc bị chia rẽ. Ngày nay tình trạng
này lại tái diễn và dường như vấn nạn nền tảng này của dân tộc vẫn chưa thật sự
có lối thoát.
Bài học lớn nhất của thời kỳ đầu thế kỷ 20 đem áp dụng
cho Việt Nam hiện nay, đầu thế kỷ 21, phải chăng là: nếu chưa sáng tạo được con
đường xây dựng đất nước vừa dân tộc vừa thời đại thì nước ta sẽ tiếp tục tròng
trành giữa đông-tây, Âu-Á, giữa thoát Trung rồi thuộc Tây, thoát Tây rồi lại
thuộc Trung, như 100 năm qua và hiện nay.
Đoàn
Viết Hoạt
(12/6/2014)
-------------------------------------
No comments:
Post a Comment