Với cương vị một người công dân
Đức, tôi không can dự gì đến cuộc chiến này. Nhưng, nhằm chú giải cho cuốn sách
kinh điển của nhà báo, tương tự như các phóng viên kỳ cựu có lương tâm, lòng
tôi đã từng và vẫn còn đứng về phía dân tộc Việt Nam nhiều đau thương. Lòng tôi
hướng về những người phụ nữ tuyệt vời với tính tình rất thẳng thắn và vui vẻ;
hướng về những người đàn ông Việt Nam khôn ngoan và vô cùng phức tạp còn mải mê
giấc mơ tuyệt hảo theo phong cách Khổng giáo; hướng về các chiến binh trông như
trẻ con đi ra ngoài mặt trận mang theo cái tài sản duy nhất là một lồng chim
hoàng yến; hướng về các góa phụ chiến tranh trẻ với thân thể biến đổi đi chỉ vì
muốn tìm một tấm chồng lính Mỹ nhằm tạo một ngôi nhà mới cho con cái và có thể
cho chính họ, còn hơn là phải đối mặt với độc tài Cộng sản; hướng về nhóm trẻ
em bụi đời trong thành thị cũng như ngoài nông thôn biết đùm bọc lẫn nhau cùng
những đàn trâu. Với trái tim chai cứng còn lại, lòng tôi thuộc về những người
trốn chạy khỏi lò sát sinh và các vùng chiến sự, luôn luôn đi về hướng Nam mà
không bao giờ về hướng Bắc cho đến tận cùng, khi không còn một tấc đất nào vắng
bóng Cộng sản nữa để mà trốn tránh. Tôi đã chứng kiến họ bị thảm sát hay bị
chôn sống trong những ngôi mồ tập thể và mũi tôi vẫn còn phảng phất mùi hôi
thối của những thi thể đang thối rữa...
Uwe Siemon-Netto
Uwe Siemon-Netto (uwesiemon.blogspot): Sinh năm 1936 tại
Leipzig, Germany. M.A. thần học hệ Lutheran t ại Chicago. Ph.D. thần học và xã
hội học về tôn giáo tại đại học Boston. Hiện là giám đốc điều hành Trung Tâm
Thần Học hệ phái Lutheran tại Capistrano Beach, California.
Khởi sự viết báo từ 1956. Ký giả
bán thời cho nhiều cơ sở báo chí khắp nơi trên thế giới bao gồm Việt Nam với 53
năm kinh nghiệm phóng viên. Đã xuất bản 5 đầu sách và nhiều tiểu luận.
Bài viết dưới đây là lời bạt cho
cuốn sách viết về cuộc chiến Việt Nam theo trải nghiệm của tác giả: “Đức – A
reporter’l love for a wounded people”.
*
Hậu quả của khủng bố và hiệu lực của hy vọng
Hơn 40 năm đã trôi qua kể từ khi
tôi giã biệt Việt Nam. Vào năm 2015, thế giới sẽ chứng kiến kỷ niệm lần thứ 40
chiến thắng của Cộng sản và nhiều người sẽ gọi đó là ngày "giải
phóng." Ga xe lửa Huế, nơi một đầu máy và một toa hành lý khởi hành chuyến
tầu tượng trưng 500 thước mỗi buổi sáng vào lúc 8 giờ sẽ không còn đáng đi vào
kịch trường của sự phi lý nữa. Nó đã được phục hồi đẹp đẽ và sơn phết lại mầu
hồng. Một lần nữa, tương tự như những ngày dưới sự thống trị của người Pháp, nó
là nhà ga xe lửa đẹp nhất vùng Đông Dương và tài xế tắc-xi không phải chờ đợi
vô ích bên ngoài. Mười chuyến tầu thong dong chạy qua mỗi ngày, năm chuyến xuôi
Nam và năm chuyến ra Bắc. Gộp chung lại chúng được mệnh danh một cách không
chính thức là Tàu Tốc Hành Thống Nhất. Chẳng lẽ nào tôi lại không mừng vui?
Chuyện này có khác nào bên Đức khi bức tường Bá Linh đổ xuống và những bãi mìn
biến mất, và nay những chuyến tầu cao tốc phóng ngược xuôi giữa hai xứ nguyên
là Cộng sản bên Đông và Dân chủ bên Tây với tốc độ lên tới 200 dặm một giờ?
Hiển nhiên là tôi rất vui khi chiến
tranh kết thúc và Việt Nam được thống nhất và phát triển, những chuyến xe lửa
đã hoạt động trở lại và các bãi mìn đã được tháo gỡ. Nhưng đến đây thì sự tương
đồng với nước Đức chấm dứt. Nước Đức hoàn thành sự thống nhất, một phần nhờ
người dân tại Đông Đức đã lật đổ chế độ độc tài toàn trị bằng những cuộc biểu
tình và phản kháng ôn hòa, một phần nhờ vào sự khôn ngoan của các nguyên thủ
quốc tế như các vị Tổng thống Ronald Reagan và George G.W. Bush, của Thủ tướng
Helmut Kohl, của lãnh tụ Sô Viết Mikhail Gorbachev, và cũng phần khác vì sự sụp
đổ có thể đoán trước được của hệ thống xã hội chủ nghĩa sai lầm trong khối Sô
Viết. Không có ai bị thiệt mạng trong tiến trình này, không một ai bị tra tấn,
chẳng có ai phải vào trại tù và cũng không có ai bị buộc phải trốn chạy.
Có một khuynh hướng khó hiểu, ngay
cả trong số các vị học giả đáng kính của phương Tây đã diễn tả sự kiện Cộng sản
cưỡng chiếm miền Nam như là một cuộc "giải phóng”. Điều này đặt ra một câu
hỏi: giải phóng cái gì và cho ai?
Có phải miền Nam đã được "giải phóng" khỏi sự
áp đặt một nhà nước độc đảng toàn trị được xếp hạng chung với những chế độ vi
phạm tồi tệ nhất thế giới về các nguyên tắc tự do tôn giáo, tự do phát biểu, tự
do ngôn luận, tự do hội họp và tự do báo chí? Một cái thứ giải phóng gì đã làm
chết 3,8 triệu người dân Việt từ 1954 đến 1975 và đã buộc hơn một triệu người
khác phải trốn ra khỏi đất nước, không những từ miền Nam bại cuộc mà cả từ
những bến cảng miền Bắc và làm từ 200.000 đến 400.000 người gọi là thuyền nhân
bị chết đuối?
Có phải là hành động giải phóng
không khi xử tử 100.000 người lính miền Nam và viên chức chính phủ sau ngày Sài
Gòn thất thủ? Phải chăng chỉ là một màn trình diễn nhân đạo của bên thắng cuộc
bằng cách lùa từ một triệu đến 2 triệu rưỡi người miền Nam vào các trại tù cải
tạo, trong đó có khoảng 165.000 người mất mạng và hàng ngàn người khác đã bị
tổn thương sọ não lâu dài và bị các vấn đề tâm thần do hậu quả của tra tấn,
theo một cuộc nghiên cứu của một nhóm học giả quốc tế do Bác sĩ tâm thần
Richard F. Molina của đại học Harvard dẫn đầu?
Từ giữa những năm 1960, những tay
bịa đặt chuyện huyền thoại về chính trị và lịch sử của phương Tây, hoặc ngây
thơ hoặc bất lương, đã chấp nhận lời giải thích của Hà Nội rằng cuộc xung đột
là một cuộc "chiến tranh nhân dân." Cũng đúng thôi nếu chấp nhận định
nghĩa của Mao Trạch Đông và Võ Nguyên Giáp về cụm chữ đó. Nhưng theo luật văn
phạm về sở hữu tự theo cách Saxon Genitive qui định thì "chiến
tranh nhân dân" phải được hiểu là cuộc "chiến tranh vì nhân
dân." Thực tế không phải như vậy. Ðã có khoảng 3,8 triệu người Việt Nam đã
bị giết giữa các năm 1954 và 1975. Khoảng 164.000 thường dân miền Nam đã bị thủ
tiêu trong cuộc tru diệt bởi Cộng sản trong cùng thời kỳ, theo nhà học giả
chính trị Rudolf Joseph Rummel của trường Đại học Hawaii. Ngũ Giác Ðài ước tính
khoảng 950.000 lính Bắc Việt và hơn 200.000 lính VNCH đã ngã xuống ngoài trận
mạc, cộng thêm 58.000 quân Hoa Kỳ nữa. Đây không thể là một cuộc chiến tranh
vì nhân dân mà chính là chiến tranh chống lại nhân dân.
Trong tất cả những lập luận đạo đức
giả về cuộc chiến Việt Nam ta gặp quá thường trong vòng 40 năm qua, cái câu hỏi
quan trọng nhất đã bị mất dấu hay AWOL, nếu dùng một từ ngữ viết tắt quân sự có
nghĩa là "vắng mặt không phép," câu hỏi đó là: Dân Việt
Nam có mong muốn một chế độ Cộng sản hay không? Nếu có, tại sao gần một triệu người
miền Bắc đã di cư vào Nam sau khi đất nước bị chia cắt năm 1954, trong khi chỉ
có vào khoảng 130.000 cảm tình viên Việt Minh đi hướng ngược lại?
Ai đã khởi đầu cuộc chiến tranh?
- Có bất kỳ đơn vị miền Nam nào đã
hoạt động ở miền Bắc hay không? Không.
- Có du kích quân miền Nam nào vượt
vĩ tuyến 17 để mổ bụng và treo cổ những người trưởng làng thân cộng, cùng vợ và
con cái họ ở đồng quê miền Bắc hay không? Không.
- Chế độ miền Nam có tàn sát cả một
giai cấp hàng chục ngàn người trên lãnh thổ của họ sau năm 1954 bằng cách tiêu
diệt địa chủ và các đối thủ tiềm năng khác theo cách thống trị theo lối Sô Viết
của họ hay không? Không.
- Miền Nam có thiết lập chế độ độc
đảng toàn trị hay không? Không.
Với cương vị một người công dân
Đức, tôi không can dự gì đến cuộc chiến này. Nhưng, nhằm chú giải cho cuốn sách
kinh điển của nhà báo, tương tự như các phóng viên kỳ cựu có lương tâm, lòng
tôi đã từng và vẫn còn đứng về phía dân tộc Việt Nam nhiều đau thương. Lòng tôi
hướng về những người phụ nữ tuyệt vời với tính tình rất thẳng thắn và vui vẻ;
hướng về những người đàn ông Việt Nam khôn ngoan và vô cùng phức tạp còn mải mê
giấc mơ tuyệt hảo theo phong cách Khổng giáo; hướng về các chiến binh trông như
trẻ con đi ra ngoài mặt trận mang theo cái tài sản duy nhất là một lồng chim
hoàng yến; hướng về các góa phụ chiến tranh trẻ với thân thể biến đổi đi chỉ vì
muốn tìm một tấm chồng lính Mỹ nhằm tạo một ngôi nhà mới cho con cái và có thể
cho chính họ, còn hơn là phải đối mặt với độc tài Cộng sản; hướng về nhóm trẻ
em bụi đời trong thành thị cũng như ngoài nông thôn biết đùm bọc lẫn nhau cùng
những đàn trâu. Với trái tim chai cứng còn lại, lòng tôi thuộc về những người
trốn chạy khỏi lò sát sinh và các vùng chiến sự, luôn luôn đi về hướng Nam mà
không bao giờ về hướng Bắc cho đến tận cùng, khi không còn một tấc đất nào vắng
bóng Cộng sản nữa để mà trốn tránh. Tôi đã chứng kiến họ bị thảm sát hay bị
chôn sống trong những ngôi mồ tập thể và mũi tôi vẫn còn phảng phất mùi hôi
thối của những thi thể đang thối rữa.
Tôi không có mặt vào lúc Sài Gòn
thất thủ sau khi toàn bộ các đơn vị Quân Lực VNCH, thường xuyên bị bôi bẩn một
cách ác độc bởi truyền thông Hoa Kỳ, giờ đây bị những đồng minh người Mỹ của họ
bỏ rơi, đã chiến đấu một cách cao thượng, biết rằng họ không thể thắng hay sống
sót khỏi trận đánh cuối cùng này. Tôi đang ở Paris, lòng sầu thảm khi tất cả
những chuyện này xẩy ra và tôi ước gì có dịp tỏ lòng kính trọng năm vị tướng
lãnh VNCH trước khi họ quyên sinh lúc mọi chuyện chấm dứt, một cuộc chiến mà họ
đáng lý họ phải thắng: Lê Văn Hưng
(sinh năm 1933), Lê Nguyên Vỹ (sinh
năm 1933), Nguyễn Khoa Nam (sinh năm
1927), Trần Văn Hai (sinh năm 1927)
và Phạm Văn Phú (sinh năm 1927).
Khi tôi viết đoạn kết này, một ký
giả đồng nghiệp thuộc loại học giả sinh năm 1975 khi Sài Gòn bị thất thủ, đã tự
tạo cho bản thân một thứ tên tuổi bằng cách bêu xấu tội ác chiến tranh của Mỹ
tại Việt Nam. Vâng, họ thật đáng bị bêu xấu. Đúng, đó là sự thật. Mỹ Lai có
thật. Tôi biết, tôi đã có mặt trong phiên tòa mặt trận khi Trung úy William
Calley bị kết án là có tội. Tôi biết cái tiêu chuẩn đếm xác chết được tôn sùng
bởi đầu óc méo mó của các cấp chỉ huy quân sự cũng như dân sự thời đại Mc
Namara tại Washington và bản doanh Hoa Kỳ tại Sài Gòn đã làm tổn hại hàng ngàn
mạng sống của người dân vô tội.
Nhưng không có hành vi tàn ác nào
của một vài đơn vị vô kỷ luật Hoa Kỳ và VNCH có thể sánh bằng cuộc tàn sát do
lệnh nhà nước giáng xuống đầu người miền Nam nhân danh Hồ Chí Minh. Những tội
ác mà cho đến ngày nay những kẻ kế thừa thậm chí vẫn không thừa nhận vì không
ai có cái dũng cảm hỏi họ: Tại sao các anh thảm sát tất cả những người vô tội
mà các anh rêu rao là đi chiến đấu để giải phóng họ? Với tư cách một người Đức,
tôi xin được thêm một đoạn chú thích như sau: tại sao các anh giết người bạn
của tôi là Hasso Rüdt von Collenberg,
tại sao lại giết các bác sĩ người Đức ở Huế, và anh Otto Söllner tội nghiệp mà "tội ác" duy nhất là dạy trẻ
em Việt Nam cách điều khiển một ban nhạc hòa tấu? Tại sao các anh bắt cóc những
thanh niên thiện nguyện Knights of
Malta, làm cho một số bị chết trong rừng rậm và số khác thì bị giam cầm
tại Hà Nội? Tại sao các anh không bao giờ tự xét lương tâm về những hành động
đó, theo cách những người Mỹ chính trực trong khi họ đã được xác định một cách
đúng đắn là họ thuộc về phía lẽ phải trong cuộc Đại Chiến Thứ Hai, vẫn bị dằn
vặt bởi cái di sản khủng khiếp để lại vì đánh bom rải thảm những khu dân cư
trong nước Đức và tấn công bằng bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki?
Hồi tưởng lại cuộc thử thách trên
con đường mòn Hồ Chí Minh trong tạp chí Der Spiegel, cô y tá Tây Đức
Monika Schwinn nhớ lại cuộc gặp gỡ với các đơn vị chiến đấu Bắc Việt trên đường
xuống phía Nam như là một trong những kinh nghiệm khủng khiếp nhất. Cô diễn tả
cái cường độ của mối hận thù trên khuôn mặt của những tên lính đó và cô viết
chính những tên Việt Cộng canh chừng phải khó khăn lắm mới ngăn chận họ không
giết những người Đức ngay tại chỗ. Không có ai sinh ra là đã hận thù cả. Sự thù
hận chỉ có thể có được do dậy dỗ. Nuôi dưỡng tính giết người trong lòng thanh
niên là một khuôn phép huấn luyện chỉ có trường phái chủ nghĩa độc tài toàn trị
là giỏi nhất. Trong cuốn tiểu sử rất hay nói về tay chỉ huy SS Heinrich
Himmler, sử gia Peter Longerich diễn tả là ngay cả gã sáng lập viên cái lực
lượng tàn độc gồm những tên côn đồ mặc đồ đen cũng khó lòng buộc thuộc hạ vượt
qua sự kiềm chế tự nhiên để thi hành lệnh thảm sát Holocaust (Longerich.
Heinrich Himmler. Oxford: 2012). Chính cái ánh mắt thù hận của những tên sát
nhân Bắc Việt tại Huế làm những người còn sống sót mà tôi đã phỏng vấn cho là
bị ám ảnh hơn cả. Nhưng dĩ nhiên phải dành nhiều thời gian với họ, chịu sự đau
khổ cùng họ, tạo niềm tin và trò chuyện với họ thì mới khám phá ra cái cốt lõi
của một phần nhân tính con người, một hiểm họa về mặt chính trị và quân sự vẫn
còn quanh quẩn bên chúng ta từ bốn thập niên qua. Lý thuyết và quan điểm đưa ra
về cái thảm hoạ ấy từ trong tháp ngà của đài truyền hình New York hay các
trường đại học Ivy League thì không bao giờ đủ cả.
Trong một cuốn sách gây chú ý về
đoàn quân Lê Dương Pháp, Paul Bonnecarrère đã kể lại cuộc gặp gỡ lịch sử giữa
Đại tá đầy huyền thoại Pierre Charton và Tướng Võ Nguyên Giáp sau khi Pháp thất
trận tại Điên Biên Phủ (Bonnecarrère. Par le Sang Versé. Paris: 1968). Charton
là tù binh trong tay Cộng sản Việt Minh. Giáp đến thăm Charton nhưng cũng để
khoác lác ra oai. Cuộc gặp gỡ xẩy ra trong một lớp học trước mặt khoảng 20 học
viên đang tham dự một buổi tuyên truyền chính trị. Cuộc đối thoại giữa hai nhân
vật đối địch nhau đã xẩy ra như sau:
Giáp: "Tôi đã đánh bại ông,
thưa Đại tá!"
Charton: "Không, ông không
đánh bại tôi, thưa Đại tướng. Rừng rậm đã đánh bại chúng tôi, cùng sự hỗ trợ
các ông đã nhận được từ người dân... bằng các phương tiện khủng bố."
Võ Nguyên Giáp không ưa câu trả lời
này và cấm các học viên không được ghi chép nó. Nhưng đó là sự thật, hay chính
xác hơn: đó là một nửa của sự thật. Cái nửa kia là các nền dân chủ như Hoa Kỳ
đúng là không được trang bị về chính trị và tâm lý để theo đuổi một cuộc chiến
trường kỳ. Sự nhận thức này, cùng với cách sử dụng các phương tiện khủng bố đã
trở thành trụ cột trong chiến lược của Võ Nguyên Giáp. Hắn nhận định đúng và
hắn đã thắng. Thậm chí nguy hiểm hơn nữa là ngày nay các chế độ toàn trị đang
chú ý đến điểm này.
Cho đến tận ngày hôm nay tôi vẫn
còn bị ám ảnh bởi cái kết luận tôi bắt buộc phải rút ra từ kinh nghiệm về Việt
Nam là: khi một nền văn hóa bê tha hủ hóa đã mệt mỏi về lòng hy sinh, nó sẽ có
khả năng vứt bỏ tất cả. Nó sẵn sàng bỏ rơi một dân tộc mà đáng lẽ nó phải bảo
vệ. Nó còn thậm chí sẵn sàng xóa đi những mạng sống, sức khoẻ về thể chất và
tinh thần, nhân phẩm, trí nhớ và danh thơm của những thanh niên đã được đưa ra
mặt trận. Điều này đã xẩy ra trong trường hợp các cựu chiến binh Mỹ chiến đấu tại
Việt Nam. Tác động của sự khiếm khuyết đã ăn sâu trong các nền dân chủ tự do
này rất đáng sợ vì cuối cùng nó sẽ phá hỏng chính nghĩa dân chủ và tiêu diệt
một xã hội tự do.
Tuy nhiên tôi không thể kết thúc
câu chuyện ở đây bằng sự bi quan này được. Là một người quan sát về lịch sử,
tôi biết là lịch sử, khi quá khứ được khép lại, tương lai luôn luôn được mở ra.
Là một Ki-Tô hữu tôi biết ai là Chúa tể của lịch sử. Chiến
thắng của Cộng sản dựa vào những căn bản độc ác: khủng bố, tàn sát và phản bội. Hiển nhiên tôi không biện minh cho
chuyện tiếp tục đổ máu nhằm chỉnh lại hậu quả tàn khốc đó, cho dù có khả thi đi
chăng nữa. Nhưng là một người ngưỡng mộ tính kiên cường của dân tộc Việt Nam,
tôi tin là họ sẽ cuối cùng tìm ra phương cách ôn hòa và các lãnh tụ chân chính
để họ có thể thoát khỏi những tay bạo chúa. Có thể sẽ phải mất nhiều thế hệ,
nhưng điều đó rồi sẽ xẩy ra.
Trong ý nghĩa này, tôi bây giờ chỉ
muốn xếp hàng vào đoàn xích-lô bên ngoài ga xe lửa Huế vào năm 1972, nơi chẳng
có người khách nào quay trở lại. Chỗ của tôi ở đâu bây giờ? Tôi còn lại gì nữa
ngoài niềm hy vọng?
From: The fruit of terror and the virtue of hope (Uwe
Siemon-Netto)
Dịch giả Lý Văn Quý
*
Tưởng niệm
Cuốn sách này được viết nhằm tưởng
nhớ vô số các nạn nhân vô tội trong cuộc xâm chiếm Miền Nam Việt Nam bởi Cộng
sản, đặc biệt là:
- Hàng trăm ngàn đàn ông, phụ nữ và
trẻ em bị tàn sát trong các làng mạc và thành phố, nhất là tại Huế;
- Hàng trăm ngàn chiến sĩ và công
cán chính VNCH đã bị hành quyết, tra tấn hoặc bỏ tù sau khi chiến tranh kết
thúc;
- Hàng triệu người đã bị xua đuổi
ra khỏi quê hương và hàng trăm ngàn người đã bị chết đuối trong quá trình đi
tìm tự do;
- Các chiến sĩ VNCH đã anh dũng
chiến đấu khi đã mất tất cả và các tướng lãnh oai hùng đã quyên sinh vào những
giờ phút cuối cùng;
- Các thanh niên Nam, Bắc Việt Nam
động viên vào quân ngũ đã bỏ mạng trong cái gọi là "chiến tranh giải phóng"
nhưng đã không mang lại tự do cho ai;
- 58.272 binh lính Hoa Kỳ, 4.407
Đại Hàn, 487 Úc; 351 Thái và 37 Tân Tây Lan đã hy sinh tại Việt Nam ;
- Các đồng hương người Đức, trong
đó có BS Horst-Günther và Elisabetha Krainick, BS Alois Alteköster, BS Raimund
Discher, GS Otto Söllner, Bá Tước Hasso Rüdt von Collenberg và nhiều người khác
đã đến như những người bạn và phải trả giá bằng mạng sống của họ.
Dịch giả Lý Văn Quý
----------------------------------------------------
Tuesday,
March 19, 2013
Please
find below an endorsement by Peter R. Kann of my new book, DUC - A Reporter's
Love for A Wounded People. Mr. Kann, the former CEO of Dow Jones and
Publisher of the Wall Street Journal, was the Journal's Vietnam correspondent
Uwe Siemon-Netto, the distinguished German journalist, has written a masterful memoir of his many years covering the Vietnam War. He captures, as very few others have, the pathos and absurdities, the combat, cruelties and human cost of a conflict which -- as he unflinchingly and correctly argues -- the wrong side won. From the street cafes of Saigon to special forces outposts in the central highlands, from villages where terror comes at night to the carnage and war crimes visited on the city of Hue at Tet, 1968, Uwe brings a brilliant reportorial talent and touch. Above all, Uwe writes about the Vietnamese people: street urchins and buffalo boys, courageous warriors and hapless war victims, and the full human panoply of a society at war. As a German, Uwe had, as he puts it, "no dog in this fight", but he understood the rights and wrongs of this war better than almost anyone and his heart, throughout the powerful and moving volume, is always and ardently with the Vietnamese people.
Uwe Siemon-Netto, the distinguished German journalist, has written a masterful memoir of his many years covering the Vietnam War. He captures, as very few others have, the pathos and absurdities, the combat, cruelties and human cost of a conflict which -- as he unflinchingly and correctly argues -- the wrong side won. From the street cafes of Saigon to special forces outposts in the central highlands, from villages where terror comes at night to the carnage and war crimes visited on the city of Hue at Tet, 1968, Uwe brings a brilliant reportorial talent and touch. Above all, Uwe writes about the Vietnamese people: street urchins and buffalo boys, courageous warriors and hapless war victims, and the full human panoply of a society at war. As a German, Uwe had, as he puts it, "no dog in this fight", but he understood the rights and wrongs of this war better than almost anyone and his heart, throughout the powerful and moving volume, is always and ardently with the Vietnamese people.
PETER R. KANN
FORMER CEO OF DOW JONES
AND PUBLISHER OF
THE WALL STREET JOURNAL
Last year, I sent you the preface for my book. Please find below the In Memoriam page and epilogue. The entire volume will be available on Amazon.com at the end of Mai.
IN MEMORIAM
This
book has been written in the memory of the countless innocent victims of the
Communist conquest in South Vietnam, notably:
-
The hundreds of thousands of men, women, and children massacred in villages and
cities, especially Hué;
- The
hundreds of thousands of South Vietnamesesoldiers and officials who were
executed, tortured or imprisoned after the end of the war;
- The millions who were driven from their
country and the hundreds of thousands who drowned in the process;
- The brave ARVN soldiers who fought on when
all was lost, and their valiant generals who took their own lives in the end;
- The young South and North Vietnamese
conscriptswho died in this so-called war of liberation, which brought no
liberty;
- The 58,272 American, 4,407 South Korean, 487
Australian, 351 Thai and 37 New Zealand soldiers who made
the
ultimate sacrifice in Vietnam;
- My German compatriots who were murdered by
the VietnameseCommunists, notably Dr. Horst-Günther and Elisabetha Krainick,
Dr. Alois Alteköster, Dr. Raimund Discher, Prof. Otto Söllner, Baron Hasso Rüdt
von Collenberg and many others, who came as friends and paid for it with their
lives.
UWE SIEMON-NETTO
Epilogue
The fruit of terror
and the virtue of hope
More
than forty years have passsed by since I paid Vietnam my farewell visit.
In 2015, the world will observe the 40th anniversary of the Communist victory,
and many will call it “liberation.” The Hué railway station, where a locomotive
and a baggage car left on a symbolic 500-yard journey every morning at eight,
no longer qualifies as Theater of the Absurd. It has been attractively restored
and painted pink. Once again, as in the days of French dominance, it is the
most beautiful station in Indochina, and taxi drivers do not have to wait outside
in vain. Ten comfortable trains come through every day, five heading north,
five going south. Collectively they are unofficially called Reunification
Express. Should I not rejoice? Is this not just as in Germany, where the Berlin
Wall and the minefields have gone, and now high speed trains zoom back and
forth between the formerly Communist East and the democratic West at speeds up
to 200 miles an hour?
Obviously
I am glad that the war is over and Vietnam is reunified and prosperous, that
the trains are running, and most of the minefields cleared. But this is where
the analogy with Germany ends. Germany achieved its unity, in part because the
Germans in the Communist East toppled their totalitarian government with
peaceful protest and resistance, and in part thanks to the wisdom of
international leaders such as Presidents Ronald Reagan and George G.W. Bush,
Chancellor Helmut Kohl, and Soviet leader Mikhail Gorbachev, and partly because
of the predictable economic collapse of the flawed socialist system in the
Soviet Bloc. Nobody died in the process, nobody was tortured, nobody ended up
in camps, nobody was forced to flee.
There
is an incomprehensible tendency, even among respectable pundits in the West, to
refer to the Communist takeover of the South as “liberation.” This begs the
question: liberation from what and to what? Was South Vietnam “freed” for the
imposition of a totalitarian one-party state that ranks among the world’s worst
offenders against the principles of religious liberty, freedom of expression,
freedom of speech, freedom of assembly, and freedom of the press? What kind of
liberation was this that cost 3.8 million Vietnamese lives between 1955 and
1975 and has forced more than one million Vietnamese to flee their country, not
only from the vanquished South, but even from ports in the North, causing
between 200,000 and 400,000 of the so-called boat people to drown?
Was
it an act of liberation to execute 100,000 South Vietnamese soldiers and
officials after the fall of Saigon? Was it meant to be a display of generosity
by the victors to herd between one million and 2.5 million South Vietnamese to
reeducation camps, where an estimated 165,000 perished and thousands more have
sustained lasting brain injuries and mental health problems resulting from
torture, according to a study by an international team of scholars led by
Harvard psychiatrist Richard F. Molina?
Since
the mid-1960s, political and historical mythographers in the West have either
naively or dishonestly accepted Hanoi’s line that this conflict was a “People’s
War.” Well it was, if one accepts Mao Zedong’s and Vo Nguyen Giap’s
interpretation of the term. But the Saxon Genitive implies that a “People’s
War” is supposed to be a war of the people. In truth, it wasn’t. Some 3.8
million Vietnamese were killed between 1955 and 1975. Approximately 164,000
South Vietnamese civilians were annihilated in a Communist democide during that
same period, according to political scientist Rudolf Joseph Rummel of the
University of Hawaii. The Pentagon estimated that 950,000 North Vietnamese and
more than 200,000 South Vietnamese soldiers fell in combat, in addition to
58,000 U.S. troops. This was no war of the people; it was a war against the
people.
In
the all too often hypocritical rhetoric about the Vietnam War over the last 40
years, the key question has gone AWOL, to use a military acronym meaning absent
without leave, and the question is: Did the Vietnamese people desire a
Communist regime? If so, how was it that nearly one million northerners moved
south following the division of their country in 1954, while only about 130,000
Vietminh sympathizers went in the opposite direction?
Who started this war? Were there any South Vietnamese units operating in North Vietnam? No. Did South Vietnamese guerillas cross the 17th parallel to disembowel and hang pro-Communist village chiefs, their wives and children in the northern countryside? No. Did the South Vietnamese regime massacre an entire class of people by the tens of thousands in is territory after 1954 the way the North Vietnamese had liquidated landowners and other potential opponents of their Soviet-style rule? No. Did the South Vietnamese establish a monolithic one-party system? No.
Who started this war? Were there any South Vietnamese units operating in North Vietnam? No. Did South Vietnamese guerillas cross the 17th parallel to disembowel and hang pro-Communist village chiefs, their wives and children in the northern countryside? No. Did the South Vietnamese regime massacre an entire class of people by the tens of thousands in is territory after 1954 the way the North Vietnamese had liquidated landowners and other potential opponents of their Soviet-style rule? No. Did the South Vietnamese establish a monolithic one-party system? No.
As
a German citizen, I had no dog in this fight, as Americans would say. But to
paraphrase the Journalists’ Prayer Book, such as hardened reporters have
hearts, mine was, and still is, with the wounded Vietnamese people. It belongs
to these sublime women who can often be so blunt and amusing; it belongs to the
cerebral and immensely complicated Vietnamese men trying to dream the perfect
dream in a Confucian way; to the childlike soldiers going to battle carrying
their only possessions – a canary in a cage; to young war widows who had their
bodies grotesquely modified just to catch a GI husband and create a new home
for their children and perhaps for themselves, rather than face a Communist
tyranny; to those urban and rural urchins minding each other and water
buffalos. What a hardened heart I had, it belonged to those I saw running away
from the butchery and the fighting – always in a southerly direction, but never
ever north, until at the very end there was no VC-free square inch to escape
to. I saw them slaughtered or buried alive in mass graves, and
still have the stench of putrefying corpses in my nostrils.
I
wasn’t there when Saigon fell after entire ARVN units, often so maligned in the
U.S. media and now abandoned by their American allies, fought on nobly, knowing
that they would neither win nor survive this final battle. I was in Paris,
mourning, when all this happened, and I wish I could have paid my respects to
five South Vietnamese generals before they committed suicide when the game was
over that they should have won: Le Van Hung (born 1933), Le Nguyen Vy (born
1933), Nguyen Khoa Nam (born 1927), Tran Van Hai (born 1927) and Pham Van Phu
(born 1927).
As
I write this epilogue, a fellow journalist and scholar of sorts, a man born in
1975 when Saigon fell, is making a name for himself, pillorying American war
crimes in Vietnam. Yes, they deserve to be pilloried. Yes, they were a reality.
My Lai was reality; I know, I was at the court martial where Lt. William Calley
was found guilty. I know that the body count fetish dreamed up by the warped
minds of political and military leaders of the McNamara era in Washington and
U.S. headquarters in Saigon cost thousands of innocent civilians their lives.
But
no atrocity committed by dysfunctional American or South Vietnamese units ever
measured up to the state-ordered carnage inflicted upon the South Vietnamese in
the name of Ho Chi Minh. These crimes his successors will not even acknowledge
to this very day because nobody has the guts to ask them: why did your people
slaughter all these innocents whom you claimed to have fought to liberate? As a
German, I take the liberty of adding a footnote here: why did you murder my
friend Hasso Rüdt von Collenberg, the German doctors in Hué, and poor Otto
Söllner, whose only “crime” was to have taught young Vietnamese how to conduct
an orchestra? Why did you kidnap those young Knights of Malta volunteers,
subjecting some to death in the jungle and others to imprisonment in Hanoi? Why
does it not even occur to you to search your conscience regarding these
actions, the way thoughtful Americans, while correctly laying claim to have
been on the right side in World War II, wrestle with the terrible legacy left
by the carpet bombing of residential areas in Germany and the nuclear attacks
on Hiroshima and Nagasaki?
Reminiscing
on her ordeal on the Ho Chi Minh Trail in the news magazine Der Spiegel, the
West German nurse Monika Schwinn recalled her encounter with North Vietnamese
combat units on their way south as one of her most horrifying experiences. She
described the intensity of hatred in the facial expressions of these soldiers
and wrote that her Vietcong minders had great difficulty preventing them from
killing the Germans on the spot. Nobody is born hating. Hate must be taught.
Fostering murder in the hearts of young people involved a teaching discipline at
which only the school of totalitarianism excels. In his brilliant biography of
SS leader Heinrich Himmler, historian Peter Longrich relates that even this
founder of this evil force of black-uniformed thugs did not find it easy to
make his men overcome natural inhibitions to execute the holocaust (Longerich.
Heinrich Himmler. Oxford: 2012). It was the hatred in the eyes of the North
Vietnamese killers in Hué that many of the survivors I interviewed considered
most haunting. But of course one did have to spend time with them, suffer with
them, gain their confidence and speak with them to discover this central
element of a human, political and military catastrophe that is still with us
four decades later. Opining about it from the ivory towers of a New York television
studio or an Ivy League school does not suffice.
In
a stirring book about the French Foreign Legion, Paul Bonnecarrère relates the
historic meeting between the legendary Col. Pierre Charton and Gen. Vo Nguyen
Giap after France’s defeat at Dien Bien Phu (Bonnecarrère. Par le Sang Versé.
Paris: 1968). Charton was a prisoner of war in the hands of the Communist
Vietminh. Giap came to pay his respects to him but also to gloat. The encounter
took place in a classroom in front some 20 students attending a political
indoctrination session. The dialogue between the two antagonists went thus:
Giap:
“I have defeated you, mon colonel!
Charton:
“No you haven’t, mon general. The jungle has defeated us… and the support you
received from the civilian population -- by means of terror.”
Vo
Nguyen Giap didn’t like this answer, and forbade his students to write it down.
But it was the truth, or more precisely: it was half of the truth. The other
half was that democracies like the United States seemed indeed politically and
psychologically ill equipped to fight a protracted war. This realization,
alongside the use of terror tactics, became a pillar of Giap’s strategy. He was
right and he won. Even more dangerous totalitarians are taking note today.
To
this very day I am haunted by the conclusion I was forced to draw from my
Vietnam experience: when a self-indulgent throwaway culture grows tired of
sacrifice it becomes capable of discarding everything. It is prepared to dump a
people whom it set out to protect. It is even willing to trash the lives, the
physical and mental health, the dignity, memory and good name of the young men
who were sent to war. This happened in the case of the Vietnam Veterans. The
implications of this deficiency endemic in liberal democracies are terrifying
because in the end it will demolish their legitimacy and destroy a free
society.
However, I must not end my narrative on this dark note. As an observer of history, I know that history, while closed to the past, is always open to the future. As a Christian I know who is the Lord of history. The Communist victory in Vietnam was based on evil foundations: terror, murder and betrayal. Obviously, I do not advocate a resumption of bloodshed to rectify this outcome, even if this were possible. But as an admirer of the resilient Vietnamese people, I know that they will ultimately find the right peaceful means and the leaders to rid themselves of their despots. It might take generations, but it will happen.
However, I must not end my narrative on this dark note. As an observer of history, I know that history, while closed to the past, is always open to the future. As a Christian I know who is the Lord of history. The Communist victory in Vietnam was based on evil foundations: terror, murder and betrayal. Obviously, I do not advocate a resumption of bloodshed to rectify this outcome, even if this were possible. But as an admirer of the resilient Vietnamese people, I know that they will ultimately find the right peaceful means and the leaders to rid themselves of their despots. It might take generations, but it will happen.
In
this sense, I will now join the queue of the pedicab drivers outside the Hué
railway station where no passenger arrived back in 1972. Where else would my
place be? What else do I possess but hope?
No comments:
Post a Comment