Birgit Grundmann
VN2006A chuyển ngữ, Mai Lê hiệu đính
Thứ Hai, 11/03/2013
Bài phát biểu "Tính bền vững của bộ
Luật Cơ Bản trước những thay đổi của thời cuộc" của Thứ trưởng Bộ Tư Pháp
[*], tiến sỹ Birgit Grundmann, tại trung tâm Pháp Luật Đức trường đại học luật
Hà Nội ngày 3 tháng 4 năm 2102 ở Hà Nội.
*
*
Xin chú ý vào lời phát biểu!
Kính thưa ngài Trưởng Khoa,
Thưa quý vị,
Rất cám ơn lời mời của trường đại học Luật
Hà Nội. Đây là vinh dự và niềm vui lớn lao cho tôi khi được phát biểu trước quý
vị ở đây, tại trung tâm cho Pháp Luật Đức của trường.
"Never change a winning team" -
mối quan hệ giữa người Đức với hiến pháp của mình - tức bộ Luật Cơ Bản - có thể
diễn tả bằng câu châm ngôn có xuất sứ trong lĩnh vực thể thao này một cách khá
tốt, theo ý của tôi. Bởi vì từ hơn 6 thập niên qua, từ khi bắt đầu có hiệu lực
cho đến nay, bộ Luật Cơ Bản đã có nhiều sửa đổi nho nhỏ, nhưng rất ít các thay
đổi lớn. Mặc cho có nhiều thay đổi về thời cuộc, kể từ khi thành lập CHLB Đức.
Ngay cả việc Thống nhất nước Đức - sáp nhập
CHDC Đức vào CHLB Đức năm 1990 - cũng không dẫn đến một cải cách lớn lao nào.
Thậm chí Thống Nhất chẳng hề làm cho Hiến pháp của chúng tôi mất đi tên gọi
mang tính tạm thời " Luật Cơ Bản". Vì nếu gọi là "Hiến
Pháp", thì có nghĩa là xác nhận sự chia cắt nước Đức, điều chúng tôi không
muốn.
Thưa quý vị,
Đối diện với những thay đổi nhiều mặt về xã
hội, chính trị, kinh tế và các mối tương quan trong cuộc sống bộ "Luật Cơ
Bản" đã làm cho ta ngạc nhiên về tính bền vững của nó. Những nguyên dẫn
đến tính bền vững này, trong bối cảnh đang có một cuộc thảo luận về thay đổi
hiến pháp ở Việt Nam là điều đáng làm cho quý vị ở đây quan tâm.
Để hiểu được sự thành công của "Luật
Cơ Bản", ta hãy nhìn vào sự ra đời của nó: năm 1948 -tức là 3 năm sau khi
kết thúc Thế Chiến Thứ Hai - việc soạn thảo hiến pháp cho nhà nước phần Tây
nước Đức được bắt đầu.
Một giải pháp cho toàn nước Đức, tức cho cả
phần Đông đang dưới sự kiểm soát của Liên Xô, vào năm 1948 là không tưởng, vì
nước Đức bị chia đôi về chính trị đã là một thực tế. Tây Đức nằm dưới sự kiểm
soát của Mỹ, Anh và Pháp. Đông Đức dưới sự chiếm đóng của Liên Xô.
Sự hình thành của Bộ Luật Cơ Bản trải qua
nhiều giai đoạn: trước hết một hội nghị soạn ra một dự án Hiến Pháp tương lai
cho Tây Đức, dựa theo truyền thống của một nhà nước liên bang, bao gồm một
chính quyền Trung Ương với các thành viên là Tiểu Bang có chính quyền, cơ quan
lập pháp và tòa án riêng.
Vài tháng sau khi công việc sơ bộ quan
trọng của hội nghị lập hiến hoàn tất, nó được đưa ra thảo luận trong hội đồng
nghị viện, bao gồm các đại diện từ các nghị viện tiểu bang thuộc vùng chiếm
đóng phía Tây.
Ngày 23 Tháng 5 năm 1949 Luật Cơ Bản được
ban hành, và nước Cộng Hòa Liên Bang Đức chính thức ra đời.
Công việc soạn thảo Luật Cơ Bản chịu ảnh
hưởng trực tiếp và dấu ấn của 2 kinh nghiệm lịch sử: nền cộng hòa Weimar và nền
chuyên chính quốc xã.
Nhà nước dân chủ Đức đầu tiên tồn tại trong
khoảng thời gian từ 1918 đến 1933. Vì Hiến Pháp của nó được soạn thảo và thông
qua tại Weimar, thời kỳ này cũng được gọi là nền cộng hòa Weimar. Hiến Pháp đế
chế của Weimar bộc lộ một số điểm yếu trong thực tại, ví dụ vị trí có nhiều
quyền lực của tổng thống đế chế, đã dẫn đến việc thâu tóm quyền lực của Hitler
sau này, hoặc quyền phán quyết hạn chế của tòa bảo hiến.
Gây dấu ấn đậm hơn bài học từ nền cộng hòa
Weimar khi soạn thảo Luật Cơ Bản là kinh nghiệm của 12 năm dưới nền thống trị
bạo lực của chế độ quốc xã. Dưới ấn tượng của hàng triệu người chết vì khủng bố
và chiến tranh thì quyền cơ bản cần phải được khẳng định mạnh mẽ, để những
chuyện như thế không thể xảy ra một lần nữa.
Hiến pháp Weimar quả thật cũng có một danh
mục khá đầy đủ về quyền cơ bản, nhưng nó chỉ được xem như là một chương trình
có kết cấu rời rạc. Cái mà ngày nay người ta thường gọi là "soft
law".
Ngược lại các quyền căn bản trong Luật Cơ
Bản được đặt lên đầu bộ luật và trao cho các công dân quyền được khiếu kiện nhà
nước. Bởi vậy điều 1, khoản 3 của Luật Cơ Bản ghi rõ: " Các quyền cơ bản
sau đây có giá trị áp dụng trực tiếp và ràng buộc quyền hạn của các cơ quan lập
pháp, hành pháp và tư pháp".
Để thực thi được các quyền căn bản được ghi
trong danh mục của Luật Cơ Bản, một tòa án hiến pháp độc lập được tạo ra. Cơ
quan này, tòa án hiến pháp liên bang, bản thân nó cũng được ghi rõ trong Bộ
Luật Cơ Bản. Đây là một tòa án độc lập về nhân sự và ngân sách, chịu trách
nhiệm diễn giải về Luật Cơ Bản và thậm chí có thể phán quyết các điều luật là
không hợp lệ.
Thưa quý vị,
Những bài học được rút ra trong quá trình
lập hiến chắc chắn đã góp phần làm Bộ Luật Cơ Bản, cho đến hôm nay, bị thay đổi
rất ít. Những thay đổi - như việc tái thành lập quân đội (Tây) Đức vào năm 1952
và quy định mới trong trường hợp khẩn cấp trong những năm 60 - là những ngoại
lệ. Gần như không có các yêu cầu đòi hỏi phải thay đổi cấu trúc Bộ Luật Cơ Bản
một cách then chốt.
Điều này thậm chí đúng cho cả giai đoạn sau
khi thống nhất đất nước vào năm 1990. Vào thời điểm đó đã có một ủy ban hiếp
pháp đồng nhất gồm cả hai bên được thành lập, có nhiệm vụ tìm hiểu khả năng cải
thiện Bộ Luật Cơ Bản.
Có 2 khuyến nghị của ủy ban này được chấp
nhận: bảo vệ môi trường được ghi vào là mục tiêu quốc gia và điều 3, điều quy
định quyền bình đẳng giữa nam và nữ được bổ sung. Trong đó giờ đây ghi rõ:
" Nữ Giới bình đẳng vói Nam Giới. Nhà nước thúc đẩy việc thực thi quyền
bình đẳng Nam Nữ, gây tác động nhằm xóa bỏ các thua thiệt của phụ nữ hiện còn
tồn tại."
Tiếp theo là quá trình phát triển để hội
nhập vào châu Âu đã đưa đến những thay đổi trong Bộ Luật Cơ Bản. Một ví dụ là
điểm 16 GG, hạn chế việc cấm dẫn độ một công dân Đức sang một quốc gia khác
(trong khối EU).
Những thay đổi hiến pháp gần đây nhất chứa
đựng các từ khóa "cải cách chính sách liên bang I" và "giảm
nợ". Ở đây trước tiên là thay đổi lại sự phân bố thẩm quyền, trách nhiệm
giữa liên bang và tiểu bang. Đặc biệt, quyền lập pháp bị thay đổi đôi chút, làm
giảm bớt các trường hợp cần có đồng thuận giữa Thượng viện và đại diện tiểu
bang ở cấp liên bang cho một điều luật.
Tiếp theo năm 2009 đã ban hành cái gọi là
" giảm nợ " để tìm cách chặn lại việc nợ quốc gia đang tăng lên và để
bảo đảm sự ổn định lâu dài của kinh tế Đức. Ở đây những khả năng của liên bang
và tiểu bang thông qua các khoản vay để tài trợ cho ngân sách của mình bị giới
hạn một cách đáng kể. Và như vậy nước Đức đã có thể phản ứng nhanh chóng trước
những thách thức của cuộc khủng hoảng tài chính-và nợ toàn cầu.
Song song với những điểm thay đổi nêu trên,
những phán quyết của Tòa Án Hiến Pháp Liên Bang rất quan trọng cho Hiến Pháp
của chúng tôi được tiếp tục phát triển. Những phán quyết này đã đạt được nhiều
quan tâm, ưng thuận của công chúng trong phần lớn các trường hợp. Nó là nền
tảng cho thành công và sự chấp thuận cao độ của dân chúng với Bộ Luật Cơ Bản.
Để hiểu được ý nghĩa của Tòa Án Hiến Pháp
Liên Bang đối với thực trạng Hiến Pháp Đức, việc xem xét bốn loại thủ tục pháp
lý quan trọng nhất của Tòa là rất có ích, những cái mà tôi muốn giới thiệu ngắn
gọn với quý vị ở đây. Đó là:
- Thủ tục giải quyết tranh chấp (quyền hạn,
trách nhiệm) giữa các cơ quan công quyền,
- Thủ tục kiểm định việc vi hiến một cách
trừu tượng và cụ thể, cũng như là
- Thủ tục giải quyết khiếu kiện hiến pháp
(của cá nhân).
Nhiệm vụ tiêu biểu của Tòa Án Hiến Pháp
Liên Bang là giải quyết các tranh chấp giữa các cơ quan công quyền. Trong đó cơ
quan hiến định và các cơ quan khác được trang bị quyền hạn riêng thông qua Luật
Cơ Bản tham gia tranh chấp với nhau về quyền hạn và nghĩa vụ của mình theo hiến
pháp. Tòa án sẽ hành động như là "trọng tài" giữa các cơ quan công
quyền, nếu như một cơ quan khiếu nại về một cơ quan khác đã vi phạm "luật
chơi" được ghi trong hiến pháp.
Trường hợp sau đây minh họa cụ thể: các đại
biểu của Hạ Nghị Viện Đức có quyền đặt câu hỏi, nhằm phục vụ cho chức năng giám
sát của quốc hội đối với chính phủ. Nếu như chính phủ liên bang trả lời câu hỏi
của đại biểu không đầy đủ, thì đại biểu này có thể đưa vấn đề ra trước Tòa án
hiến pháp liên bang đòi tòa xác định việc chính phủ vi hiến, vi phạm luật, như
thế vị đại biểu này đã thực thi quyền của mình.
(còn tiếp)
______________________
[*] Nguyên văn
"Staatssekretärin": Tương đương với Thứ Trưởng, phụ trách chuyên môn
của bộ.
Birgit Grundmann
VN2006A chuyển ngữ, Mai Lê hiệu đính
Thứ Hai, 11/03/2013
(tiếp theo phần 1)
*
Thủ tục thứ hai là xác định việc vi hiến
một cách trừu tượng. Ở đây, tòa Bảo Hiến Liên Bang quyết định - tách rời khỏi
một trường hợp cụ thể - về tính hợp hiến của một điều luật. Trong đó không chỉ
xem xét về quy trình lập pháp, mà còn xem nội dung của điều luật có phù hợp với
các quyền căn bản hay không. Để khởi xướng việc xác định vi hiến một cách trừu
tượng chỉ có chính phủ liên bang, các chính quyền tiểu bang và một phần tư số
đại biểu hạ nghị viện có quyền.
Thủ tục thứ ba là xác định việc vi hiến một
cách cụ thể. Tòa Bảo Hiến sẽ can thiệp, quyết định, nếu một tòa án cho rằng
điều luật được dùng trong quy trình xử kiện là vi phạm hiến pháp.
Ở đây có một vấn đề cho ủy ban thành lập
Hiến Pháp: một mặt mọi tòa án phải được ràng buộc bởi quyền cơ bản, mặt khác
không phải tòa án nào cũng có quyền hạn khiếu nại các điều luật của quốc hội là
không hợp hiến. Lối thoát cho các mâu thuẫn chủ đích này nằm ở chỗ, nếu một tòa
án cho rằng điều luật được sử dụng là vi hiến, ngưng quy trình xử kiện lại và
đưa câu hỏi về tính hợp hiến của điều luật đó ra trước tòa Bảo hiến liên bang.
Tòa Bảo Hiến liên bang - và chỉ có nó - mới quyết định được, điều luật đó có
chống lại luật cơ bản hay không. Nhưng tòa Bảo Hiến Liên Bang không phán quyết
trong trường hợp tranh tụng cụ thể. Đây vẫn là nhiệm vụ của tòa án đã đệ trình
điều luật nói trên.
Trong cả hai trường hợp kiểm định việc vi
hiến đã nói, phán quyết của tòa án liên bang có hiệu lực như một điều luật và
có giá trị cho tất cả, không chỉ riêng cho các bên tham gia trong trường hợp tố
tụng cụ thể.
Thưa quý vị,
Tuy nhiên, quan trọng nhất là thủ tục
thứ tư, khiếu kiện hiếp pháp: Với thủ tục này mọi công dân đều có quyền
khiếu kiện nhà nước, nếu công dân đó cho rằng quyền căn bản của mình đã bị nhà
nước vi phạm. Như vậy người dân có quyền tự vệ, phản kháng các phán quyết của
tòa án, các biện pháp hành chính và các điều luật. Tất nhiên trước khi ra khiếu
kiện hiến pháp, thì mọi khả năng pháp lý của một tòa án "thông
thường" phải được tận dụng hết đã.
Quyền kháng cáo của công dân có ý nghĩa to
lớn, nó khẳng định (bảo đảm) hiệu lực ràng buộc trực tiếp của quyền cơ bản về
mặt pháp lý. Các quyền cơ bản của mỗi một công dân không những phải được mọi
quyền lực nhà nước quan tâm, mà bản thân người dân cũng có thể tự khiếu kiện.
Người dân không nhất thiết phải dựa vào - như trường hợp kiểm định vi hiến -
một cơ quan công quyền hay một tòa án để đưa một điều luật ra kiểm định trước
tòa Bảo Hiến liên bang. Anh ta có thể tự mình làm điều đó thông qua con đường
khiếu kiện hiến pháp.
Khả năng này đã góp phần làm cho Luật Cơ
Bản được chấp nhận rộng rãi trong dân chúng và gia tăng uy tín Tòa Bảo Hiến
Liên Bang. Tòa Bảo Hiến có uy tín cao nhất trong các cơ quan công quyền. Con số
các vụ khiếu kiện chứng minh điều này: Từ khi tòa Bảo Hiến Liên Bang bắt đầu
hoạt động năm 1951 đã có đến gần 190.000 vụ khởi kiện hiến pháp, gần 96% tất cả
các thủ tục khiếu kiện ở tòa án này. Mặc dù chỉ có 2,4% tất cả các khiếu kiện
thắng cuộc. Nhưng điều đó không làm cho khả năng kháng cáo này đáng chê, mà nó
chứng tỏ tính đúng đắn của các điều luật và ý thức trách nhiệm rất cao của tòa
trong nhận thức quyền hạn giám sát của mình đối với quốc hội.
Trong các thủ tục tố tụng khiếu kiện Hiến
Pháp, tòa Bảo Hiến Liên Bang thường phải trả lời các câu hỏi về Luật Cơ Bản,
lúc ra đời còn chưa nhìn thấy trước được. Như vậy tòa đã làm cho hiến pháp liên
tục phát triển và kết quả chắc chắn là „tiết kiệm“ được một vài lần thay đổi
hiến pháp.
Tôi xin đi sâu vào 2 quyết định điển hình,
mà trong đó tòa Bảo Hiến Liên Bang đã lưu tâm xét đến những phát triển mới mang
đặc tính tự nhiên của kỹ thuật: Trước hết cần phải nêu đến phán quyết điều tra
dân số năm 1983. Đằng sau quyết định này là một điều luật đã cung cấp cơ sở
pháp lý cho việc điều tra dân số. Dân chúng nhìn thấy trong đó nguy cơ của một
"công dân trong suốt", có nghĩa thông qua những dữ liệu thu được qua
việc điều tra dân số, nhà nước biết hết mọi thông tin về anh ta.
Một số công dân ngay sau đó đã kháng cáo
lên tòa Bảo Hiến Liên Bang, và tòa đã xác định rằng Nhà nước không được phép
thu thập và xử lý thông tin cá nhân về công dân của mình một cách không giới
hạn, nó phải được giới hạn chặt chẽ. Tính đặc biệt của pháp lý trong trường hợp
này là luật cơ bản lúc đó không có quy định về bảo mật thông tin cá nhân.
Vào năm 1949 Hội Đồng Lập Hiến chưa thể
nhìn thấy những nguy cơ xẩy ra do việc xử lý thông tin hiện đại. Tòa Bảo Hiến
Liên Bang đã chắn khe hở này bằng cách, thêm vào quyền cơ bản "Tự quyết về
thông tin". Quyền cơ bản này phát sinh từ các quyền cơ bản đã có sẵn,
quyền cá nhân nói chung và quyền đảm bảo về nhân phẩm.
Ngày nay ở Đức chủ đề bảo vệ thông tin cá
nhân được đề cập khắp nơi và hiện diện trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Nếu
như tòaBảo Hiến Liên Bang không kịp thời diễn giải luật cơ bản một cách phù hợp
dưới sự lưu tâm đến việc xử lý thông tin tự động vừa mới khởi phát lúc đó, thì
có lẽ việc bổ sung hiếp pháp về trung hạn là cần thiết.
Một quyết định có tính định hướng cho tương
lai, liên quan đến tính hợp hiến của các điều luật, cho phép cơ quan an ninh
Đức trong những trường hợp nhất định thông qua Internet xâm nhập vào máy tính
cá nhân. Tòa chỉ cho phép một hành động như vậy dưới những điều kiện rất nghiêm
ngặt.
Như trong phán quyết về điều tra dân số đã
nảy sinh ra vấn đề: Luật Cơ Bản không có các quy định liên quan đến những nguy
cơ khi các công dân sử dụng Internet gặp phải. Tòa Bảo Hiến Liên Bang đã tiếp
tục bổ sung hiến pháp dựa vào quyết định từ năm 2008. Cho ra luật cơ bản về -
tôi trích dẫn - "Bảo đảm độ tin cậy và tính toàn vẹn của các hệ thống
thông tin", hoặc ngắn gọn, "quyền cơ bản về máy tính".
Cả hai quyết định nói trên tạo ra một ấn
tượng, nhờ có tòa Bảo Hiến Liên Bang nên đến ngày nay bộ Luật Cơ Bản chỉ có rất
ít thay đổi hoặc bị chỉnh sửa. Các Thẩm Phán của tòa Bảo Hiến Liên Bang đã đưa
sự sống vào các điều khoản của Luật Cơ Bản, diễn giải theo nhãn quang của những
thay đổi trong xã hội với sự lưu tâm đến các phát triển mới, đem vào áp dụng và
tiếp tục phát triển. Tòa đã ý thức nhiệm vụ của mình là "người bảo vệ hiến
pháp" một cách đầy ấn tượng.
Thưa quý vị,
Quý vị cũng đang thảo luận về thay đổi hiến
pháp và một chủ đề trong đó là vai trò của Tòa Án và công tố viên. Bởi vậy ở
điểm này tôi muốn có vài lời về tòa án và công tố viện ở Đức, về cơ bản là do
các tiểu bang thiết lập. Hiến Pháp của chúng tôi quy định tất cả các Thẩm Phán phải
độc lập. Ngược lại, hiến pháp lại không quy định là các công tố viên phải
độc lập.
Vì thế tuy rằng mỗi một bộ Tư Pháp có quyền
chỉ đạo đối với các công tố viên của mình. Nhưng không thể sử dụng nó "tùy
thích". Bởi vì quyền chỉ đạo cũng không thay đổi được nghĩa vụ của công tố
viện, tiến hành điều tra khi có tình nghi. Một chỉ thị trong trường hợp đơn lẻ,
nếu như chống lại nghĩa vụ theo luật định này, bản thân cũng sẽ là một hành
động vi phạm về luật.
Thưa quý vị,
Ở đầu bài phát biểu tôi đã nêu lên những
câu hỏi đến nguyên nhân làm nên sự bền vững của bộ Luật Cơ Bản trong những thời
gian có thay đổi và khủng hoảng. Nếu ta nhìn lại lịch sử và phát triển từ khi
thành lập Cộng Hòa Liên Bang Đức đến nay, thì thành công của bộ luật cơ bản
theo quan điểm của tôi chủ yếu là do những điểm sau đây:
- Thứ nhất, nước Đức đã học được từ những
kinh nghiệm của nền cộng hòa Weimar và thời gian Quốc Xã.
- Thứ hai, bộ Luật Cơ Bảnđược trang bị với
một tòa Bảo Hiến có quyền hạn mạnh mẽ. Với sự trợ giúp của tòa Bảo Hiến Liên
Bang các quyền cơ bản được bảo đảm bằng pháp luật được thi hành nghiêm túc.
- Và thứ ba, luôn luôn phản ứng kịp thời
với những tiến triển mới bằng những diễn giải mới một điều khoản có sẵn, hay bổ
sung thêm như trường hợp gần đây nhất, đưa vào áp dụng điều khoản
"giảm nợ" đã chỉ ra.
"giảm nợ" đã chỉ ra.
Tôi hy vọng đã làm quý vị hiểu rõ hơn về bộ
luật cơ bản và thậm chí mang đến một vài gợi ý cho việc cải cách hiến pháp hiện
nay ở đất nước quý vị, và cám ơn cho sự quan tâm của quý vị.
No comments:
Post a Comment