12-3-2013
Khi đưa ra Lời tuyên ngôn bất hủ
của mình, anh Nguyễn Đắc Kiên đã nói rõ là làm theo mệnh lệnh của lương tâm.
Nhưng anh vẫn khẳng định một cái bóng đen lởn vởn trên đầu nhân dân trong mấy
thập kỷ qua: TÔI SỢ. Tôi tin anh nói chân thành và hoàn toàn không có yếu tố
khiêm tốn rởm đời. SỢ nhưng vẫn làm vì
MỆNH LỆNH LƯƠNG TÂM cao hơn cả NỖI SỢ vậy.
Đọc danh sách những người đã ký,
thật tình nhiều khi tôi muốn khóc. Tôi cảm động khi thấy có hai anh em: anh -
sinh viên còn em – học sinh rủ nhau cùng ký. Tôi xúc động khi thấy một Chủ tịch
xã đang tại chức vẫn ký. Tôi mơ hồ nhìn thấy nỗi sợ đằng sau từng nét bút ký
hay từng cú nhấn phím máy tính. Nhưng con mắt lương tri của họ vẫn chòng chọc
như thấu vào tâm can và cuối cùng mãnh lực của nó đã thắng nỗi sợ. Và họ đã ký!
Không gì lay chuyển nữa! Có lẽ chúng ta hãy cùng nhau khóc mừng cho những hành
động vượt ngưỡng thiêng liêng như vậy.
Tuy nhiên, theo tôi, ngoài Lương
tâm trong vai trò chủ đạo trong việc chiến thắng nỗi sợ thì còn một phương pháp
chiến thắng nỗi sợ nữa là định lượng và định tính nỗi sợ để tìm ra cái ngưỡng
đáng sợ. Trước đây, ta cứ mơ hồ sợ, còn bây giờ ta phân tích cái ngưỡng
nào thì ta mới sợ.
Những định đề
Đầu tiên, chúng ta định nghĩa thế
nào là ngưỡng của nỗi sợ. Ngưỡng của nỗi sợ là ngưỡng hành động của
một người sống trong một chế độ với những điều kiện xã hội nhất định mà nỗi sợ
làm cho người ta không dám vượt qua.
Định đề 1: Ngưỡng của
nỗi sợ càng về sau càng cao
Giai đoạn đầu khi một chế độ độc tài hay thế lực có mang trong mình
những mầm mống của toàn trị, độc tài lên thay chính quyền cũ vì lực quán tính
của xã hội cũ vẫn còn và vì mị dân để chứng minh cho dân thấy chế độ mình ưu
việt hơn chế độ cũ nên tuy có đàn áp nhưng cũng nương tay và những tập quán của
dân ở chế độ cũ không thể một sớm một chiều mất đi vì thế các đường zic zac có
biên độ nhỏ nhưng về tổng thể là đi xuống.
Giai đoạn hai là khi chế độ độc tài đã được thiết lập một cách vững
chắc và nhà cầm quyền đã thành công trong việc gieo rắc nỗi sợ lên người dân
một cách khủng bố. Nhưng ở giai đoạn này, kể cả khi nới lỏng lẫn khi đàn áp,
chính quyền độc tài vẫn không có một đường lối cụ thể nào rõ ràng và minh bạch.
Và vì bản chất con người là tự do, cộng thêm trí tuệ toàn dân là trí tuệ hơn
hẳn độc tài nên đôi khi nhân dân đã lợi dụng được những khoảng nới để hành động
vượt nỗi sợ hãi. Sau những lúc như thế, độc tài lại đàn áp dữ dội. Chính vì
thế, ở giai đoạn hai này biên độ dao động rất lớn và đây là giai đoạn người dân
dễ chiếm lại những tự do đã bị tước đoạt và lập chính quyền mới.
Những quốc gia xui xẻo trong đó có
Việt Nam lại tiếp tục đi vào giai đoạn ba. Giai đoạn ba phải nói là giai
đoạn đã định hình thế trận. Tức hai bên Độc tài và Nhân Dân đã biết quá rõ về
nhau: một bên bắt đầu sử dụng gian kế, mưu xảo còn một bên thì lợi dụng khe hở
để lách. Vì thế nên biên độ dao động ở đây nhỏ và càng ngày càng nhỏ. Ngưỡng
của sợ hãi càng ngày càng tăng vì rất nhiều yếu tố:
- Dân trí cao lên: đây là nguyên nhân chủ chốt nhất. Nói dân trí cao lên
là cả bên Nhân Dân lẫn bên Độc tài đều cao lên. Dân trí cao lên thì trình độ
lạng lách của nhà đối lập cao hơn, nhà đối lập am hiểu pháp luật nhiều hơn để
tìm cách chuyển tải thông tin hay hành động khôn ngoan làm cho nhà độc tài khó
có cớ để đàn áp. Trình độ bên độc tài cao lên và thế hệ mới có học hơn lên nắm
chính quyền thì sự đàn áp nếu có cũng xảo quyệt hơn, chọn lựa hơn chứ không còn
tràn lan như trước.
- Có nhiều tấm gương dấn thân hơn: khi có nhiều tấm gương dấn thân trước đó thì người sau
làm những hành động trong hoặc trên ngưỡng một phần vì lương tâm, một phần là
để noi gương các đấng anh hùng đi trước.
- Có nhiều điều kiện để dung hòa
nỗi sợ hơn: Ví dụ, nếu nỗi sợ là sợ thân danh
bị ô uế thì nay không sợ nữa vì có rất nhiều người dân đã quá rõ bản chất của
độc tài nên họ dễ cảm thông với người dấn thân hơn hoặc trước đây độc tài có
thể kiểm soát hết đường phản biện của người bị bôi nhọ nhưng bây giờ thì không
thể. Một ví dụ rõ ràng là vụ đưa em Phương Uyên lên nhận tội trên đài truyền
hình. Em Uyên nhận tội nhưng thực tế đó là bản cáo trạng dành cho chính quyền
độc tài vì tất cả mọi người đều biết rằng đây là vở diễn tồi. Đồng thời, nhân
dân càng thấy cảm thông với Phương Uyên hơn. Đã lâu từ khi Phương Uyên nhận tội
nhưng bây giờ vẫn không ngớt những bài viết ca ngợi em trên mạng. Tôi sẽ nói
thêm về các điều kiện dung hòa sợ hãi này khi phân tích định tính của sợ hãi.
- Độc tài chuyển trục từ quyền sang
tiền. Ở đây, tôi không cố gắng xóa đi
yếu tố quyền trong cơ cấu độc tài vì ai cũng biết quyền tiền thường song hành
với nhau. Tôi chỉ muốn nói là cán cân chuyển về phía tiền. Trước đây khi các
thành viên trong chính quyền độc tài quan tâm đến quyền hơn thì nhóm được phân
phối quyền lực rất ít và thường theo hàng dọc, tức cha truyền con nối. Cha làm
quan trong chính quyền thì rồi chính quyền sẽ cơ cấu cho con làm quan. Tức
trường ảnh hưởng của “lực quyền” không lớn lắm. Bây giờ khi chuyển trục từ
quyền sang tiền thì giống như câu “một người làm quan cả họ được nhờ”, ngoài
nhóm được phân phối quyền lực còn một nhóm được phân phối tiền lực theo chiều
dọc (cha mẹ, con cái) lẫn chiều ngang (anh em, bằng hữu, người đối tác). Vì thế
mà trường ảnh hưởng lúc này tăng lên bội phần. Khác với những xã hội dân chủ
tiến bộ, nguồn lợi được phân phối từ quyền lực chứ không phải từ khả năng nên
dẫn đến sự không công bằng trong phân phối. Và vì trường của lực tiền lớn nên
những bất công này giữa các thành viên trong chính quyền càng mau chóng được
khoét sâu. Trước đây chỉ có mỗi lực quyền, nếu có gì bất công thì chín bỏ làm
mười còn bây giờ trường của lực tiền quá lớn nên nếu có bất công tất vợ con,
anh em, bạn bè đàm tiếu, tiếng ra tiếng vào chửi bới người cũng là thành viên
trong chính quyền giành giật miếng lợi. Mâu thuẫn luôn luôn có cơ thoát khỏi
những đoàn kết ý thức hệ để bảo vệ chính quyền độc tài. Lúc đó sẽ có một số
thành phần trong chính quyền cổ vũ cho những đả kích, chỉ trích thành phần khác
cũng trong chính quyền. Ngoài ra, khi các quan đặt trọng về tiền thì tham nhũng
càng lên cao. Điều này thứ nhất gây nên một lực phản kháng trong toàn thể nhân
dân và lực này nâng cái ngưỡng của sợ hãi lên. Ví dụ, quan A tham nhũng có đăng
lên thông tin đại chúng, dân tình bắt đầu dấy lên dư luận không đồng tình,
nhưng sẽ có rất nhiều người đặt câu hỏi vì sao lại có tham nhũng và họ trả lời
vì độc tài không có ai kiểm soát cả…Như vậy, dựa vào việc tham nhũng mà dân đã
bắt đầu tấn công sang địa hạt khác tức chỉ trích sự độc tài và toàn trị.
Như vậy, ở định đề này ta có thể
thấy một định luật sau:
- Ở giai đoạn 1, vì có lực quán
tính của xã hội cũ và lực mị dân của độc tài cản lại lực trấn áp các thế lực
của xã hội cũ nên ngưỡng của sợ hãi đi xuống nhưng biên độ nhỏ vì hành động nhà
cầm quyền dễ đoán hơn.
- Ở giai đoạn 2, lực quán tính
không còn, ngưỡng của sợ hãi xuống tận đáy bắt đầu chỉ còn Nhân Dân đối diện
với Độc tài nhưng Độc tài lại không biết hay không tỏ tường lắm trong việc phải
làm gì. Vì thế, ngưỡng của sợ hãi về tổng quan có đi lên nhưng biên độ giao
động lớn. Giai đoạn này có thể có lợi cho một cuộc cách mạng ngược lại để lập
nên chính quyền nhân dân nếu như nhân dân đủ khí lực và trí lực.
- Ở giai đoạn 3, cuộc chiến bắt đầu
rõ ràng hơn, minh bạch hơn và vì có nhiều điều kiện dung hòa nỗi sợ nên càng
ngày ngưỡng của nỗi sợ càng cao với biên độ nhỏ. Giai đoạn này có lợi cho một
cuộc đấu tranh bất bao động ôn hòa để lấy lại chính quyền.
Lịch sử Việt Nam ta những năm thế
kỷ 19-20 cho thấy rõ điều đó. Nếu như nói giặc Pháp là độc tài thực dân thì ta
thấy mô hình đi đúng như thế và cuối cùng là Pháp đã trao trả ôn hòa cho vua
Bảo Đại và chính quyền Trần Trọng Kim nhưng không may cho đất nước chúng ta là
trong chính trường lúc đó không phải chỉ mỗi vua Bảo Đại và Pháp mà còn một
quyền lực đen đúa lấp ló trong màn đêm.
Định đề 2: Ngưỡng của nỗi sợ càng
cao khi càng đông người hành động trong hoặc trên ngưỡng đó.
Các mô hình ngưỡng của nỗi sợ trong các chế độ độc tài
khác nhau
Có một nhận định khá hợp lý là thực
ra biểu đồ ngưỡng của nỗi sợ với số người cũng gần như biểu đồ với thời gian vì
thời gian tồn tại của chế độ độc tài càng dài thì số người phản kháng càng cao.
Tuy thế, mặc dù gần giống nhau nhưng không phải là một vì rằng có những tác
nhân khác ngoài thời gian tác động lên số đông. Ví dụ có một quyết sách gì đó
của chính phủ ảnh hưởng lớn đến người dân thì ngay lập tức sẽ có hàng triệu
người đứng lên chống đối và số người lên cao đến nỗi số lượng chống đối qua
những năm trước đó so với nó như muối bỏ bể.
Lý do ngưỡng của nỗi sợ tăng theo
số người cũng rất dễ hiểu mà theo tôi có ba nguyên nhân chính:
- Người đối kháng cảm thấy tiếng
nói mình không lạc lõng. Vẫn có
người đồng hành với mình. Năng lượng phấn khích của đám đông cổ vũ từng người
trong họ.
- Bất kỳ người đối kháng nào cũng
muốn mình không phụ lòng những người đồng hành. Bạn nên nhớ nếu họ đã đứng lên đối đầu với độc tài thì
ít ra họ là người dũng cảm và thường là trung thực và có tư cách. Vì thế việc
họ sẵn sàng dấn thân để không phụ lòng người khác là điều khá dễ hiểu.
- Chính quyền độc tài không có khả
năng đàn áp hết tất cả. Sự đàn áp
như con dao hai lưỡi. Dùng nhiều tất nó sẽ quay lại phản chủ. Nếu chính quyền
dùng bạo lực để đàn áp vài người thì không tạo ra một tiếng xấu gì cả. Nhưng nếu
đàn áp một số lớn người thì tạo ra một khối lượng khổng lồ bất mãn với chính
quyền đó là con cái, vợ chồng, anh chị em hay bạn hữu của họ (ví dụ, bắt anh Hà
Vũ thì bây giờ vợ anh, em gái anh đã đứng lên đấu tranh. Bắt chị Minh Hằng thì
bây giờ con chị lại lao vào đấu tranh. Bắt anh Điếu Cày thì vợ con anh lại
xuống đường). Còn những người khác cũng đặt lại nghi vấn tại sao chính quyền
lại đàn áp một số lớn người như thế. Có khuất tất gì đây chăng? Câu hỏi này nếu
dấy lên một lần thì chưa thiệt hại gì nhưng nếu đàn áp nhiều thì tần số của câu
hỏi này được nêu ra trong dân chúng càng lớn. Lúc đó dân chúng sẽ tìm ra câu
trả lời của mình.
Mô hình Đổi Mới: Là mô hình biến chuyển khá tốt. Số người phản kháng
chưa đông nhưng tác động được đến thành phần trong chính quyền. Hoặc thành phần
chính quyền tự thân thấy được cần phải đổi mới và chính bản thân họ ảnh hưởng
lên nhà lãnh đạo. Nhà lãnh đạo cấp tiến sẽ phát động phong trào đổi mới và cho
dân chúng tự do hơn. Tác nhân chủ yếu của thay đổi là thành phần bên trong (bên
trong chính quyền độc tài). Một ví dụ rõ nhất cho mô hình này là Chính quyền
Liên Xô thời Gorbachốp.
Mô hình Thích Nghi: Là mô hình đặc trưng cho những chế độ độc tài của xã
hội lạc hậu, chậm tiến đi lên từ chế độ phong kiến. Với mô hình này, nhà độc
tài sẽ đàn áp ở một số nội dung, nhưng đồng thời nới ở một số nội dung khác.
Dần dần tùy vào số người đối lập mà chính quyền mở dần mức độ tự do. Thành phần
đối lập cũng nương theo sự nới này mà lớn dần đi theo đà tiến của toàn xã hội.
Như vậy ta dễ thấy tác nhân chính của mô hình này cả thành phần bên trong chính
quyền lẫn thành phần đối lập. Hai chế độ độc tài rõ nét của mô hình này là chế
độ Nam Hàn thời Pac Chung Hy và chế độ Chi Lê thời Pinochet.
Mô hình Cách Mạng: Là mô hình đặc trưng cho những chế độ độc tài vừa đi
lên từ xã hội lạc hậu, chậm tiến của chế độ phong kiến vừa mang sắc thái tôn
giáo hay tư tưởng gì đó có tác dụng mị dân rất mạnh. Nhà cầm quyền rất tàn bạo,
không chấp nhận bất cứ một tư tưởng đối kháng nào. Đàn áp tất cả trong chừng
mực và những phương tiện mình có thể. Hành động bất chấp văn minh, bất chấp đạo
đức.
Vì nước Việt Nam ta có đầy đủ yếu
tố của một mô hình Cách Mạng nên tôi phân tích sâu thêm mô hình này. Ta thấy mô
hình này có hai đường tiềm cận, một ngang và một dọc. Đường tiệm cận ngang dài
nhất (giai đoạn này số người gần đồng nhất theo thời gian): đây là thời kỳ đen
tối, chính quyền độc tài điên cuồng đàn áp những người bất đồng chính kiến. Một
thời gian dài tiếng nói phản kháng yếu ớt không thành hình. Thời này thì số
lượng người phản kháng tăng nhưng ngưỡng của sợ hãi không tăng nhiều. Đường
tiệm cận dọc là giai đoạn Cách mạng. Số lượng người vừa đủ để chiến thắng nỗi
sợ, độc tài cũng yếu dần đi mất sự ủng hộ lớn trong dân chúng. Ngưỡng của sợ
hãi tăng rất nhanh và đột biến so với số người.
Ngưỡng của sợ hãi theo số đông vơi Mô Hình Cách Mạng
Kẹp ở giữa hai thời kỳ này là thời
kỳ tranh chấp hay trạng thái tranh chấp. Giống như một người khi mạnh nhất có
thể bẻ 4 chiếc đũa, nhưng không thể nào bẻ nỗi 5 chiếc. Khi số lượng tích tụ
được tương đương với 5 chiếc đũa như ẩn dụ nói trên thì chính quyền độc tài hết
phương bẻ gãy. Nếu số lượng từ 1 đến 4 chiếc thì có thể bẻ gãy hoặc không (tùy
vào sức khỏe từng lúc). Vì vậy giai đoạn này là giai đoạn tranh chấp mãnh liệt
giữa lực lượng đối lập và chính quyền độc tài. Tác nhân chính cho mô hình
này chính là thành phần bên ngoài tức Nhân Dân bị áp bức. Ví dụ cho mô hình
Cách Mạng là cuộc cách mạng Mùa Xuân Ả Rập vừa rồi. Nếu không có một động thái
hay một biến động đột ngột nào thì chính ở giai đoạn này thường xảy ra những
triệu chứng lâm sàng của giãy chết và bất cứ một cú hích nhỏ nào cũng có khả
năng gây đến sụp đổ chế độ.
Theo tôi, Việt Nam đang ở thời kỳ
đầu của giai đoạn tranh chấp. Nếu biết tận dụng thời cơ, kết hợp với truyền
thông để tập hợp nhiều người trong lòng đã có ý chán ghét chính quyền thì chúng
ta có thể đẩy nhanh qua giai đoạn cách mạng và chúng ta sẽ chiến thắng.
Định đề 3: Ngưỡng của nỗi sợ càng
cao khi tập hợp những người hành động trong hoặc trên ngưỡng biết liên kết và
hỗ trợ nhau.
- Khi các nhà đối lập hỗ trợ lẫn
nhau thì trường thông tin được mở rộng ra. Nhờ trao đổi và thảo luận rộng rãi,
các nhà đối lập sẽ biết nhiều cách lách, nhiều cách lợi dụng kẻ hở của chính
quyền độc tài để đấu tranh. Nhờ có kinh nghiệm người đi trước mà nhà đối lập đã
trang bị sẵn nhiều kiến thức trong đó có kiến thức về pháp luật để tự tin hơn
trong lúc đối thoại với chính quyền độc tài.
- Các nhà đối lập hỗ trợ nhau thì
có những nỗi sợ hãi triệt tiêu được ngay. Ví dụ, sợ mẹ già không ai chăm sóc
nhưng lúc đó các bạn của họ bảo cứ yên tâm đi chúng mình thay nhau chăm sóc cụ
thì nỗi sợ này giảm đi rất nhiều…Có những nỗi sợ hãi về tâm lý như bị chính
quyền độc tài bôi nhọ, bạn bè xa lánh, thân thuộc khổ tâm đều có thể mất đi
hoặc giảm thiểu nếu có liên kết vì lúc đó những người khác sẽ giải thích tường
tận cho mọi người biết và tất cả mọi người sẽ nhìn vào hành động của nhà đối
lập một cách thân thiện, cảm thông thậm chí là khích lệ, ủng hộ hơn.
- Nếu biết liên kết và hỗ trợ nhau
thì những yêu sách để cứu người cũng làm cho nhà đối lập yên tâm hơn. Ngay gần
đây, chúng ta đã có hai vụ rõ ràng là vụ cứu hai bạn Hư Vô và Gió Lang Thang,
cũng như vụ đám đông đấu tranh áp lực để đòi chính quyền thả Lê Anh Hùng ra.
- Mức độ ảnh hưởng của liên kết
cũng tăng dần theo chiều rộng và chiều sâu của liên kết. Chiều rộng có nghĩa là
ta mở rộng liên kết ra, không phải chỉ trong nhóm chúng ta hay trong tập hợp
những nhóm ta yêu thích mà còn liên kết tất cả các nhóm lại với nhau. Nếu chỉ
liên kết từng nhóm một tuy có tăng nhưng không tăng mạnh như tất cả thành phần
đối lập với chính quyền độc tài đều liên kết và hỗ trợ nhau. Ví dụ như bài
trước tôi đã viết ba thành phần chủ chốt, hiện tại chúng ta đã có sự liên kết
khá bền giữa nhóm yêu nước chống giặc Tàu với nhóm dân oan. Nếu mọi người sẵn
sàng mở lòng ra với nhóm những ngươi đấu tranh cho dân chủ nữa thì mức độ ảnh
hưởng lên cao hơn nhiều. Chiều sâu có nghĩa là sự liên kết trở nên mật thiết
hơn đến độ các thành viên trong nhóm trở thành anh em, ruột thịt với nhau. Phải
nói nhóm biểu tình chống Trung Quốc xâm lược đã chứng tỏ được sự liên kết mật
thiết này. Như biểu đồ dưới chỉ rõ chúng ta có cơ hội làm dịch giai đoạn tranh
chấp vào trong và làm ngắn nó lại.
Ảnh hưởng của liên kết lên ngưỡng
của nỗi sợ
Định đề 4: Ngưỡng của nỗi sợ càng
cao khi dân trí hoặc khả năng truyền thông của dân chúng lên cao.
Dân trí ở đây là nói chung cho cả
quan lẫn dân. Trình độ của nhà đối lập lên cao thì họ biết sử dụng những phương
pháp nào hiệu quả nhất, họ sáng tạo nhiều phương pháp hơn, họ đấu tranh bài bản
hơn, biết kết hợp nhiều thành tố liên quan với nhau như kinh tế chính trị, pháp
luật và truyền thông. Trình độ của quan lên cao thì vì giữ bộ mặt của mình các
quan cũng cố tỏ ra dân chủ ở một số lĩnh vực, thậm chí với bản chất độc tài nên
họ nghĩ cứ để cho dân làm việc này việc nọ thì không bao giờ dân có thể qua mặt
họ được. Chính sự không tiên liệu và khinh thường khả năng của nhân dân đã dẫn
đến diệt vong bao chế độ độc tài. Trình độ những người thành phần thứ ba (coi
như không liên quan trong cuộc đấu tranh giữa độc tài và thành phần đối lập)
lên cao thì họ không bị mị dân nữa, sự bôi nhọ của chính quyền đối với nhà đối
lập ít tác dụng hơn. Cha mẹ, anh em, bạn hữu của nhà đối lập thay vì trước đây
xa lánh, khinh rẻ nhà độc lập thì bây giờ tự hào về họ. Nếu họ có mệnh hệ gì
thì chính những người này ít thì căm ghét chế độ hơn, nhiều thì xông xáo tiếp
bước trên con đường của nhà đối lập. Hoặc nhờ thế mà lúc chính quyền độc tài
cấm hoặc phong tỏa kinh tế nhà đối lập thì có những người thuộc thành phần thứ
ba sẵn sàng ra tay giúp đỡ.
Một trong những yếu tố quan trọng
ảnh hưởng đến ngưỡng của nỗi sợ là truyền thông. Trước đây, người ta bịt miệng,
trói tay chân bạn lại và mắng sa sả bạn là đồ phản quốc, gián điệp mà bạn không
có cách gì khác để đáp lại; thì bây giờ khả năng truyền thông đã lên cao nên
bạn có nhiều cách đưa những phản biện của bạn đến nhân dân. Thậm chí không cần
bạn làm điều đó mà những người cùng chí hướng của bạn sẽ làm điều đó.
Khả năng truyền thông cao cũng góp
phần đưa dân trí và nhận thức của nhân dân lên cao thì nhà cầm quyền khó lòng
mà mị dân đồng thời điều này ngăn ngừa không cho chính quyền độc tài đàn áp đối
lập một cách ngang ngược, thiếu sự tôn trọng nhân dân. Ví dụ vụ bắt em Nguyễn
Phương Uyên vừa rồi là cú tát mạnh vào bộ mặt vốn đã đen đúa của chế độ.
Định đề 5: Ngưỡng của nỗi sợ của
cá nhân hoặc tổ chức càng cao nếu địa vị của họ trong xã hội càng cao.
Điều này quá dễ hiểu. Khi địa vị
cao thì tầm ảnh hưởng rộng. Chính quyền cũng phải e ngại khi đàn áp vì thứ nhất
gây bất mãn đến một số lượng lớn dân chúng, thứ hai là không thể ém nhẹm. Đàn áp
một Phật tử Phật giáo Hòa Hảo thì không ai biết, xử quấy quá bậy bạ cũng không
ai hay. Nhưng đàn áp một trí thức như Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, Tiến sỹ Nguyễn
Quang A thì hàng triệu người biết và ém nhẹm là việc làm không tưởng. Bởi thế,
người ta rất dễ bắt anh nông dân chỉ chửi anh chủ tịch xã cướp đất của anh ta
nhưng lại khó có thể bắt nhà trí thức chỉ trích Thủ tướng làm việc kém gây thất
thoát nghiêm trọng đến tài sản quốc gia.
Định đề 6: Khi đất nước tham dự
vào càng nhiều các quy chế của thế giới thì ngưỡng của nỗi sợ càng cao.
Độc tài thường hay bất chấp đạo
đức, văn minh và lương tri. Họ thường hay nhổ toẹt vào những điều họ đã cam
kết, đã đặt bút ký. Tuy nhiên, với mục đích lòe thiên hạ, lòe các thành phần ấu
trĩ ngây thơ ở trong nước lẫn thế giới thì khi ký kết vào một quy chế thế giới
nào đó rồi, độc tài cũng đành chấp nhận một số mục nào đó của quy chế. Vì vậy,
ngưỡng của sợ hãi cũng tăng lên.
Ngoài ra, trên thực tế ngưỡng của
sợ hãi đã lên cao hơn nhiều nhưng do dân chúng không có thói quen hành xử một
cách bài bản nên bị lấp lú bởi một số sợ hãi ảo. Ví dụ, trên nguyên tắc những
người bị chà đạp nhân phẩm có thể kiện lên tòa quốc tế, tòa án nhân quyền
Strassburg... nhưng rất ít người dùng biện pháp này vì sợ nhiêu khê. Một thói
quen sợ hãi không đáng có. Ví dụ, chị Bùi Minh Hằng đã đủ điều kiện để kiện
chính quyền Việt Nam ra tòa thế giới vì chính quyền đã đưa chị vào trại phục
hồi nhân phẩm không lý do, anh Lê Anh Hùng cũng thế. Đặc biệt nhóm Công án Bia
Sơn nếu họ hoặc thân nhân họ cùng đứng đơn kiện chính quyền Việt Nam thì xác
suất thắng rất lớn vì có khía cạnh ăn cướp tài sản của chính quyền.
Một khi chính phủ đã tham dự vào
những quy chế của quốc tế thì dù là chính phủ sắt máu đến đâu (trừ những chính
phủ ốc đảo như Bắc Triều) cũng phải tôn trọng án tòa. Nếu không thì rất đơn
giản tòa ra lệnh phong tỏa tài sản, cấm các quan chức đi lại,…
Một chiến thắng của một nhà đối lập
trước chính quyền độc tài ở phiên tòa quốc tế một mặt ép chính quyền hành động
một cách trách nhiệm và văn minh hơn; lúc đó chính quyền sẽ chùn tay hơn trong
những quyết định đàn áp khác. Mặt khác, cổ vũ cho phong trào đối lập vì họ được
trang bị thêm một vũ khí hữu hiệu để bắt chính quyền hành xử đúng mực.
Qua phân tích các định đề và áp
dụng cho thực tiễn Việt Nam có thể thấy được Việt Nam đang nằm trong giai
đoạn cuối của chế độ độc tài và đang ở thế tranh chấp giữa Nhân dân yêu chuộng
tự do dân chủ với chính quyền Đảng trị độc tài. Đã xuất hiện một số triệu
chứng giãy chết: như kêu án quá nặng cho các nhà dân chủ, như bắt em Nguyễn
Phương Uyên, đàn áp những người yêu nước chống quân xâm lược Trung Quốc và gần
đây nhất là trò phát hành Phiếu lấy ý kiến đóng góp dự thảo Hiến Pháp... Ở
trên, tôi có viết “bất cứ một cú hích nhỏ nào cũng có khả năng gây đến sụp
đổ chế độ”. Chính vì không biết cú hích nào sẽ là cú hích chung cuộc nên
hợp lý nhất là các nhà đối lập phải tận dụng hết tất cả các cơ hội không nên
nản lòng, buông xuôi.
No comments:
Post a Comment