Mai Thái
Lĩnh
3/03/2013
Hạ
tuần tháng 1 năm 2013, trước Tết Nguyên đán, đã xảy ra một sự kiện gây chấn
động dư luận. Đó là việc 72 vị nhân sĩ, trí thức đã cùng nhau ký một bản kiến
nghị có tên là “Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp 1992” (đề ngày 19-1-2013)[1]. Điều đáng chú ý là trong danh
sách những người khởi xướng, có ít nhất một nửa là đảng viên cộng sản, trong đó
có những người đã từng giữ chức vụ cao hoặc đã từng làm cố vấn cho các nhà lãnh
đạo cao cấp trong hệ thống chính trị hiện hành. Lướt qua nội dung của kiến nghị
cũng như bản dự thảo Hiến pháp đính kèm (được coi như một tài liệu để tham khảo
và thảo luận), chúng ta dễ dàng nhận thấy những người ký kiến nghị đã bày tỏ
một quan điểm về hiến pháp chẳng những vượt ra khỏi khuôn khổ của hiến pháp
hiện hành (tức Hiến pháp 1992 – bản sửa đổi năm 2001) mà còn vượt xa bản hiến
pháp đầu tiên do Đảng Cộng sản soạn thảo dưới danh nghĩa của tổ chức Việt Minh
(tức Hiến pháp 1946).
Được
công bố trên trang mạng Bauxite Vietnam đầy uy tín, chỉ tính cho đến ngày
28-2-2013, tức là chưa đầy một tháng rưỡi kể từ ngày công bố, đã có hơn 6 ngàn
chữ ký được thu thập để ủng hộ bản kiến nghị này. Đây là một kết quả không thể
xem thường, nhất là trong hoàn cảnh của một chế độ toàn trị nổi tiếng là khắt
khe bậc nhất trên thế giới.
Không
thể giữ im lặng trước sự kiện này, vào hạ tuần tháng 2 năm 2013, trong một
chuyến thăm và làm việc tại tỉnh Vĩnh Phú, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phát
biểu như sau:
“…Vừa
rồi đã có các luồng ý kiến thì cũng có thể quy vào được là suy thoái tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống chứ gì nữa… Xem ai có tư tưởng là muốn bỏ Điều 4
Hiến pháp không, phủ nhận vai trò lãnh đạo của đảng không? Muốn đa nguyên đa
đảng không? Muốn “tam quyền phân lập” không? Hả? Muốn “phi chính trị hóa quân
đội” không? Người ta đang có những quan điểm đấy!… Đưa cả lên phương tiện thông
tin đại chúng đấy. Thì như thế là suy thoái chứ còn gì nữa! Chỉ ở đâu nữa nào?
… Tham gia đi khiếu kiện, biểu tình, ký đơn tập thể … thì nó là cái gì?! … Cho
nên các đồng chí quan tâm xử lý cái này”.
Qua
phát biểu của người đứng đầu đảng cầm quyền, chúng ta có thể thấy rõ sự khác biệt về quan điểm trong nội bộ
những người cộng sản, một khoảng cách chênh lệch rất xa giữa một bên là
quan điểm thủ cựu của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản – bộ máy quyền lực cao nhất
của Đảng, và phía bên kia là quan điểm của những đảng viên cộng sản có tư tưởng
cởi mở, tiến bộ – phản ánh phần nào ý chí, nguyện vọng của nhân dân.
Nhưng
một sự kiện khác xảy ra sau đó lại làm nổi bật mâu thuẫn trầm trọng hơn giữa ý
chí của Đảng và nguyện vọng của nhân dân: ngay sau khi kênh truyền
hình trung ương VTV1 phát đoạn video này trong chương trình thời sự 19h ngày
25-2-2013, nhà báo Nguyễn Đắc Kiên
làm việc tại báo Gia Đình & Xã Hội đã phản ứng bằng một bài viết
đăng trên blog của anh, qua đó anh công khai phản đối ý kiến của ông Tổng bí
thư và tuyên bố ủng hộ đa nguyên, đa đảng. Trong vòng chưa đầy 24 giờ, anh bị
tòa báo đuổi việc.
Điều
đáng chú ý là trong bài viết của mình, nhà báo Nguyễn Đắc Kiên đã đưa ra lời
tuyên bố gồm 5 điểm trong đó điểm đầu tiên thể hiện một lập trường hết sức dứt
khoát về vấn đề hiến pháp: “Tôi không chỉ muốn bỏ Điều 4 trong Hiến pháp hiện
hành, mà tôi muốn tổ chức một Hội nghị lập hiến, lập một Hiến pháp mới để Hiến
pháp đó thực sự thể hiện ý chí của toàn dân Việt Nam, không phải là ý chí của
đảng cộng sản như Hiến pháp hiện hành”[2].
Đây
không phải chỉ là ý kiến riêng của nhà báo trẻ Nguyễn Đắc Kiên mà còn là ý kiến
của rất nhiều người Việt yêu nước, yêu dân chủ. Chính vì thế, chỉ vài ngày sau
đó, vào ngày 28-3-2013, lời tuyên bố của công dân Nguyễn Đắc Kiên đã trở thành Lời tuyên bố của các công dân tự do
với 5 điểm có nội dung tương tự, chỉ khác nhau một điểm căn bản: thay cho
đại từ “tôi” là đại từ “chúng tôi”. Kết thúc bản tuyên bố là một lời mời gọi:
“Xin hãy chung tay để cho LỜI TUYÊN BỐ CÔNG DÂN TỰ DO này trở thành sợi dây bền
vững kết nối hàng triệu triệu trái tim Việt Nam”. Cùng với bản kiến nghị do 72
nhân sĩ, trí thức đề xướng, lời tuyên bố này – xuất phát từ sáng kiến của các
blogger trẻ, càng thể hiện rõ nguyện vọng thật sự của toàn thể nhân dân Việt
Nam trong vấn đề hiến pháp[3].
Bài
viết này được viết với mục đích cung cấp thêm những nền tảng lý luận và cơ sở
thực tế của vấn đề sử dụng quyền lập hiến, một mặt cốt để làm rõ vấn đề “sửa
đổi hiến pháp hay viết lại hiến pháp”, và đó cũng là cách góp phần tìm kiếm một
giải pháp, một lộ trình phù hợp với hoàn cảnh của đất nước ta trong giai đoạn
đặc biệt quan trọng hiện nay.
Phần
I: SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP HAY VIẾT LẠI HIẾN PHÁP?
Trước
tiên, để có thể hiểu rõ sự xung đột về quan điểm xung quanh vấn đề hiến pháp,
chúng ta cần tìm hiểu đôi chút về khái niệm “quyền lập hiến”. Mặc dù ngành luật
học ở nhiều quốc gia trên thế giới đều có bộ môn Luật hiến pháp (droit
constitutionel, constitutional law), nhưng không phải ở đâu giới luật học cũng
quan tâm đến vấn đề “quyền lập hiến”. Trong bài này, tôi sẽ dựa vào những
nghiên cứu luật học của nước Pháp, một quốc gia tuy là cái nôi của cuộc cách
mạng vĩ đại làm rung chuyển toàn bộ thế giới, nhưng lại là một trong những quốc
gia phải trải qua rất nhiều truân chuyên trên con đường ổn định hệ thống chính
trị dân chủ (tính từ cuối thế kỷ 18 đến nay, nước Pháp đã có tổng cộng 17 bản
Hiến pháp).
Hai
loại quyền lập hiến:
Emmanuel-Joseph
Sieyès (một lý thuyết gia của cuộc Cách mạng Pháp) là người đầu tiên nêu ra
khái niệm “quyền lập hiến”. Trong tác phẩm nổi tiếng Đẳng cấp thứ ba là gì?
(Qu’est-ce que le Tiers-État?) công bố năm 1789, ông viết: “Trong
mỗi bộ phận, Hiến pháp không phải là kết quả của quyền hiến định, mà là
kết quả của quyền lập hiến”.
Sự
khác biệt là ở chỗ: quyền lập hiến (pouvoir constituant) là “quyền làm
ra Hiến pháp”, trong khi quyền hiến định (pouvoir constitué) là “quyền
lực được tạo ra bởi Hiến pháp”. Như chúng ta đã biết, do ảnh hưởng chủ yếu của
Montesquieu, người ta thường chia quyền lực Nhà nước thành ba nhánh chính:
quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Ba quyền lực đó là quyền lực
hiến định, chúng được tổ chức và vận hành dựa theo Hiến pháp, trong khuôn khổ
của Hiến pháp. Quyền lập hiến là nguồn gốc của các quyền hiến định, đương nhiên
phải cao hơn các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Tuy
nhiên, quyền lập hiến không phải lúc nào cũng thể hiện giống nhau. Nếu quan sát
kỹ lịch sử của các quốc gia trên thế giới, chúng ta thấy có khi quyền lập hiến
được sử dụng để “làm ra một hiến pháp mới”, có khi chỉ được sử dụng để “sửa
đổi, bổ sung một hiến pháp đã có sẵn”.
Việc
phân biệt hai loại quyền lập hiến này là thành quả nghiên cứu của thế kỷ 20, và
người đầu tiên khám phá ra sự khác biệt này là Raymond Carré de Malberg (1861-1935)
– nhà luật học và hiến pháp học nổi tiếng đã khởi xướng trường phái thực nghiệm
trong luật học (positivisme juridique) tại Pháp. Trong tác phẩm Góp phần vào
lý thuyết tổng quát về Nhà nước (Contribution à la théorie générale de l’Etat) xuất
bản năm 1922, Carré de Malberg phân biệt giữa “quyền lập hiến trong việc
thiết lập hiến pháp đầu tiên của Nhà nước” và “quyền lập hiến trong một
Nhà nước đã hình thành”. Theo ông, vấn đề quyền lập hiến trong việc thiết
lập hiến pháp đầu tiên của Nhà nước không phải là vấn đề thuộc lĩnh vực pháp
lý: “việc hình thành đầu tiên của một Nhà nước, cũng như tổ chức đầu tiên của
nó, chỉ có thể được xem như một sự kiện thuần túy – không thể xếp vào bất kỳ
phạm trù pháp lý nào, vì sự kiện đó không bị chi phối bởi những nguyên tắc của
luật học”.
“Quyền
lập hiến trong việc thiết lập hiến pháp đầu tiên của Nhà nước” về sau được đặt
tên là quyền lập hiến nguyên thủy (pouvoir constituant originaire) và
“quyền lập hiến trong một Nhà nước đã hình thành” được gọi tên là quyền lập
hiến phái sinh (pouvoir constituant dérivé). Nói một cách dễ hiểu hơn,
quyền lập hiến nguyên thủy là quyền làm ra một bản hiến pháp mới, còn quyền lập
hiến phái sinh là quyền sửa đổi một bản hiến pháp đang có hiệu lực.
Nhiều
nhà luật học sau đó (như Georges Burdeau, Roger Bonnard, Guy Héraud, Georges
Vedel) đã góp phần làm rõ các đặc điểm của hai loại quyền lập hiến này:
Quyền
lập hiến nguyên thủy là một quyền lực không có giới hạn, bởi vì khi làm ra một
hiến pháp mới, nó không bị hạn chế bởi bất cứ bản hiến pháp nào có trước nó,
không bị lệ thuộc vào bất cứ quy định pháp lý nào có trước nó. Nó sinh ra từ
một khoảng trống pháp lý (vide juridique), do chỗ không có một hiến pháp hoặc
hiến pháp đã bị hủy bỏ. Còn quyền lập hiến phái sinh là một quyền lực bị hạn chế,
bởi lẽ nó là một quyền lực sinh ra từ quyền lập hiến nguyên thủy, có được thẩm
quyền pháp lý là nhờ vào trật tự pháp lý hiện hành – trước hết là dựa vào một
bản hiến pháp có trước. Những điều kiện để sửa đổi hiến pháp (ví dụ: ai được
quyền sửa đổi hiến pháp, sửa đổi hiến pháp phải dựa theo thủ tục nào, v.v.)
thường đã được quy định bởi chính bản hiến pháp sẵn có.
Các nhà luật học
người Pháp phân biệt hai loại khoảng trống pháp lý:
-
Loại thứ nhất được gọi là khoảng trống pháp lý đã hiện hữu (vide juridique
déjà existant) xuất hiện trong những hoàn cảnh nảy sinh một Nhà nước mới,
một quốc gia mới. Trong tình hình như thế, quyền lập hiến nguyên thủy lấp đầy
khoảng trống pháp lý bằng cách làm ra một hiến pháp mới, thiết lập một nhà nước
mới. Nhà nước mà nó thành lập là một Nhà nước hoàn toàn mới không tồn tại trước
đó; hiến pháp mà nó thiết lập cũng là hiến pháp đầu tiên của Nhà nước. Một
khoảng trống pháp lý như thế có thể xảy ra trong các hoàn cảnh như: chiến
tranh, giải trừ chủ nghĩa thực dân, chiến tranh giành độc lập, sự hợp nhất giữa
các quốc gia độc lập thành một liên bang, sự giải thể của một Nhà nước, v.v.
-
Loại khoảng trống pháp lý thứ hai được gọi là khoảng trống pháp lý được tạo
ra (vide juridique créé), xuất hiện trong hoàn cảnh thay đổi chế độ trong
một Nhà nước đã tồn tại. Trong trường hợp này, đã có sẵn một trật tự pháp lý
hiện hành. Quyền lập hiến nguyên thủy trước hết phải hủy bỏ một hiến pháp đã
tồn tại, tạo ra một khoảng trống pháp lý và sau đó, lấp đầy khoảng trống ấy
bằng cách làm ra một hiến pháp mới. Nói cách khác, quyền lập hiến nguyên thủy
trước hết làm động tác phá hủy, sau đó mới làm động tác tái xây dựng.
Hiểu theo nghĩa đó, người ta có thể nói quyền lập hiến nguyên thủy có hai mặt:
một có tính phủ định (hủy bỏ hiến pháp) và một có tính xây dựng (thiết lập hiến
pháp). Guy Héraud gọi phương diện phủ định của quyền lập hiến nguyên thủy là
quyền giải trừ hiến pháp (pouvoir déconstituant). Trong giả thuyết này, người
ta không tạo ra một Nhà nước mới mà chỉ làm mới lại nền tảng của Nhà nước hay
nói cách khác, thay đổi chế độ trong một Nhà nước đã tồn tại. Các nhà luật học
ghi nhận rằng một khoảng trống pháp lý như thế có thể xảy ra sau một cuộc cách
mạng, một cuộc đảo chính hay một cuộc chiến tranh đã lật đổ chế độ chính trị
hiện hành.
Điều
cần nhấn mạnh là trong khi quyền lập hiến phái sinh rút thẩm quyền pháp lý từ
quyền lập hiến nguyên thủy, từ trật tự pháp lý hiện hành, từ một bản hiến pháp
đã có hiệu lực, thì quyền lập hiến nguyên thủy không cần dựa vào bất cứ cái gì
khác ngoài bản thân nó. Mặt khác, trong khi quyền lập hiến phái sinh (tức là
quyền sửa đổi hiến pháp) là một đối tượng nghiên cứu của luật học thì quyền lập
hiến nguyên thủy (tức là quyền làm ra một bản hiến pháp hoàn toàn mới) lại là
một sự kiện nằm ngoài phạm vi của luật học.
Sửa
đổi hiến pháp hay viết lại hiến pháp mới?
Vận
dụng quan niệm về hai loại quyền lập hiến vào hoàn cảnh hiện nay của nước ta,
chúng ta thấy điều gì?
Trước
hết, cuộc “sửa đổi Hiến pháp 1992” mà Đảng Cộng sản Việt Nam đang tiến hành
hiện nay chỉ gói gọn trong phạm vi “sửa đổi Hiến pháp”, tức là phạm vi của
quyền lập hiến phái sinh.
Trong
“Thông báo Hội nghị lần thứ 5 BCHTW Đảng khoá XI” (tháng 5 năm 2012), Tổng bí
thư Nguyễn Phú Trọng đã nói rõ: “… sau 20 năm thi hành Hiến pháp năm 1992 (có bổ
sung, sửa đổi năm 2001), Đại hội XI của Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm
2011), có nhiều vấn đề mới được đặt ra, một số quy định của Hiến pháp năm 1992
đã bị thực tiễn vượt qua, không còn phù hợp. Việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp
năm 1992 là yêu cầu khách quan, cần thiết để thể chế hoá Cương lĩnh của Đảng và
là công việc đặc biệt quan trọng, nhạy cảm phải có quan điểm toàn diện, biện
chứng, lịch sử cụ thể và thực tiễn.
Ban
Chấp hành Trung ương đã thảo luận, phân tích toàn diện và nhấn mạnh việc nghiên
cứu sửa đổi Hiến pháp phải căn cứ vào Cương lĩnh, Nghị quyết Đại hội XI của
Đảng, tình hình của đất nước; trên cơ sở tổng kết thực tiễn 20 năm thi hành
Hiến pháp năm 1992 và kế thừa những quy định còn phù hợp của các bản Hiến pháp
(1946, 1959, 1980, 1992)”.
Ông
nhấn mạnh : “Chỉ sửa đổi những vấn đề đã rõ, được thực tế chứng minh là đúng,
đã đủ cơ sở và tạo được sự thống nhất cao”[4].
Điều đó cho thấy
việc sửa đổi Hiến pháp 1992 có một số đặc điểm như sau:
-
Vẫn dựa vào quan niệm truyền thống của tất cả các đảng cộng sản xưa nay (Hiến
pháp chỉ là cụ thể hóa, thể chế hóa Cương lĩnh của Đảng Cộng sản cầm quyền);
-
Vẫn dựa vào truyền thống lập hiến của Đảng Cộng sản Việt Nam từ trước đến nay
(các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và 1992);
-
Thủ tục sửa đổi vẫn căn cứ bản hiến pháp hiện hành (Hiến pháp 1992, phiên bản
sửa đổi năm 2001). Điều 147 của bản hiến pháp này ghi rõ: “Chỉ Quốc hội mới có
quyền sửa đổi Hiến pháp. Việc sửa đổi Hiến pháp phải được ít nhất là hai phần
ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành”[5].
Ngược lại, xét về
yêu cầu khách quan của sự phát triển của đất nước và nguyện vọng chung của nhân
dân thì việc sửa đổi Hiến pháp theo tinh thần như trên là hoàn toàn bất cập. Tất cả những ý kiến
trên các trang mạng phi-chính thống hiện nay đã cho thấy rõ điều đó. Và hàng
ngàn chữ ký ủng hộ Kiến nghị sửa đổi Hiến pháp 1992 của các nhân sĩ, trí
thức cũng như sự xuất hiện Lời tuyên bố của công dân ngày 28-2-2013 càng
cho thấy rõ điều đó.
Cách
đây hai năm, trong một bài phỏng vấn của đài VOA, tôi đã nêu nhận định: “Hiến
pháp phải được sửa đổi một cách căn bản chứ không thể chỉ sửa đổi một cách
lặt vặt hay chỉ dừng lại ở một số chi tiết nhỏ nhặt”[6]. Căn cứ vào diễn biến của quá
trình sửa đổi hiến pháp do Đảng Cộng sản tiến hành trong thời gian vừa qua, căn
cứ vào lý thuyết lập hiến của các luật gia nổi tiếng của nước Pháp vừa được
trình bày tóm lược trên đây, và nhất là căn cứ vào nguyện vọng của nhân dân thể
hiện qua các ý kiến cực kỳ phong phú được thể hiện trên mạng Internet, tôi nghĩ
rằng cần phải diễn đạt lại ý kiến nói trên một cách rõ ràng và phù hợp với khoa
học hơn:
“Đã đến
lúc cần phải viết lại một Hiến pháp mới thay vì sửa đổi Hiến pháp cũ”.
Có một số lý do
khiến cho nước ta cần phải viết một bản Hiến pháp mới:
-
Tất cả các bản hiến pháp do Đảng Cộng sản Việt Nam soạn thảo và ban hành từ
trước đến nay đều phạm phải những khuyết điểm nghiêm trọng. Ngay cả những nhân
vật cao cấp nhất như ông Nguyễn Văn An (nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ
tịch Quốc hội) cũng phải thừa nhận: các bản hiến pháp về sau như các Hiến pháp
1959, 1980 và 1992 đều kém hơn so với Hiến pháp 1946. Mà ngay cả bản hiến pháp
đầu tiên (Hiến pháp 1946) thì cũng đã phạm phải những khuyết điểm nghiêm trọng,
như tôi đã phân tích trong bài viết “Những
khuyết điểm nghiêm trọng của Hiến pháp 1946” công bố cách đây nửa năm[7].
-
Tất cả các bản hiến pháp nói trên đều không mở đường cho sự hình thành một chế
độ pháp trị hiện đại (rule of law)[8]. Bất cứ trong giai đoạn nào
(kể cả giai đoạn 1946-1954) cũng đều có những cá nhân hay tổ chức đứng trên
luật pháp, định đoạt luật pháp. Có thể lấy ngay bản Hiến pháp 1946 làm ví dụ.
Luật cải cách ruộng đất năm 1953 là do sự đề xuất của Chủ tịch Chính phủ Hồ Chí
Minh (chức vụ Chủ tịch Chính phủ thực chất là Chủ tịch Nước kiêm Thủ tướng),
bản dự thảo luật là do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng chịu trách nhiệm. Thế nhưng,
vào năm 1956, khi tiến hành kiểm điểm về những sai lầm trong công tác cải cách
ruộng đất, người ta chỉ thấy kiểm điểm về phía Đảng chứ không thấy kiểm điểm
nghiêm túc nào về phía Chính phủ. Vào ngày 30-10-1956, tại cuộc họp của Mặt
trận Tổ quốc Hà Nội, Luật sư Nguyễn Mạnh Tường đã đề nghị thành lập “một ủy ban
điều tra gồm các vị đại biểu Quốc hội, Mặt trận, Đảng Lao động với sự cộng tác
của các vị thẩm phán cao cấp, giàu kinh nghiệm để lập một hồ sơ theo phương
pháp pháp lý để nhận định, trên quá trình đi từ lãnh đạo qua chỉ đạo đến chỗ
thực hiện chính sách, trách nhiệm ở chỗ nào và do những ai phải chịu”[9]. Đề nghị hợp lý này đã hoàn
toàn bị bỏ qua. Việc kiểm điểm và thi hành kỷ luật cũng chỉ làm cho chiếu lệ,
không đúng với nguyên tắc của một Nhà nước tự nhận là “dân chủ cộng hòa”.
Kể
từ bản Hiến pháp 1959 trở về sau, tình trạng Đảng đứng trên pháp luật ngày càng
lộ liễu, thậm chí còn được hợp pháp hóa bằng điều 4 của các Hiến pháp 1980 và
1992, một điều khoản công khai bác bỏ nguyên tắc “thượng tôn pháp luật” (la
primauté du droit) – nguyên tắc căn bản của mọi chế độ pháp trị hiện đại.
-
Nhìn chung, tất cả các bản hiến pháp trong quá khứ đều bị vô hiệu hóa ở một mức
độ nào đó, vì Hiến pháp không phải là văn bản pháp lý cao nhất ở nước ta. Trong thực tế, bên trên Hiến pháp còn có một văn bản pháp lý cao hơn
nữa: đó là Cương lĩnh của Đảng. Mỗi lần Đảng thay đổi cương lĩnh
(tức là một chương trình hành động trong một thời gian dài), Đảng lại chỉ đạo
sửa đổi hiến pháp, nghĩa là viết lại hiến pháp để phục vụ cho một “giai đoạn
cách mạng mới”. Hiến pháp 1946 ra đời nhằm phục vụ
cho một giai đoạn trong đó Đảng Cộng sản khoác chiếc áo “dân tộc” để giành
quyền lãnh đạo cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Sau khi đã nắm quyền
trên một nửa nước, cảm thấy chiếc áo “dân tộc” không đủ ấm, Đảng đã tiến hành
thay thế hiến pháp cũ bằng một bản hiến pháp mới nhằm thiết lập chế độ tập
trung dân chủ trên toàn miền Bắc, khoác thêm chiếc áo “chủ nghĩa xã hội” để
công khai nhận viện trợ của Liên Xô, Trung Quốc nhằm tiếp tục cuộc chiến tranh
chiếm trọn quyền lực trong cả nước – dưới danh nghĩa “chống Mỹ, cứu nước”. Năm
1980, sau khi giành được chính quyền trong cả nước, Đảng công khai mặc chiếc áo
“chủ nghĩa xã hội” cho cả nước bằng bản Hiến pháp 1980 – trong đó có Điều 4 hợp
pháp hóa vai trò độc quyền lãnh đạo của Đảng. Khi tình trạng kinh tế ngày càng
suy thoái, hệ thống cộng sản sụp đổ trên phạm vi toàn thế giới, Đảng đành phải
quay trở lại với con đường phục hồi kinh tế thị trường, từng bước hội nhập vào
nền kinh tế toàn cầu để hòng cứu vãn “sự lãnh đạo của Đảng”; đó chính là lý do
ra đời của bản Hiến pháp 1992.
Điều đáng nói là
trong khi cởi mở về kinh tế để thu nhặt từng đồng đô-la, Đảng vẫn quyết tâm
siết chặt trong lĩnh vực chính trị cũng như trong lĩnh vực văn hóa – tư tưởng.
Đó chính là nguyên nhân sâu xa khiến cho nền giáo dục ngày càng suy đồi, luân
lý đạo đức xuống cấp trầm trọng, nạn tham nhũng có cơ hội phát triển tràn lan.
Có
thể nói những hạn chế của bản Hiến pháp 1992 cũng như của bản Dự thảo sửa đổi
do Quốc hội hiện hành soạn thảo đều bắt nguồn từ chỗ: Cương lĩnh của Đảng quyết định Hiến pháp
của quốc gia. Một khi cương lĩnh
của Đảng chưa thay đổi thì Hiến pháp cũng không bao giờ có thể thay đổi. Đó
chính là hậu quả của chế độ “đảng trị” – một chế độ mà Đảng đứng trên Nhà nước,
Cương lĩnh của Đảng đứng trên Hiến pháp, kỷ cương của Đảng đứng trên pháp luật.
Chính
vì thế, để có một bản hiến pháp đáp ứng được các yêu cầu khách quan của sự phát
triển của đất nước, vừa đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân vừa phù hợp với
các yêu cầu của thời đại, không thể dừng lại ở việc sửa đổi Hiến pháp mà phải
viết lại hoàn toàn một bản Hiến pháp mới. Và để viết một bản Hiến pháp mới,
không thể sử dụng quyền lập hiến phái sinh (tức quyền sửa đổi hiến pháp) mà
phải sử dụng quyền lập hiến nguyên thủy – tức là quyền viết một bản
hiến pháp mới, không lệ thuộc vào bất cứ bản hiến pháp nào có trước.
Như
trên đã nói, quyền lập hiến nguyên thủy chỉ được thực hiện trong hoàn cảnh có
sự thay đổi về tương quan lực lượng chính trị trong thực tế, ví như sau một
cuộc đảo chính (tức chuyển đổi quyền lực từ bên trên) hay một cuộc cách mạng
(tức là chuyển đổi quyền lực từ bên dưới). Nhưng ở nước ta, cho đến nay, vẫn
chưa xảy ra một cuộc cách mạng hay một cuộc đảo chính nào cả. Vậy làm thế nào
để có thể thực hiện quyền lập hiến nguyên thủy mà không diễn ra những xáo trộn
không cần thiết, những đổ vỡ không đáng có nhằm tạo điều kiện cho việc thực
hiện quyền lập hiến nguyên thủy, thiết lập một bản hiến pháp mới?
Để
trả lời câu hỏi đó, cần vạch ra một lộ trình phù hợp với tình hình hiện tại, một
lộ trình khả thi nhưng phải bảo đảm được quyền làm chủ của nhân dân, không dựa
trên cơ chế “xin-cho”, không khoán trắng tương lai đất nước cho bất kỳ một cá
nhân hay một lực lượng chính trị nào cả. Chúng
ta sẽ bàn đến lộ trình ấy trong phần sau của bài viết.
Đà
Lạt ngày 2 tháng 3 năm 2013
M.T.L.
Tác
giả gửi trực tiếp cho BVN
Ghi chú :
[1] “Kiến nghị về sửa đổi Hiến
pháp 1992”, Bauxite Vietnam, 28/02/2013: http://www.boxitvn.net/bai/44588
[2] Nguyễn Đắc Kiên, “Vài lời với
TBT ĐCS VN Nguyễn Phú Trọng”, Blog Anh Ba Sàm 26-2-2013: http://anhbasam.wordpress.com/2013/02/26/vai-loi-voi-tbt-dcs-vn-nguyen-phu-trong/
[3] Chỉ tính đến 9h40 ngày
02.03.2013, đã có 1.400 người ký vào Lời tuyên bố của các công dân tự do
(tháng 2 dương lịch chỉ có 28 ngày).
[4] “Thông báo Hội nghị lần thứ 5
BCHTW Đảng khoá XI”, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ, 15/05/2012:
[5] Cần lưu ý: người ký vào bản
Hiến pháp 1992 sửa đổi này chính là ông Nguyễn Văn An, vào năm 2001 là Ủy viên
Bộ chính trị, Chủ tịch Quốc hội.
[6] “Hiến pháp Việt Nam cần được
sửa đổi một cách căn bản” (Phỏng vấn ông Mai Thái Lĩnh về vấn đề sửa đổi hiến pháp
và trưng cầu dân ý), Duy Ái – VOA Thứ Ba, 1 tháng 3 năm 2011:
[7] Mai Thái Lĩnh, Những khuyết
điểm nghiêm trọng của Hiến pháp 1946, Pro&Contra 13-7-2012:
[8] Song song với quan niệm chế
độ pháp trị (rule of law) của các quốc gia theo hệ thống thông luật (common
law) như Anh và Hoa Kỳ, tại các quốc gia châu Âu theo hệ thống dân luật (civil
law), đã hình thành một quan niệm được gọi là Nhà nước pháp quyền (Rechtsstaat
trong tiếng Đức, État de droit trong tiếng Pháp). Ngày nay, hai quan
niệm này ngày càng gần gũi nhau, có thể gọi chung là chế độ pháp trị hiện
đại (rule of law) - để phân biệt với chế độ pháp trị thời thượng cổ và
trung cổ (rule by law).
[9] Trăm hoa đua nở trên đất
bắc, Mặt trận Bảo vệ Tự do Văn hóa, Saigon 1959, trang 311.
---------------------------------------
CÁC BÀI VIẾT của MAI THÁI LĨNH
Mai Thái Lĩnh 14/7/2012
Giá trị của Hiến
pháp năm 1946 so với các bản Hiến pháp tiến bộ
Phan Thành Đạt 16, 17, 18/9/2012
Kỳ 1: http://www.boxitvn.net/bai/41339; 16-9-2012
Kỳ 2: http://www.boxitvn.net/bai/41359; 17-9-2012
Kỳ 3: http://www.boxitvn.net/bai/41372 18-9-2012
Kỳ 1: http://www.boxitvn.net/bai/41339; 16-9-2012
Kỳ 2: http://www.boxitvn.net/bai/41359; 17-9-2012
Kỳ 3: http://www.boxitvn.net/bai/41372 18-9-2012
Mai Thái Lĩnh 6/10/2012
Phan Thành
Đạt, 11/10/2012
Mai
Thái Lĩnh 23/10/2012
Mai
Thái Lĩnh / Duy Ái -
VOA 28.02.2011
Mai
Thái Lĩnh 20/11/2012
Mai
Thái Lĩnh 25/06/2011
Mai
Thái Lĩnh 02/02/2010
Dân
chủ - Xã hội là gì? (phần 1) Mai
Thái Lĩnh 10.2.2007
Dân
chủ - Xã hội là gì? (phần 2) Mai
Thái Lĩnh 10.2.2007
Mai Thái Lĩnh, talawas,
24.2.2007
Tìm hiểu quan
niệm chính trị của Phan Châu Trinh
- Về con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội [Phấn 1] Mai
Thái Lĩnh 26/2/2007
Tìm hiểu quan
niệm chính trị của Phan Châu Trinh – Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội [Phần 2] Mai
Thái Lĩnh 26/2/2007
Tìm hiểu quan
niệm chính trị của Phan Châu Trinh
- Về nền tảng đạo đức Nho
Giáo [Phấn 1] Mai Thái Lĩnh 24/3/2007
Tìm hiểu quan
niệm chính trị của Phan Châu Trinh
- Về nền tảng đạo đức Nho
Giáo [Phần 2] Mai Thái Lĩnh
24/3/2007
Mai
Thái Lĩnh - 06/12/2010
Mai Thái Lĩnh - 07/12/2010
Mai Thái Lĩnh 19/8/2005
Mai Thái Lĩnh 19/8/2005
Sự
thật về Thác Bản Giốc (Phần II) Mai Thái Lĩnh 11/02/2012
Mai
Thái Lĩnh 14/01/2011
Hà Sĩ Phu . talawas
blog 2009
No comments:
Post a Comment