Được đăng ngày Thứ năm, 21 Tháng 3 2013 12:11
Từ một vài năm trở lại đây, cộng đồng người Việt hải
ngoại đã được dư luận thế giới phương Tây nhắc tới trở lại, nhưng với những lời
phê bình không lấy gì làm vinh quang: vai chính trong những vụ buôn người và
trồng cây cần sa lậu.
Nạn nhân của những vụ buôn lậu người
Hoạt động xuất khẩu lao động Việt Nam ra
nước ngoài đã có từ lâu nhưng chưa bao giờ danh dự của người lao động bị xúc
phạm nặng nề như hiện nay.
Trong thập niên 1980, dưới hình thức hợp
tác lao động xã hội chủ nghĩa (một hình thức trả nợ bằng sức lao động), gần
300.000 lao động Việt Nam đã được gởi sang các quốc gia cộng sản Đông Âu, tất
cả đều được đối xử tử tế và làm việc ngang hàng với người lao động bản xứ. Cùng
thời gian đó, hơn 25.000 lao động khác cũng được gởi sang các quốc gia Bắc Phi,
Phi Châu và Trung Đông làm việc và được đối xử như những chuyên gia.
Bắt đầu từ thập niên 1990, lợi dụng tình
trạng khó khăn trong nước, sức lao động của người dân bị chính quyền cộng sản
Việt Nam biến thành hàng hóa và bị buôn bán một cách tùy tiện. Nghị định về đưa
người đi lao động ra nước ngoài ban hành ngày 9/11/1991 cho phép cán bộ đảng và
nhà nước thành lập các công ty kinh doanh dịch vụ xuất khẩu lao động. Khoảng
160.000 lao động Việt Nam đã được đưa ra nước ngoài để đảm nhiệm những công
việc vặt vãnh mà người bản xứ từ chối không làm như nội trợ, làm phu trong các
công trường, làm việc ở nhà máy và trên tàu thuyền viễn dương. Do không có
trình độ kỹ thuật cao, lao động Việt Nam bị bạc đãi và bị đối xử như những nô
lệ trước sự dửng dưng của chính quyền cộng sản Việt Nam. Đó là chưa kể, để
thoát khỏi cảnh nghèo khó trong nước và được ra nước ngoài làm việc, mỗi ứng
viên lao động phải vay mượn tiền đút lót cho các cơ quan môi giới để hồ sơ được
chấp nhận và khi được ra nước ngoài mỗi người phải làm việc không công ít nhất
một năm để trả nợ. Cũng nên biết, chi phí môi giới và dịch vụ chiếm hơn một nửa
số tiền mà người lao động được hưởng trong suốt thời gian làm việc.
Từ năm 2000 đến nay, tổng số lao động Việt
Nam ra nước ngoài làm việc lên đến nửa triệu người và được phân phối trong 40
quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới. Trung bình mỗi năm có hơn 80.000
người ra nước ngoài làm việc và một con số ít hơn trở về nước sau khi hết hạn
hợp đồng. Phần lớn lao động Việt Nam được tuyển dụng để sản xuất những mặt hàng
không cần tay nghề cao như may mặc, giầy dép, bao bì và lắp ráp cơ giới cấp
thấp. Với thời gian, trình độ kỹ thuật của người lao động Việt Nam tăng dần và
mức được trả lương cũng tăng theo, đặc biệt là tại các quốc gia phát triển Đông
Á và Phương Tây. Chính sự gia tăng thu nhập này đã là nguyên nhân của những vụ
lừa đảo, buôn người ra nước ngoài mà nạn nhân là những người dân thật thà nghèo
khổ và phụ nữ ngây thơ, trong số này có cả người sắc tộc miền núi và nông dân
tại các miền quê nghèo.
Trong những năm từ 2006 đến 2012, theo
những nguồn tin báo chí trong nước, hàng ngàn người đã bị các công ty xuất khẩu
lao động lừa đảo với một tổng trị giá thiệt hại lên đến vài chục triệu USD.
Phần lớn nạn nhân là những lao động được tuyển sang Đài Loan, Hàn Quốc và Mã
Lai làm việc và bị bỏ rơi ngay khi vừa đặt chân đến xứ người. Trong số những
nạn nhân này, chỉ một số ít được gia đình giúp đỡ tìm đường về nước, đại đa số
còn lại được những lao động xuất khẩu khác cưu mang và sống chui trong các khu
ổ chuột vì không có giấy tờ hợp lệ ; tất cả sẵn sàng làm bất cứ nghề gì để
sống, kể các ngành nghề mất nhân phẩm như nô lệ tình dục và mãi dâm. Rất nhiều
người đã chết vì bệnh tật không có tiền chữa trị, vì bị đánh đập hay làm việc
đến kiệt sức.
Tại các quốc gia phương Tây, do quy chế
nhập cư có hạn định nhưng với đồng lương hấp dẫn, hàng trăm công ty môi giới đã
tổ chức những đường dây đưa người nhập cư bất hợp pháp, gọi tắt là buôn lậu
người. Mặc dù phải đóng những khoảng chi phí rất cao (từ 2 500 USD đến 15 000
USD), số người muốn nhập cư bất hợp pháp vào những xã hội phát triển phương Tây
không hề thuyên giảm. Cách dụ dỗ người của những công ty lừa đảo này khá giản dị:
dịch vụ rẻ, thủ tục nhanh gọn, công việc nhàn hạ, lương cao và có thể xuất
ngoại dưới mọi hình thức: từ du lịch, thăm người thân, tham quan kinh tế, du
học đến kết hôn giả… để sau đó trốn ở lại và sống bất hợp pháp.
Trong thực tế, lộ trình ra nước ngoài của
nạn nhân những đường dây buôn lậu người này rất là gian truân, vì là những di
dân bất hợp pháp, họ không thể đi trực tiếp từ Việt Nam đến "quốc gia nơi
làm việc" mà phải đi qua những quốc gia trung chuyển bằng đường bộ, đường
sắt, đường thủy hay đường hàng không. Tại nhiều nơi, nếu đi bằng đường bộ, họ
phải trốn cảnh sát biên phòng đi tuần dọc vùng biên giới, có khi phải bơi qua
sông hay chạy bộ qua biên giới ban đêm để chờ xe đến đón ; nếu đi bằng đường
thủy, họ phải sống trong những chòi bằng giấy bồi trong rừng nhiều ngày và chịu
đựng cảnh mưa gió và đói lạnh triền miên nhiều tháng trước khi may mắn trốn
được vào nơi chứa hàng trên xe tải hay một toa hàng trên xe lửa để qua biên
giới. Đó là chưa kể cảnh những phụ nữ Việt bị những tên du thủ du thực tứ xứ
hiếp dâm, hay những thanh niên bị những tên cướp cạn trấn lột mà không dám cầu
cứu vì sợ bị lộ và bị bắt trả về nước. Một số nạn nhân của nạn buôn lậu người
Việt cho biết họ được đưa từ Việt Nam tới Anh qua ngả Nga và Pháp, một số người
đi bằng đường hàng không và một số khác đi bằng đường bộ.
Nói chung, cảnh vượt biên của những nạn
nhân đường dây buôn lậu người này rất thê thảm, tất cả đều bị trấn lột tiền bạc
và của cải mang theo người, bị đói, bị khát, bị hiếp dâm, bị hành hạ thể xác và
tâm thần trước khi đến được "vùng đất hứa", mà đôi khi chỉ là địa
ngục trần gian. Tổng số chi phí mà một nạn nhân phải chi cho đường dây buôn lậu
người này có khi lên đến 90 000 USD nếu qua được nước Anh, và nếu tính thêm
những chi phí khác như tiền ăn ở và đút lót cảnh sát biên phòng tại những quốc
gia trung chuyển thì số tiền mà họ phải làm để trả nợ lên rất cao.
Trồng cây cần sa lậu
Theo báo cáo của Cơ quan chống các tội phạm
nghiêm trọng có tổ chức (SOCA-Serious Organised Crime Agency) của Anh năm 2011,
tuy số người Việt nhập cư lậu vào nước Anh chỉ chiếm 5% số nạn nhân của các
đường dây buôn lậu người từ 75 quốc gia, nhưng Việt Nam là quốc gia đứng đầu
trong số các quốc gia đưa lậu người vào nước để làm các công việc phi pháp. Báo
cáo này cho biết những nạn nhân nhập cư lậu này bị bóc lột dưới nhiều hình
thức, trong đó 31% (639 người) bị buộc phải bán dâm, 22% (461 người) làm việc
tay chân, 11% (222 người) làm gia nhân, 17% (353 người) làm các việc phi pháp
khác. Trong số những nạn nhân bị buộc làm những nghề phi pháp, 8% bị buộc phải
trông nom các cơ sở trồng cần sa, trong đó 90% là người Việt (25 người Việt bị
bắt năm 2011). Báo cáo của SOCA cho biết thêm, trong số 489 trẻ em nhập cư bất
hợp pháp vào nước Anh, 13% là trẻ em Việt Nam, đứng hạng thứ nhì sau Romania.
Sự hiện diện của số trẻ em nhập cư bất hợp
pháp này không phải vì lý do nhân đạo (trẻ mồ côi hay làm con nuôi), chúng được
những băng nhóm buôn ma túy từ Việt Nam đưa vào các quốc gia phát triển phương
Tây để chỉ làm một nhiệm vụ duy nhất là trồng và chăm sóc cây cần sa
(marijuana, cannabis). Lý do sử dụng trẻ em là vì chúng dễ bảo, dễ quản lý và
tiền công rẻ; nếu bị bắt giữ, các chính quyền sở tại không thể truy tố hình sự
vì là vị thành niên. Các chính quyền phương Tây cũng không thể trục xuất những
trẻ em này về lại Việt Nam vì chúng không khai cha mẹ và quê quán; phần lớn đã
được trả tự do ngay sau khi bị bắt và chúng tiếp tục về lại những ngôi nhà cũ
để… tiếp tục trồng và chăm sóc cây cần sa, còn gọi là "trồng cỏ" theo
ngôn ngữ dân gian Việt Nam.
Từ năm 2005 đến nay, cơ quan an ninh các
quốc gia phương Tây không ngừng phát hiện những vụ người Việt trồng cần sa
trong nhà. Trong những năm từ 2005 đến 2009, cảnh sát London đã phá vỡ hơn 2
000 vụ trồng cây cần sa trong nhà, trong đó 75% là những di dân Việt nhập cư
bất hợp pháp. Theo điều tra của nhà báo Michael L. Gray năm 2010 (Why do
Vietnamese grow so much dope ?), 75% lượng cần sa tiêu thụ tại Anh do những
nhóm người Việt nhập cư bất hợp pháp vào đất Anh sản xuất và họ làm việc cho
những băng nhóm buôn lậu ma túy đến từ miền Bắc. Lợi tức do trồng cây cần sa
trong nhà có thể mang mang lại 500 000 USD/năm. Chính vì thế, mặc dù vậy số vụ
trồng cần sa tại gia của người Việt tại Anh bị phá vỡ lên tới hàng ngàn vụ,
lượng cần sa được phân phối ra thị trường không ngừng tăng lên và chưa có triệu
chứng giảm. Cũng nên biết, năm 2004 chính quyền Anh giảm tội hình sự từ hạng B
xuống hạng C, nếu sản xuất với số lượng nhỏ thì sẽ không bị buộc tội hình sự,
do đó 60% lượng cần sa tiêu thụ tại Anh được sản xuất ngay trong nước. Cuối năm
2012 vừa qua, cảnh sát London đã phát hiện và bắt giữ một gia đình người Việt
trồng cần sa trong nhà với số lượng lớn, theo báo cáo của ban điều tra tổng trị
giá trang thiết bị công nghệ cao lên tới 100 000 USD để che giấu sự xoi mói của
hàng xóm (hóa giải mùi hương của nhựa cây cần sa và độ nóng do phân hóa học bốc
ra). Tại Ireland (Ái Nhĩ Lan), nhiều người Việt đã bị bắt trong các vụ án trồng
cây cần sa và đã bị trục xuất khỏi lãnh thổ.
Tại Pháp, trong những vụ lùng bắt những tổ
chức đưa người bất hợp pháp vào nước Anh thông qua các tỉnh miền Bắc (Nord, Pas
de Calais), cảnh sát Pháp đã phá được nhiều đường dây đưa người trái phép vào
đất Pháp và Anh, một số người nhập cư bất hợp pháp được tuyển dụng làm việc cho
các trại trồng cần sa miền đông, chung quanh vùng hạ lưu sông Rhin và thành phố
Strasbourg.
Tại Đức, từ năm 2010 trở lại đây nhiều vụ
trồng cây cần sa trên lãnh thổ Đông Đức cũ (các bang Sachsen-Anhalt, Sachse và
Brandenburg), nơi có đông người Việt miền Bắc cư ngụ, đã bị khám phá. Tháng
2-2011, nhiều người Việt thuộc diện lao động xuất khẩu đến từ miền Bắc tại làng
Atzendort đã bị bắt về tội trồng cần sa. Khả năng trồng cần sa tại làng này qui
mô hơn những nơi khác vì được canh tác ngay trong các trang trại hẻo lánh miền
quê thay vì trong những căn nhà giữa thành phố. Vấn đề là dân tộc Đức rất kỷ
luật, do đó rất cảnh giác trước những hành vi mờ ám của những người Việt sống
quanh họ. Hình ảnh cộng đồng người Việt tại Đức chính vì thế đã bị hoen ố bởi
những hành vi phạm pháp này, vì người Đức không thể phân biệt người Việt nguyên
là thuyền nhân tị nạn biết tôn trọng luật lệ với người Việt quen sống bừa bãi
vô pháp dưới chế độ xã hội chủ nghĩa.
Năm 2012, sau khi nhiều vườn cần sa của
người Việt tại thủ đô Budapest bị khám phá, cảnh sát Hungary cho biết công tác
trồng cần sa được chuyển về nông thôn với số lượng lớn chưa từng thấy. Đa số công nhân làm việc trong những trang
trại trồng cần sa là những lao động xuất khẩu Việt Nam đến từ miền Bắc,
giấy tờ tùy thân của họ đã bị những chủ nhân người Việt định cư trước đó cầm
giữ và phải làm việc như những nô lệ. Theo cơ quan điều tra, người trồng trọt
gốc Việt và chủ nhân các khu vườn gốc Hung kết cấu cùng nhau để chia chác nguồn
lợi. Trên lãnh thổ nước Slovakia cạnh đó, cộng đồng người Việt tại đây cũng
đang bị chính quyền địa phương chú ý trong việc sản xuất và vận chuyển cần sa
đi nơi khác.
Tại Cộng hòa Czech (Tiệp Khắc), cảnh sát
địa phương đã bắt giữ nhiều vụ trồng cần sa lớn nhất nước từ trước đến nay,
trong đó thủ phạm là người những Việt mới nhập cư được các băng nhóm buôn lậu
ma túy người Việt tuyển dụng. Cảnh sát Tiệp Khắc cho biết họ đã giải thoát một
số con tin bị giữ sổ thông hành để làm việc như những nô lệ trong những phòng
đóng kín.
Tại Ba Lan, Cục điều tra trung ương cho
biết 61 xưởng sản xuất cần sa tại thủ đô Warsaw bị phát hiện năm 2011 là của
người Việt và các băng đảng người Việt thống lĩnh việc sản xuất và phân phối
cần sa trên khắp nước. Sở dĩ có sự gia tăng trồng cây cần sa tại Đông Âu là vì
các chính quyền Tây Âu gia tăng kiểm soát và phá vỡ những ổ sản xuất cần sa của
người Việt tại Pháp, Hòa Lan, Đức và Anh.
Tại Canada, những băng đảng người Việt đến
từ miền Bắc đã làm chủ gần như hoàn toàn thị trường sản xuất và cung cấp cần sa
tại miền Tây, đặc biệt là tại Vancouver, bang British Columbia. Những di dân
miền Bắc đến từ các trại tị nạn Hongkong trong thập niên 1990 được các băng
đảng này tuyển dụng để trồng cây cần sa cung cấp cho thị trường Tây Bắc Mỹ. Với
những khoản tiền thu được nhờ buôn ma túy, những di dân miền Bắc đã rửa tiền
bẩn bằng cách chuyển về Việt Nam xây dựng những dinh thự nguy nga cho gia đình
và cho dòng họ, một cách để phô trương sự thành công tại nước ngoài. Sự thành
công trong dịch vụ bất chính này được xuất khẩu sang bờ biển phía đông Canada
và chỉ bị phát hiện vào tháng 8-2004 sau khi 13 người Việt bị bắt về tội trồng
cây cần sa tại các thành phố Moncton, Dieppe, Riverview và Peticodiac trong
bang New Brunswick. Gần đây dịch vụ này được chuyển sang các bang lân cận Nova
Scotia, Québec và Alberta, nơi có đông người Việt miền Bắc cư ngụ.
Tại Úc, trong năm 2012 nhiều vụ khám phá
trồng cần sa lớn nhất đã được phát hiện tại các bang Victoria và New South
Wales do người Việt canh tác, trong đó phần lớn là những người vừa mới nhập cư
có liên hệ với đường dây buôn ma túy tại Việt Nam.
Lời kết
Qua những vụ khám phá các cơ sở trồng cần
sa tại các quốc gia phương Tây, tổng số tiền do nghề này mang lại lên đến hàng
trăm triệu USD, hàng ngàn người Việt đã bị bắt giữ tại khắp nơi, trong đó đa số
là người Việt nhập cư qua những đường dây buôn lậu người trái phép. Tìm hiểu
sâu hơn, người ta cảm thấy có cái gì không bình thường trong những dịch vụ phi
pháp nhưng đem lại nhiều tiền này. Ai cũng biết tại Việt Nam sự kiểm soát người
ra vào nước rất là khắt khe, nhất là người Việt trong nước. Bằng cách nào những
đường dây buôn lậu người có thể đưa di dân Việt ra khỏi nước một cách an toàn
bằng đường hàng không để nhập cư vào những quốc gia phương Tây một cách bất hợp
pháp ? Bằng cách nào những nhóm buôn lậu vận chuyển hạt giống vào các quốc gia
phát triển phương Tây một cách an toàn mà không bị phát giác ? Bằng cách nào
những băng nhóm này chuyển tiền về nước để tẩy trắng một cách an toàn ? Chắc
chắn là phải có sự toa rập của chính quyền, các viên chức nhà nước đồng lõa với
những tổ chức buôn lậu để chia chác quyền lợi.
Nhiệm vụ đầu tiên của những người cầm quyền là bằng mọi
cách tạo ra công ăn việc làm để mang lại cơm no, áo ấm và hạnh phúc cho nhân
dân. Tại Việt Nam, nhân dân không có may mắn đó, họ là nguồn hàng hóa mang lại
lợi lộc cho các cấp chính quyền, do đó đang được khai thác triệt để bất kể mồ
hôi và nước mắt của những nạn nhân.
Cộng đồng người Việt hải ngoại chắc chắn là
rất phẫn nộ trước những hành vi phạm pháp của những đồng hương nhập cư bất hợp
pháp, họ đã làm hoen ố hình ảnh cộng đồng người Việt chăm chỉ, hội nhập thành
công vào các xã hội phương Tây. Nhưng suy cho cùng, những người nhập cư trái
phép này nếu không là nạn nhân thì cũng là những món hàng béo bở mà những người có quyền chức trong nước lợi
dụng sức lao động của họ để làm giàu. Không một người lao động xuất khẩu
nào hãnh diện họ là người Việt Nam, tại nước ngoài nhiệm vụ đầu tiên của họ là
cúi đầu làm việc để trả nợ và nếu có dư thì để nuôi gia đình, do đó không thể
đòi hỏi những nạn nhân giữ thể diện là người Việt Nam. Nhân phẩm của họ đã bị
chà đạp ngay trong nước, họ bị làm tiền từ khi làm thủ tục xin đi lao động nước
ngoài đến khi hết hạn hợp đồng trở về nước. Họ là những trái chanh, những con bò sửa phải bị vắt cho cạn kiệt bởi những
người tham lam không có nhân tính. Nếu
muốn tố cáo chính quyền cộng sản Việt Nam vi phạm nhân quyền thì cuộc sống của
những người lao động xuất khẩu là những bằng chứng.
Qua chính sách xuất khẩu lao động này, chính quyền cộng
sản Việt Nam và đồng lõa đã hiện nguyên hình là những ác quỷ dracula hút máu
nhân dân không biết thương tiếc.
Nguyễn Văn Huy
No comments:
Post a Comment