Tuesday,
March 5, 2013 at 4:43am
1. Hệ thống độc
đảng tại Việt Nam:
Hiện
nay, hệ thống chính trị Việt Nam [do Đảng cộng sản chi phối] chỉ ghi nhận và
công nhận sự hoạt động và tham gia vào các hoạt động chính trị của Đảng Cộng
sản và các tổ chức do Đảng CS lập ra ; phủ nhận / không công nhận bất cứ đảng
phái, hệ thống tư tưởng nào khác ngoài ĐCS và ý thức hệ cộng sản
=>
ĐCSVN [đã cướp quyền lực và] xây dựng tại Việt Nam 1 chế độ độc đảng – chính
xác hơn là 1 chế độ chuyên chính cộng sản, mang tính chất phản dân chủ, không
tôn trọng các giá trị tự do, nhân quyền, dân chủ căn bản được ghi nhận trong
các công ước quốc tế mà chính quyền Việt Nam cũng có ký kết
=>
quyền lực tuyệt đối dẫn đến tha hóa quyền lực tuyệt đối, hình thành nên sự lạm
quyền, tiếm quyền, thủ tiêu hầu hết mọi quyền lực căn bản của người dân trong
nền chính trị.
-
Việc chỉ công nhận sự hoạt động của 1 Đảng [Đảng CSVN chỉ công nhận bản thân
mình và phủ nhận hoàn toàn các đảng khác] đã dẫm đạp lên quyền tự do lập hội
của công dân ;
-
Việc áp dụng cơ chế kiểm duyệt, “định hướng” thông tin trong báo chí, truyền
hình, xuất bản, … đã xâm phạm quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do báo
chí, … và hiện đại hơn là tự do thông tin trong môi trường truyền thông đa
phương tiện ;
-
Việc xây dựng các đạo luật, văn bản dưới luật điều chỉnh các sinh hoạt trong xã
hội không nhắm tới mục đích công nhận, mở rộng và bảo trợ các quyền dân chủ căn
bản trong thực mà chỉ nhằm mục đích hạn chế, bóp nghẹt các quyền dân chủ, tự do
căn bản của công dân. Ví dụ như chế định về hộ khẩu xâm phạm đến quyền tự do cư
trú, nghị định 36 CP về “tụ tập đông người” được dùng để xâm phạm quyền tự do
biểu tình, quyền tự do hội họp, luật báo chí quy định không công nhận báo chí
tư nhân xâm phạm đến tự do báo chí,…
Những
việc làm trên chỉ là 1 phần những gì đang hiện hữu trong xã hội và nền chính
trị Việt Nam do ĐCSVN gây ra.
2. Cơ chế tam quyền
phân lập:
Cơ
chế tam quyền phân lập được thiết lập nhằm kiềm chế, kiểm soát nhằm mục đích
cân bằng quyền lực, tiêu diệt lạm quyền, tiếm quyền trong hệ thống chính trị
nói chung và cơ cấu tổ chức nhà nước nói riêng. Đảng phái, các tổ chức chính
trị là 1 bộ phận quan trọng của hệ thống chính trị, do vậy, việc xây dựng cơ
chế tam quyền phân lập cũng nhằm bảo vệ các đảng / tổ chức chính trị nhỏ trước
các Đảng / tổ chức chính trị lớn đang “nắm quyền lực” của quốc gia.
1 nhà nước có 3
nhánh cơ quan quyền lực căn bản và chủ chốt:
-
Quyền lập pháp được giao cho quốc hội. Quốc hội thường có 2 dạng: đơn viện [1
viện] hoặc lưỡng viện [2 viện] gồm thượng viện và hạ viện.
-
Quyền hành pháp được giao cho tổng thống hoặc thủ tướng xây dựng nội các chính
phủ điều hành.
-
Quyền tư pháp được giao cho Tòa án tối cao và hệ thống hai cấp cơ bản – sơ thẩm
và phúc thẩm, tòa án cấp trên là tòa phúc thẩm cho các bản án / quyết định của
tòa cấp dưới.
Nguyên tắc chung của
cơ chế tam quyền phân lập được áp dụng tại hầu hết các quốc gia dân chủ, văn
minh hiện nay như sau:
- Việc lập hiến [quy định cơ chế
tam quyền phân lập] do quốc hội lập hiến [khác hoàn toàn với quốc hội lập pháp]
soạn dự thảo, đi đến thống nhất rồi tổ chức phúc quyết/ trưng cầu ý dân về dự
thảo hiến pháp. Nếu người dân phúc quyết thông qua thì hiến pháp đó mới bắt đầu
có hiệu lực thi hành, còn ngược lại, quốc hội lập hiến sẽ phải sửa đổi dự thảo
theo ý nguyện nhân dân và tổ chức phúc quyết lại. Quốc hội lập hiến được thành
lập theo 2 cách cơ bản: 1 là do nhân dân bầu trực tiếp theo lối phổ thông đầu
phiếu chọn ra những người được lòng tin của nhân dân ; 2 là do 1 ủy ban soạn dự
thảo HP tuyển lựa những nhân sỹ, trí thức, luật gia có uy tín.
Việc
xây Hiến pháp dân chủ, quy định cơ chế tam quyền phân lập là bước đầu tạo dựng
nên cơ chế này. Cơ chế này được áp dụng từ việc hình thành, trao quyền cho đến
hoạt động của các nhánh / cơ quan quyền lực.
- Việc hình thành
các cơ quan quyền lực
/ nhánh quyền dựa trên các cách thức khác nhau và có những yêu cầu riêng, góp
phần tạo nên sự khác biệt trong việc tuyển lựa người chịu trách nhiệm của các
nhánh quyền lực.
+
Việc hình thành cơ quan lập pháp thông qua tổng tuyển cử theo lối bầu cử phổ
thông đầu phiếu. Trong hệ thống lưỡng viện thì quy tắc bầu cử thành viên của 2
viện cũng có sự khác nhau rõ rệt. Đảng phái hoặc liên minh nào chiếm đa số tại
nghị viện thì thủ lĩnh phe đó tại nghị viện sẽ là người đứng đầu [chủ tịch]
Nghị viện, các đảng phái, liên minh khác sẽ là các đảng phái đối lập. VD: tại
CHLB Đức, liên minh của CDU/CSU và FDP [liên minh Trung Hữu] đang chiếm đa số
tại Hạ viện Đức [Bundestag], các đảng phái khác như Đảng SPD, Đảng Xanh, Đảng
cánh tả [Die Linke] là các đảng thuộc phe đối lập lại với liên minh Trung Hữu
tại Hạ viện Đức.
+
Việc hình thành cơ quan hành pháp được thực hiện thông qua các cách sau:
Đối
với các nước có tổng thống làm nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu ngạch hành
pháp: thông qua bầu cử tổng thống. Ở nhiều nước, nếu số lượng ứng cử viên tổng
thống lớn thì sẽ chia cuộc bầu cử thành nhiều vòng, còn nếu ít ứng cử viên thì
chỉ tổ chức 1-2 vòng. Tổng thống đắc cử sẽ tự đề cử thủ tướng, xây dựng nội các
chính phủ để Quốc hội thông qua trong thời gian luật định. VD: Hợp chủng quốc
Hoa Kỳ, Đại Hàn Dân quốc, …
Đối
với các nước quân chủ lập hiến hoặc tổng thống làm nguyên thủ quốc gia nhưng
thủ tướng đứng đầu ngạch hành pháp: Sau cuộc tổng tuyển cử bầu cử Quốc hội / Hạ
nghị viện [đối với hệ thống lưỡng viện], Quốc hội / Hạ nghị viện mới sẽ bầu
chọn ứng viên mà các đảng phái chính trị chọn lựa làm thủ tướng, thủ tướng sẽ
xây dựng nội các để Quốc hội / Hạ nghị viện thông qua [thường thì người đứng
đầu đảng chiến thắng trong cuộc tổng tuyển cử sẽ được Quốc hội chọn làm thủ tướng].
VD: CHLB Đức, Vương quốc Anh, …
+
Việc hình thành cơ quan tư pháp được thực hiện kết hợp: 1 phần của Tòa án tối
cao do Quốc Hội tuyển chọn, 1 phần khác cho Tổng thống bổ nhiệm từ các thẩm
phán có kinh nghiệm theo danh sách do tổ chức của các thẩm phán, công tố viên
và hội luật gia tiến cử.
- Phân chia biệt lập
trong 3 nhánh quyền lực – người của nhánh quyền lực này không thể nằm trong
nhánh quyền lực khác => tạo ra tam quyền phân lập một cách tuyệt đối:
+
Thành viên nội các chính phủ thì không thể là người trong các cơ quan có chức
năng giám sát cơ quan hành pháp, tức có nghĩa các thành viên nội các chính phủ
không thể là nghị sỹ quốc hội / hạ nghị sỹ.
+
Hệ thống tư pháp thì phi chính trị, có nghĩa là những người làm việc trong hệ
thống tư pháp không được hoạt động chính trị, không được tham gia các đảng
phái, tổ chức chính trị, không được ủng hộ bất cứ đảng phái chính trị hay phong
trào chính trị nào.
- Việc kiềm chế,
giám sát lẫn nhau giữa các nhánh quyền lực và giữa các đảng phái chính trị được
thực hiện chặt chẽ, liên tục góp phần thủ tiêu sự lạm quyền, tiếm quyền, nâng
cao trách nhiệm của các nhánh quyền lực đối với phận sự của mình, góp phần tạo
ra tính minh bạch, công khai của nền chính trị, … Ví dụ:
+
Tại Hoa Kỳ, để 1 đạo luật được hình thành phải trải qua 1 quá trình bàn thảo kỹ
lưỡng, đấu tranh gay gắt. Dự thảo luật do các thành viên nghị viện hoặc do tổng
thống đệ trình lên quốc hội => các nghị sỹ thuộc đảng phái trong quốc hội
thảo luận, chỉnh sửa, vận động hành lang, … => Hạ viện bỏ phiếu thông qua
hoặc không thông qua, nếu Hạ viện thông qua thì dự luật lại được bỏ phiếu tại
Thượng viện. Nếu Thượng viện thông qua thì dự luật sẽ được trình cho Tổng thống
ký ban hành thành luật, nếu Thượng viện không thông qua, thì Thượng viện và Hạ
viện sẽ cùng nhau bàn thảo lại để đi đến thống nhất. Nếu tổng thống không đồng
ý với dự luật, Tổng thống và Quốc hội lại cùng bàn thảo lại để thống nhất. Điển
hình hàng năm ta thấy nước Mỹ thông qua Dự luật Ngân sách hàng năm rất khó
khăn.
+
Tại Vương quốc Anh, Hạ viện Anh thứ tư hàng tuần có các phiên chất vấn Thủ
tướng [Prime Minister’s Questions] rất quyết liệt giữa 1 bên là thủ tướng đương
nhiệm với các nghị sỹ về các vấn đề hiện tại của chính phủ nói riêng và của đất
nước nói chung. Các cuộc chất vấn này được truyền công khai trên các phương
tiện truyền thông Anh quốc và toàn cầu. [Có thể lên Youtube để xem thêm các
clip với từ khóa Prime Minister’s Questions do chính UK Parliament đăng tải
hàng tuần].
3. Cơ chế Tam quyền
phân lập không thể tồn tại song hành trong hệ thống độc đảng tại Việt Nam:
Hệ thống chính trị
độc đảng tại Việt Nam biểu hiện rất rõ trong cơ cấu bộ máy nhà nước:
+ Quốc hội – cơ quan lập pháp:
hơn 90% thành viên quốc hội là đảng viên Đảng Cộng sản
+ Chính phủ - cơ quan hành
pháp: 100% thành viên chính phủ là đảng viên Đảng Cộng sản, Ủy viên bộ chính
trị hoặc trong ban chấp hành TW của ĐCSVN
+ Tòa án tối cao –
cơ quan tư pháp:
100% thành viên hội đồng thẩm phán TAND tối cao và Chánh án TAND tối cao là
đảng viên ĐCSVN, điều đó có nghĩa là thành viên của hệ thống tư pháp cũng tham
gia chính trị.
Mặt
khác, đa số thành viên chính phủ từ người đứng đầu chính phủ đều là thành viên
của Quốc hội - cơ quan có chức năng giám sát hoạt động của Chính phủ và Chánh
án tòa án tối cao cũng có tên trong Quốc hội.
Với toàn bộ các
nhánh quyền lực đều do ĐCSVN nắm như vậy thì hoàn toàn không có việc kiềm chế,
kiểm soát, giám sát chặt chẽ giữa các nhánh quyền lực. Bởi hầu hết các
thành viên của các nhánh quyền lực đều là đảng viên cộng sản, mà đã là đảng
viên thì họ phải tuân theo đường lối, chủ trương, nghị quyết của ĐCSVN => 3
nhánh quyền lực cùng thực hiện 1 đường lối, chính sách, 1 nghị quyết chung như
vậy thì mọi cơ chế kiềm chế, kiểm soát, giám sát đều vô tác dụng.
Mô
hình chung, Hệ thống chính trị tại Việt Nam hiện nay đang rơi vào thế “lưỡng
đầu chế” giống như thời Lê – Trịnh thế kỷ 17-18. Theo đó, hệ thống cơ quan nhà
nước giống như “Cung vua Lê” và hệ thống cơ quan của Đảng được ví là “Phủ chúa
Trịnh” ; trong mỗi cơ quan nhà nước đều có “Đảng bộ”, “đảng ủy” của ĐCSVN nẵm
vai trò lãnh đạo, đưa đường chỉ lối.
Hơn
nữa, ta cần phải hiểu rằng cơ chế Tam quyền phân lập không chỉ có tác dụng kiềm
chế, kiểm soát và giám sát giữa các nhánh quyền lực mà còn nhằm kiềm chế, kiểm
soát và giám sát các đảng phái nắm quyền lực trong các nhánh quyền lực nhà
nước. Nhưng trong hệ thống có 1 đảng thì hoàn toàn không có chuyện kiềm chế,
kiểm soát và giám sát quyền lực của ĐCSVN, dẫn đến ĐCSVN tự tung, tự tác, vừa
đá bóng vừa thổi còi bao nhiêu năm nay.
4. Điều cần thiết
để xây dựng cơ chế tam quyền phân lập:
Do
vậy, để xây dựng cơ chế tam quyền phân lập trong tổ chức bộ máy nhà nước [được
ghi nhận trong hiến pháp] thì điều kiện đầu tiên là áp dụng hệ thống chính trị đa nguyên, đa đảng.
Các
“dư luận viên” và những người ủng hộ đường lối độc đảng của ĐCSVN luôn nói rằng
nếu áp dụng đa nguyên, đa đảng thì đất nước sẽ có nội loạn, sẽ có bất ổn, rối
ren,… làm nguy hại đến sự ổn định, phát triển của đất nước rồi lấy ví dụ của
Thái Lan ra để hù dọa nhân dân. Điều này hoàn toàn thiếu cơ sở lập luận và thực
tiễn. Bởi trong 1 hệ thống dân chủ, nhà nước pháp quyền, có xã hội dân sự phát
triển thì mọi hoạt động chính trị nói chung, hoạt động của các đảng phái nói
riêng được điều chỉnh bằng luật pháp và hệ thống đảm bảo thực thi luật pháp 1
cách nghiêm minh thì sẽ không thể có chuyện gây bất ổn, rối ren hay nội loạn
được. Thay vào đó chúng ta sẽ thấy một không khí dân chủ ngày càng cao, mọi
quyền lợi chính đáng của những nhóm lợi ích khác nhau trong xã hội được bảo
đảm. Nếu những người phản bác đa nguyên, đa đảng lấy Thái Lan ra làm ví dụ thì
ngược lại, chúng ta sẽ lấy nước Đức, nước Pháp, nước Anh,… là những nước đa
nguyên, đa đảng có hệ thống pháp luật tốt, các đảng phái hoạt động trong khuôn
khổ pháp luật, chứ không phải “ngồi lên pháp luật” như ĐCS tại Việt Nam làm ví
dụ.
Mặt
khác, việc rối ren, nội loạn của 1 nước không phải do cơ chế tam quyền phân lập
hay đa nguyên, đa đảng gây ra, mà nguyên nhân sâu xa của nó là nhu cầu bảo vệ
quyền lực độc tôn của kẻ thống trị. Thực vậy, hầu hết các chế độ độc tài, độc
đảng luôn chính trị hóa quân đội, cảnh sát và dùng chính lực lượng này bảo vệ
quyền lực cho mình, đàn áp sự đối kháng của các nhóm lợi ích khác trong xã hội,
dần dần mọi mâu thuẫn, bức xúc được đẩy lên cao sẽ dẫn đến việc những tầng lớp
bị đàn áp nổi lên đòi lại quyền làm người của mình, giới cầm quyền lại đưa quân
đội và cảnh sát vào đàn áp => nội chiến, đổ máu, rối ren, … Ví dụ: vụ thảm
sát sinh viên biểu tình ôn hòa tại Quảng trường Thiên An Môn tháng 6/1989, như
tình hình tại Syria hiện nay và trước đó là tình hình Ai Cập, Lybia, Tunisia,…
trong mùa xuân Arab. Do vậy, một điều kiện khác của việc áp dụng chế độ tam
quyền phân lập là phải “trung lập hóa”,
“phi chính trị hóa” lực lượng quân đội và cảnh sát.
No comments:
Post a Comment