Wednesday, 20 March 2013

HIẾN PHÁP VIỆT NAM PHẢI LÀ KHẾ ƯỚC XÃ HỘI (Trần Đức Tuấn, New Zealand)




Trần Đức Tuấn
Gửi đến BBC từ Wellington, New Zealand
Cập nhật: 10:00 GMT - thứ tư, 20 tháng 3, 2013

Theo cách hiểu thông thường nhất, Hiến pháp thành văn là một văn bản có hai đặc điểm: là luật cơ bản của quốc gia (văn bản để thiết lập các cơ quan công quyền và trao những quyền lực cần thiết cho các cơ quan này); và có vị trí cao nhất trong hệ thống các văn bản pháp luật của quốc gia.

Chính vì vậy, các quốc gia thường có thiết chế bảo vệ Hiến pháp với việc áp dụng và giải thích Hiến pháp trong các tranh chấp. Ví dụ như, bảo Hiến được trao cho Tòa án Tối cao (Mỹ), Tòa án Hiến pháp Liên bang (Đức).

Theo cách hiểu này, một số quốc gia không có Hiến pháp thành văn, như Anh, Bắc Ireland, New Zealand bởi ở các quốc gia này không có văn bản nào thỏa mãn hai đặc điểm trên.

Tuy nhiên, ngày nay Hiến pháp được hiểu theo một nghĩa rộng hơn.
Khi nhắc đến Hiến pháp, người ta thường liên hệ tới hệ thống tổng thể các cơ quan nhà nước của một quốc gia, là tổng hợp các nguyên tắc, quy định để thiết lập và chi phối chính quyền.

Theo nghĩa này, Anh vẫn có Hiến pháp nhờ có một hệ thống chính quyền xuyên suốt và phức hợp. Hệ thống chính quyền nước Anh được xem là một trong số các hệ thống chính trị thành công nhất, được áp dụng tại nhiều quốc gia như Úc, New Zealand, Singapore, Malaysia, Hong Kong…

Đối với các quốc gia có Hiến pháp không thành văn, các nguyên tắc, quy định về Hiến pháp được tìm thấy trong các nguồn khác nhau.
Chẳng hạn như, ở Anh, nguồn của Hiến pháp bao gồm: Các đạo luật của Nghị viện, các quyết định của Tòa án, hay các tập quán, thủ tục thiết lập các cơ quan công quyền, và thậm chí là các nguyên tắc được ban hành bởi Thủ tướng để điều chỉnh cách quản lý của các bộ trưởng.

Khế ước
Tom Paine cho rằng Hiến pháp có trước chính quyền, và chính quyền chỉ là một thực thể của Hiến pháp.
Hiến pháp không phải là văn bản do chính quyền tạo ra mà là của người dân để xây dựng chính quyền, và chính quyền không được thiết lập bởi Hiến pháp là một chính quyền không chính nghĩa.

Do vậy, Hiến pháp không phải là khế ước giữa người dân với chính quyền, mà là khế ước xã hội giữa người dân với nhau để thành lập nhà nước bởi Hiến pháp có trước chính quyền. Chính vì thế, chủ thể lập Hiến phải là nhân dân.
Còn bầu cử mới là khế ước giữa người dân với chính quyền (nhà cầm quyền).

Hiệu lực của Hiến pháp thường phụ thuộc vào mức độ tôn trọng nó từ nhà cầm quyền. Chính vì thế, các bản Hiến pháp thường phải bộc lộ được các quy định về bầu cử dân chủ. Đó là các cuộc bầu cử mà nhà cầm quyền chỉ có được quyền lực thông qua sự ủng hộ bằng lá phiếu của cử tri.

Ngoài ra, để đảm bảo giá trị “thực” của Hiến pháp thì phải có một thiết chế độc lập để thay mặt nhân dân (chủ thể lập Hiến) giám sát sự tuân thủ Hiến pháp của các cơ quan công quyền, cũng như các thành viên trong xã hội.
Bởi vì, nhân dân không thể quy tụ đầy đủ một cách thường xuyên để đưa ra các quyết định như vi Hiến… Hoạt động của thiết chế bảo Hiến độc lập này là một trong số các căn cứ quan trọng mà người dân dựa vào để đánh giá việc phụng sự “tinh thần” củaHiến pháp từ phía nhà cầm quyền, và người dân sẽ phán xét thông qua các cuộc bầu cử.


Giá trị của Hiến pháp
Có lẽ, hình thức Hiến pháp thành văn hay không thành văn không quyết định nên giá trị của Hiến pháp trên thực tế.
Nếu một bản Hiến pháp thành văn (đạo luật cơ bản, có vị trí cao nhất của quốc gia) mà những chủ thể có liên quan không tôn trọng nó thì Hiến pháp cũng chỉ là “đẹp trên giấy” mà thôi.
Nhà cầm quyền có thể “trừng phạt” những người dân vi phạm pháp luật, rộng hơn là vi Hiến, thông qua hệ thống các cơ quan công quyền như cảnh sát, nhà tù… nhưng người dân chỉ có thể “tước quyền” của nhà cầm quyền trong các cuộc bầu cử.

Nếu người dân không được thực sự quyết định quyền chọn nhà cầm quyền của họ dựa vào phiếu bầu, quyền lực mãi vẫn không phải là của nhân dân. Và Hiến pháp không phải là chỗ dựa để nhân dân phán quyết việc tuân thủ Hiến pháp của nhà cầm quyền, mà khi đó Hiến pháp được sử dụng như một công cụ củng cố quyền lực của nhà cầm quyền.

Nếu quyền lực có được từ nhân dân và có thể bị nhân dân lấy lại thì người lãnh đạo sẽ làm theo cách tốt nhất có lợi cho chủ nhân ngay cả khi không có luật pháp.

Nếu nhà cầm quyền có trong tay quyền lực không phải từ nhân dân, không thể bị phế truất bởi nhân dân thì thậm chí có cả một rừng luật nhưng họ vẫn hành xử như “luật rừng” vì lợi ích bản thân và những người hỗ trợ cho việc nắm quyền của họ.

Vì thế, tồn tại sự xung đột trong cách hiểu về luật pháp, trong suy nghĩ của người dân thì luật pháp phải là phương tiện giới hạn nhà cầm quyền, điều này biến hoạt động của nhà cầm quyền bị bó hẹp trong một cái “ao tù”.

Còn đối với nhà cầm quyền, thì luật pháp là công cụ nhằm củng cố quyền lực và luật pháp là một thứ gì đó mà họ thường viện dẫn để đổ lỗi hay nói cách khác, luật pháp là bệ đỡ cho những sai trái của nhà cầm quyền. Cả hai cách hiểu đều làm mất đi giá trị của luật pháp.

Giá trị của luật pháp là phương tiện hỗ trợ chính quyền trong việc phụng sự nhân dân.

Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, người vừa tốt nghiệp bằng Master of Laws, Đại học Victoria và hiện sống tại Wellington, New Zealand.




No comments:

Post a Comment

View My Stats