Ngô Nhân Dụng
Friday,
March 22, 2013 7:02:06 PM
Thí dụ chúng ta đến ăn ở một cửa hàng mà thấy thức ăn thì dở,
nhân viên thì không thèm nghe khách nói, và ruồi nhặng tùm lum, quý vị sẽ làm
gì? Nhiều khi phải cố nuốt cho xong bữa. Nhưng bình thường thì người ta sẽ
quyết định, hoặc từ nay cạch đến già không đến đây ăn nữa, hoặc mời chủ tiệm
ra, lên tiếng than phiền hay là phản đối.
Nhà
kinh tế Albert Hirschman, mới qua đời cuối năm 2012, đã viết một cuốn sách bàn
về các “phản ứng” của người tiêu thụ, với nhan đề là: “Exit, Voice and Loyalty”
(Bỏ đi, Lên tiếng và Thủy chung); với tựa nhỏ: “Responses to Decline in Firms,
Organizations, and States” (Phản ứng trước sự Suy đồi của các Xí nghiệp, Tổ
chức, và Quốc gia).
Cuốn
sách in năm 1970, đến năm 1989 bỗng được nhắc nhở lại trong thế giới chính trị
học. Vì nhiều người thấy hiện tượng “Bỏ đi hoặc Lên tiếng” cũng diễn ra ở Ðông
Ðức. Mô hình của Hirschman có thể giải thích sự sụp đổ của chế độ cộng sản tại
Cộng Hòa Dân Chủ Ðức.
Trong
cuốn sách trên, Hirschman trình bày hai cách phản ứng của con người khi bất
bình với một xí nghiệp cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ không xứng đáng, hay với
một tổ chức và quốc gia không đáp ứng những ước vọng của tham dự. Thứ nhất là
chỉ “bỏ đi” mà không cần nghĩ tới nó nữa; người tiêu thụ đi mua hàng nhãn hiệu
khác; dân một nước đi di cư. Thứ nhì là “lên tiếng” ở ngay trong tổ chức để
mong nó thay đổi; hoặc đề nghị chính quyền thực hiện các chính sách đúng lòng
dân. Những người muốn thủy chung thường không nghiêng về giải pháp bỏ đi, họ ở
lại và cố gắng cải thiện.
Hirschman nhận xét
hành động bỏ đi thường là quyết định có tính chất cá nhân; còn việc lên tiếng
thường có tính tập thể, vì công ích hơn là tư lợi. Ông phân tích tác
động của hành động bỏ đi trên khuynh hướng lên tiếng, và ngược lại. Khi biết có
thể đi ăn ở tiệm phở khác được thì khách hàng chẳng cần phải lên tiếng chê hàng
phở nấu dở. Cũng vậy, khi người dân một nước có thể di cư sang nước khác dễ
dàng thì họ cũng không quan tâm đến việc đòi hỏi chính quyền phải đưa ra những
chính sách hợp ý dân hơn. Cả hai lựa chọn đều thể hiện khát vọng tự do, cho nên
các chế độ phủ nhận quyền tự do của dân có thể nới rộng hoặc thắt chặt hai
chính sách cùng một lúc; và việc thả lỏng trong phạm vi này có thể kích động
nhu cầu đòi phải nới rộng trong phạm vi khác. Cũng giống như khi một xí nghiệp
biết khách hàng có thể chọn mua của xí nghiệp khác thì họ cũng sẵn sàng hỏi ý
kiến người tiêu thụ để tự cải tiến dịch vụ hay sản phẩm.
Trong
trường hợp các nước cộng sản, thả lỏng cho người dân di cư, hoặc chính quyền
nấp đằng sau việc tổ chức di cư, là một cách để giảm bớt số tiếng nói phản
kháng có thể cất lên. Nhưng hai lựa chọn bỏ đi hay lên tiếng tác động nhau khiến
cho chính sách thả lỏng di dân khiến cho nhiều người lên tiếng mạnh mẽ hơn. Như
tại Ðông Ðức trước năm 1989, hai loại hành động của người dân chán ghét chế độ
cộng sản đã hỗ trợ, thúc đẩy lẫn nhau. Sau khi chính phủ Hungary (cộng sản) mở
cửa biên giới với nước Áo (tự do và trung lập) vào đầu Tháng Năm 1989, hàng
ngàn người Ðông Ðức (cộng sản) đã qua Hungary để tìm đường sang Áo, rồi từ đó
vào tị nạn tại Tây Ðức (tự do). Ðến cuối Tháng Chín, đã có hơn 30,000 người
theo con đường đó, khiến chính quyền cộng sản phải đóng cửa biên giới với
Hungary; nhưng người dân vẫn biết cách tìm đường chui mà đi.
Người
dân Ðông Ðức được tự do bỏ đi trong một thời gian, chính hành động này thay đổi
cả cách họ nhìn thế giới và nhìn chế độ đang cai trị họ. Một khi cảm thấy được
tự do hơn để lựa chọn giữa hai đường Bỏ đi (Abwandern), hay Lên tiếng
(Widersprechen), người ta bỗng dưng thấy tự do là một điều đáng mơ ước, thấy
trên thế giới này con người có thể còn rất nhiều thứ để lựa chọn nếu được tự
do. Người dân bình thường chưa hề nghĩ tới việc bỏ đi hay là lên tiếng cũng
chịu ảnh hưởng trước quyết định của những người khác. Tự nhiên, ai cũng ý thức
được “tư cách người lớn” của mình, không ai chấp nhận sống dưới sự chỉ huy ngặt
nghèo của một chế độ coi dân chúng như trẻ con nữa. Nhiều người quyết định
không bỏ đi mà phải lên tiếng. Vì công ích chứ không phải vì mình. Mỗi ngày họ
càng đông hơn. Họ đánh thức cả một dân tộc.
Năm
1990, Hirschman trở lại Berlin, sống một năm ở quê hương mà ông đã phải bỏ ra
đi năm 18 tuổi. Suy nghĩ về mô hình cũ của mình, ông nhận thấy các biến cố đưa
tới sự sụp đổ của Bức Tường cho chúng ta một bài học: Hành động Bỏ đi có thể
tác động tác trên hành động Lên tiếng, vì có nhiều người bỏ đi nên càng thêm có
nhiều người lên tiếng, chính vì nhiều người bỏ đi nên cường độ lên tiếng càng
mạnh mẽ hơn! Cả hai loại quyết định đó đã hỗ trợ lẫn nhau đưa tới cảnh chế độ
cộng sản sụp đổ.
Có thể dùng mô hình
“Exit, Voice and Loyalty” của Hirschman để nhận định về tình trạng nước ta hay
không?
Chế độ cộng sản ở Việt Nam trước đây 30 năm từng cho tổ chức những vụ “vượt
biên bán chính thức” để thu tiền “bán bến.” Nhiều cán bộ cộng sản đã làm giầu
nhờ chủ trương này; nhưng đó cũng là một cách để giảm bớt số người “lên tiếng,”
khi mở ra cho họ con đường “bỏ đi.” Những người đang “lên tiếng” chống chế độ
bây giờ cũng được khuyến khích “bỏ đi” trước khi họ tạo thêm ảnh hưởng.
Ngày
nay, còn những người thuộc loại “có của” cũng mới được thả cho “bỏ đi.” Bởi vì
nếu còn ở trong nước nhiều người sẽ có ngày phải “lên tiếng” đòi những quyền tự
do họ cần được hưởng. Có nhiều lý do khiến những người có tiền có của sẽ tới
lúc cũng muốn “lên tiếng.” Thứ nhất, họ thấy rằng tài sản mình tạo ra chỉ được
bảo đảm nếu xã hội sống trong luật pháp. Người ta sẽ sợ phải tiếp tục sống với
bọn cường hào tự tung tự tác, muốn làm gì thì làm; như đã xẩy ra trong cảnh anh
Nguyễn Tuấn Anh mới chết oan khuất ở Vĩnh Phúc. Ðến mạng người mà chúng còn
không kiêng nể thì thử hỏi có cái gì khác được an toàn trong một đất nước do
đám này “lãnh đạo?” Nhưng người ta cũng còn những nhu cầu tự do khác, ngoài
quyền được sống trong luật pháp rõ ràng. Bởi vì chỉ có pháp luật công minh khi
người dân được tự do, ít nhất là được tự do lên tiếng. Nhu cầu tự do này sẽ đẩy
tới nhu cầu tự do khác. Cứ như thế, sẽ nguy hiểm cho chế độ.
Những
người muốn lên tiếng hoặc phải bỏ đi thường là những phần tử ưu tú trong một xã
hội. Một cửa hàng mà gặp được khách “sành ăn” thì có thể được nghe họ lên tiếng
để giúp mình nấu nướng ngon hơn. Khi đám khách đó lên tiếng thì chủ tiệm phải
biết cảm ơn. Còn nếu họ chỉ bỏ đi ăn tiệm khác, thì cửa hàng sẽ cứ làm thức ăn
như cũ, không khá hơn được. Sẽ có ngày bị cạnh tranh đến sập tiệm.
Trong
một quốc gia, những người hay lên tiếng cũng giống như đám khách sành ăn;
thường là loại công dân có khả năng, biết cái hay khác cái dở, biết việc đúng
khác việc sai. Họ cũng phải là những người có lý tưởng, không chỉ nghĩ tới
quyền lợi và sự an vui của riêng mình mà còn lo cho đồng bào. Khi một quốc gia
mất những thành phần có khả năng và có lý tưởng thì tai hại cho tương lai.
Khi những người có triển vọng lên tiếng mà lại bỏ đi thì chế độ sẽ kéo dài được lâu hơn. Nhưng phải nhớ lại trường hợp Ðông Ðức để thấy rằng khi số người bỏ đi và số người lên tiếng cùng gia tăng thì hai hiện tượng xã hội này sẽ thúc đẩy lẫn nhau, không thể tránh được. Số người lên tiếng lên cao còn tác động tới lòng Chung thủy (Loyatlty) của những người khác. Những người tính bỏ đi cũng có thể nghĩ lại, vì lòng “chung thủy” sẽ được khơi dậy. Trong tâm lý người Việt Nam, đó là tình tự sâu bền đối với quê hương, đất nước. Vì lòng yêu nước, nhiều người không thể nào chọn con đường “bỏ đi,” nếu nhìn thấy hy vọng có thể “lên tiếng” để cải thiện cuộc sống, cho mình và cho người chung quanh.
Nước
ta hiện nay có rất nhiều người lên tiếng. Một nhạc sĩ 90 tuổi như Tô Hải đã
ngậm miệng gần suốt đời, chịu không nổi nữa. Cô Trịnh Kim Tiến bắt buộc phải
lên tiếng, và chắc chắn cô sẽ không chịu bỏ đi. Bà Phạm Thị Lài và con gái đã
lên tiếng bằng những hành động bất đắc dĩ. Những người ít nói mãi cũng phải bật
miệng lên tiếng. Nhà báo Nguyễn Ðắc Kiên thấy phải nói thẳng tại sao ông không
đồng ý với ông Nguyễn Phú Trọng. Bao nhiêu người lên tiếng như vậy, còn đông
hơn số các nhà trí thức Ðông Ðức lên tiếng trước năm 1989. Ðó là dấu hiệu đất
nước sẽ phải thay đổi.
No comments:
Post a Comment