12:01:am
02/02/13
3. Về văn hóa
Văn
hóa Việt Nam về căn bản là văn hóa xã thôn với con người hiền hòa, giàu đạo
nghĩa được khuôn đúc từ tôn giáo: Thờ kính tổ tiên, theo đạo từ bi của Phật,
theo tín nghĩa của đạo Nho, từ nhiều thứ lễ hội biểu hiện tín ngưỡng phong tục
và nếp sống văn hóa dân gian. Nhưng với chủ nghĩa Marx-Lenin thì tất cả nền văn
hóa này đều là tàn tích phong kiến phản động, và đảng Cộng Sản đã sử dụng thành
phần cán bộ nông dân cuồng tín theo đảng tàn phá hết từ đình, chùa, miếu mạo,
nhà thờ họ tới tất cả lễ hội. Chuyện phá nhanh, phá hết những cơ sở văn hóa
tinh thần đã trở thành một chính sách thi đua lập thành tích, đến như học giả Nguyễn Huệ Chi, một nhà
nghiên cứu hàng đầu về văn hóa dân tộc dưới chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam
cũng đã phải nói:
“Từ hơn 50 năm trở
lại đây, văn hóa truyền thống đã trải qua một “đại nạn”. Vì nghĩ đây là những
tàn tích phong kiến, chúng ta đã công nhiên lên án chúng, thẳng tay “đàn áp”,
“xử tội” chúng, đã để cho bao nhiêu đình, chùa, bia mộ, sách vở quý giá ở khắp
mọi vùng bị đốt phá, hoặc mất mát hư hỏng mà không một chút động tâm, như nhiều
thế hệ đã tận mắt nhìn thấy”.
(Talawas,
21/9/2005 – Để làm được chiếc cầu nối giữa quá khứ và hiện tại)
Như
thế là đảng Cộng Sản Việt Nam trên đường thực hiện cách mạng vô sản Mác
xit-Leninit đã phá hủy văn hóa truyền thống. Sự tàn phá này đã kéo dài trên 40
năm, ở miền Bắc 20 năm (1954-1975) và trên cả nước cho tới những năm đầu thập
niên 1990, khi tổ quốc xã hội chủ nghĩa Liên Sô sụp đổ thì đảng Cộng Sản Việt
Nam đành phải quay lại với văn hóa dân tộc. Vì thế, Ban Chấp Hành Trung Ương
Đảng Cộng Sản Khóa VIII đã họp hội nghị lần thứ 5 để bàn chuyện văn hóa và đã
đi tới nghị quyết: “Về xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc”.
Nói
như thế, nhưng thực sự văn hóa bạo lực Mac-xít với con người mới xã hội chủ
nghĩa của đảng đã phá hủy bản sắc dân tộc và đưa dân Việt vào sự khủng hoảng
mất niềm tin ở tương lai với lối sống chụp giựt hoang tàng để thích ứng với chủ
nghĩa bạo lợi của đảng. Tính chất này đang ngự trị xã hội Việt Nam mà học giả Nguyễn Huệ Chi đã nói rất rõ:
“Những nét đẹp văn
hóa ngàn đời thì hao mòn, thay vào đó là lối sống thực dụng ăn tục nói phét,
kích động bạo hành, hãm hiếp, giết người cướp của, lừa đảo bán trẻ con, phụ nữ
và đưa thiếu nữ đi “làm vợ” người già, người tàng tật ở nước ngoài, những tiếng
chửi thề như hát hay lúc nào cũng inh ỏi từ đầu phố đến cuối thôn. (Xin cứ bình tâm
nhớ lại xã hội Việt mấy chục năm về trước có thế hay không).
(Talawas/11/6/2007,
Mấy chữ “Cư trần lạc đạo” và vấn đề hòa giải hòa hợp dân tộc hiện nay)
Trong
tình trạng xã hội nghèo tinh thần và văn hóa như thế thì đảng Cộng Sản Việt Nam
bước vào thời kỳ lệ thuộc Trung Quốc, tự nguyện làm chư hầu và đã đem văn hóa
Trung Quốc lấp vào khoảng trống văn hóa mà đảng Cộng Sản đã phá để làm đẹp lòng
Thiên Triều.
Từ đó, văn hóa Trung
Quốc đã hiện diện khắp mặt trong xã hội Việt Nam mà chúng ta đã nhìn thấy:
a. Sự nhập cư ồ ạt
của người Hoa:
-
Năm 2008, chính quyền Việt Nam đã quyết định miễn chiếu khán nhập cảnh cho
người Hoa vào Việt Nam. Quyết định này là một biện pháp giúp người Hoa ở lại dễ
dàng, vì họ có thể nhập vào những cộng đồng người Hoa trên khắp Việt Nam (từ
trước kia và nay là những làng người Hoa mới xuất hiện theo những dự án xây
dựng…).
-
Còn ở thành phố thì nhiều khu Chinatown đã xuất hiện như khu đô thị Nam Hoàng
I, xây dựng từ năm 2008 và hoàn thành năm 2013 ở Lạng Sơn.
-
Thành phố Móng Cái (Quảng Ninh) gần như là thành phố của Trung Quốc. Vì tất cả
cửa hàng, trung tâm thương mại, khách sạn, khu vui chơi giải trí đều do các
công ty, tập đoàn lớn của Trung Quốc đầu tư xây dựng. Quảng Trường Hòa Bình
sang trọng, to lớn do người Hoa làm chủ. Ngày nay ở Móng Cái, Trung Quốc làm
chủ, Việt Nam làm thuê, và người Hoa chỉ thuê những người biết tiếng Hoa.
(Thiên
Thư: Từ mũi Sa Vĩ nhìn về Móng Cái: Trung Quốc làm chủ, Việt Nam làm
thuê/nguoi-viet.com/7/30/2009)
-
Khu Chinatown Đông Đô Đại Phố ở trung tâm thành phố mới Bình Dương do công ty
Becamex IJC (của người Việt) xây dựng. Trong tài liệu giới thiệu ở Website của
Đông Đô Đại Phố đã viết: “Điểm gắn kết và hình thành cộng đồng người Hoa: Đông
Đô Đại Phố kết hợp việc phát triển kinh tế cho cộng đồng người Hoa, với khu
trung tâm thương mại sầm uất bậc nhất, một thiên đường mua sắm, giải trí và ẩm
thực đặc sắc, góp phần tạo dựng và gìn giữ vẻ đẹp văn hóa đa sắc màu
của dân tộc Việt Nam cho thế hệ mai sau”.
Và
còn ở đâu nữa, khi các thành phố đua nhau xây dựng Chinatown cho người Hoa. Họ
kết với người Hoa thì sẽ giàu có, nhưng dân Việt sẽ bị đuổi đi đâu?
b. Xây dựng chùa mới
theo kiểu Trung Quốc
Ông Mặc Lâm, trong
bài “Trung Quốc khống chế Việt Nam trên lãnh vực văn hóa”, đã viết: “Văn
hóa thuần Việt xuất hiện rõ nét nhất trên những hoa văn, phù điêu của các ngôi
chùa cổ. Những nét thủ công nghệ thuật ấy phát xuất từ ý thức sâu sắc muốn
thoát ra làn sóng đô hộ văn hóa của phương Bắc, làm nên nét đặc thù văn hóa
phương Nam. Tổ tiên ta càng ý thức điều này bao nhiêu thì các thế hệ sau lại
thờ ơ với nó bấy nhiêu. Nhiều ngôi chùa gần đây không thể gọi là chùa của người
Việt được nữa mà phải thành thật nhận rằng nó được mang nguyên mẫu từ Trung
Quốc hay Đài Loan sang. Từ kiến trúc tới tượng thờ, nhất nhất đều mang họa tiết
Trung Quốc và người ta không dấu tự hào khi cho rằng đã bắt chước giống với bản
sao từ nguyên mẫu.
Tiến sĩ Nguyễn Xuân
Diện chia sẻ các quan sát của ông:
“Các công trình đền
chùa, đình miếu bây giờ có cái đang xây dựng mới, cũng có cái tu sửa thì vẫn
đậm chất Trung Quốc. Chúng tôi lấy thí dụ như công trình chùa Bái Đính ở Ninh
Bình hay là công trình Đại Nam Lạc Cảnh ở Bình Dương không có yếu tố Việt Nam ở
trong đó.
Đây là những ngôi
chùa rất đồ sộ mang dấu ấn của Trung Quốc rất rõ. Một đài tưởng niệm liệt sĩ là
10 cô gái ở Đồng Lộc, cái tháp chuông ở Đồng Lộc lại là phiên bản của Hoàng Hạc
Lâu bên Trung Quốc. Ngay cả Bảo Tàng Hà Nội là một bảo tàng vừa mới xây dựng
xong cũng là một mô hình copy từ một công trình kiến trúc ở Thượng Hải”.
c. Sự tàn phá tiếp
tục:
Do
thiếu ý thức hay do lợi, người ta tiếp tục phá hủy những ngôi chùa cổ. Chẳng
hạn mới đây, chùa Trăm Gian ở huyện
Chương Mỹ, Hà Nội đã bị phá hủy để trùng tu, xây chùa mới mà cái mới có thể lại
là sự mô phỏng chùa Trung Quốc, và bên trong chùa lại là những sản phẩm của
Trung Quốc. Nếu không phá mà chỉ sửa chữa trang trí thêm thì có những ông sư
cũng đã không tránh được điều này, như chùa Một Cột mới đây đã được treo đèn
chùm kiểu Tây ở giữa sảnh, và ở trước chùa đã được trang trí bằng hai sư tử đá
lớn theo mẫu Trung Quốc. Sự việc này đã được một tác giả (không đề tên) đề cập
đến trong bài “Nô lệ văn hóa” (baomoi.com/11/30/2012). Chúng tôi xin ghi lại
mấy đoạn:
“Thật ngạc nhiên, sự
ngộ nhận văn hóa vẫn còn tiếp diễn, khi mới đây người viết đọc được bài phỏng
vấn của một tờ báo mạng về chùa Một Cột hiện nay. Bài phỏng vấn cho thấy kiến
thức về văn hóa của vị trụ trì là rất đáng báo động, do không ý thức được vị
trí văn hóa lịch sử, tâm linh của di sản này trong lòng thủ đô Hà Nội, nên phát
ngôn tùy tiện. Nhất là đây lại là ngôi chùa có vị trí đặc biệt đối với tâm hồn,
tình cảm của người Việt…
Bởi một ngôi chùa có
giá trị văn hóa lịch sử như chùa Một Cột, hàng năm thu hút rất nhiều du khách
quốc tế đến tham quan, thì những giá trị gốc, tiêu biểu, độc đáo mang phong
cách của người Việt phải được phát huy tối đa. Không thể tùy tiện đặt bất cứ
sản phẩm công nghiệp Tây Phương nào vào, cho dù chúng có giá trị bạc tỷ… Ngôi
chùa đó là ngôi chùa quốc gia. Thế nên, không thể chấp nhận một di sản văn hóa
quan trọng, độc đáo vào bậc nhất cả nước lại được thêm thắt những sản phẩm văn
hóa chắp vá, lai căng…
Còn
nữa, khi phóng viên hỏi về đôi sư tử đá Trung quốc, thì nhận được một câu trả
lời hết sức sai lệch và ngụy biện: “Ở
Việt Nam bình thường dùng hai con chó đá giữ nhà, nếu cho rằng dùng sư tử mang
văn hóa Trung Hoa thì phải hiểu là Phật Giáo của Việt Nam là Phật Giáo Đại Thừa
du nhập từ Trung Quốc”. Những ai từng được học lịch sử Phật Giáo Việt Nam
đều biết Phật Giáo (cả Nam lẫn Bắc truyền) được du nhập vào Việt Nam theo ngả
nào. Và Phật Giáo thời Lý-Trần dù có sự
ảnh hưởng nhất định bởi Thiền Tông Trung Hoa, nhưng những phong cách kiến trúc,
thẩm mỹ, điêu khắc chưa từng “là một” với Trung Hoa bao giờ. Chính sự hiện diện
của chùa Một Cột cho đến hôm nay và vô số những di chỉ khảo cổ trên khắp mọi
miền đất nước đã chứng minh điều đó.
- Chùa Một Cột khá
nhỏ, nhưng gần đây nhìn vào mặt tiền bỗng thấy ngay đôi sư tử màu trắng to vật
vã án ngữ, gây choán không gian và làm cho lệch tông trong kiến trúc. Hơn nữa
lại là mẫu sư tử Trung Quốc được sản xuất hàng loạt, có thể bắt gặp ở bất cứ
đâu trong các nhà dân hay công sở… Chính cái lối bắt chước vô ý thức của nhiều
người Việt sẽ khiến cho người đời sau ngộ nhận về điêu khắc Việt Nam.
- Do đó, chỉ cần có
một chút ít hiểu biết văn hóa tối thiểu thì sẽ thấy cần đưa ngay những thứ rác
văn hóa ấy ra khỏi ngôi chùa Một Cột. Tổ tiên người Việt trong khi tiếp nhận
tinh hoa văn hóa bên ngoài, nhưng đều ý thức giữ lại hồn cốt của người Việt. Vì
thế, trong điêu khắc, kiến trúc, thẩm mỹ đều có bàn tay sáng tạo với nhận thức
rất rõ về văn hóa, dân tộc mình. Có thể nói những yếu tố văn hóa lạ xuất hiện ồ
ạt trong các ngôi chùa Việt trong những năm gần đây một lần nữa là cảnh báo đối
với chúng ta. Đặc biệt các loại đồ thờ cúng, tượng Phật Đài Loan, Trung Quốc
sản xuất công nghiệp xuất hiện tràn lan trong các chùa và tư gia Phật tử”.
d. Phim ảnh truyền
bá lịch sử, văn hóa Trung Quốc:
Blog nguoibuongio,
trong bài “Hợp Tác Toàn Diện và Thâm Hụt Toàn Diện” cho biết:
“Hầu như bất kỳ ngày
nào, giờ nào, tìm tên các kênh truyền hình của Việt Nam đều có phim của Trung
Quốc. Nhiều đến nỗi thậm chí trẻ em Việt Nam còn rành lịch sử Trung Quốc hơn là
lịch sử Việt Nam. Các ca sĩ Việt Nam còn mở phong trào lấy nghệ danh theo tên
Trung Quốc, coi như là mode thịnh hành, và ngay cả những đứa trẻ mới sinh ở
Việt Nam không còn đơn thuần là Thị, Văn nữa. Thay thế vào đó là những cái tên
đệm như Châu, Tố, Gia… Đến phong cách cúng bái, nghi lễ dường như cũng đem về
từ Trung Quốc”.
(doithoai.net/2/8/2012)
Từ tính chất lệ
thuộc văn hóa Trung Quốc về mọi mặt trên đây, TS. Nguyễn Xuân Diện đã lên tiếng
báo động:
“Trong tình hình
hiện nay cái chữ “xâm lăng”, phải nói như thế, về mặt văn hóa của Trung Quốc và
một sự chống chỏi yếu ớt, nhu nhược của những người làm công tác văn hóa ở Việt
Nam rất đáng báo động”.
Còn Kỹ Sư Vi Toàn
Nghĩa đã xác định thêm là chính sách văn hóa của chính quyền Việt Nam đã chuyên
chở chính sách bành trướng văn hóa của Trung Quốc:
“Bây giờ xu hướng
của họ là tư tưởng Đại Hán bành trướng. Tôi cảm thấy bây giờ nó bắt đầu như
thời gian 1000 năm Bắc Thuộc, nhưng bây giờ thì kiểu khác. Nó bắt đầu rồi chứ
không phải là manh nha nữa. Bắt đầu bằng những chính sách của họ và ngay bản
thân những chính sách của mình đã thể hiện rằng thời kỳ Bắc Thuộc đã bắt đầu,
nhưng dưới hình thức khác”.
(Mặc
Lâm, đd)
III.
Thắng mà bán nước
Cộng
Sản Việt Nam và Cộng Sản Trung Quốc đã kết với nhau bằng một mối duyên nợ.
Duyên là chủ nghĩa Marx-Lenin, chủ nghĩa quốc tế vô sản, còn nợ là qua cái
duyên chủ nghĩa, Trung Quốc viện trợ Cộng Sản Việt Nam để thôn tính Việt Nam mà ông Ngô Đình Nhu trong “Chính Đề Việt
Nam” đã nhận định:
“Sự lệ thuộc (chủ
nghĩa) và sự chia đôi lãnh thổ đã tạo hoàn cảnh cho sự chi phối và sự toan tính
thống trị của nước Tàu đối với Việt Nam tái hiện dũng mãnh sau gần một thế kỷ
vắng mặt.
Các nhà lãnh đạo
miền Bắc, khi tự đặt mình vào sự chi phối của Trung Cộng, đã đặt chúng ta trước
một viễn ảnh nô lệ kinh khủng. Hành động của họ, nếu có hiệu quả, chẳng những
sẽ tiêu diệt mọi cơ hội phát triển của chúng ta mà lại còn đe dọa đến sự tồn
tại của dân tộc.
Sở dĩ, tới ngày nay,
sự thống trị của Trung Cộng đối với Việt Nam chưa thành hình là vì hoàn cảnh
chính trị thế giới chưa cho phép, và sự tồn tại của miền Nam dưới ảnh hưởng của
Tây Phương là một trở lực vừa chính trị vừa quân sự cho sự thống trị đó. Giả sử
mà Nam Việt bị Bắc Việt thôn tính thì sự Trung Cộng thôn tính Việt Nam chỉ là
một vấn đề thời gian”.
(Tùng
Phong: Chính Đề Việt Nam, Đồng Nai xuất bản, Sài Gòn, 1964, tr.301)
Như
vậy là ông Nhu đã thấy trước sự toan tính của Trung Cộng và Cộng Sản Việt Nam
cũng đã thấy như thế, bằng chứng là Cộng Sản Việt Nam đã tố cáo tham vọng của
Trung Cộng trong 2 tập sách mà chúng tôi đã đề cập ở phần trên. Nhưng lãnh đạo
Cộng Sản Việt Nam đã không nghĩ đến lối thoát cho dân tộc mà chỉ nghĩ đến quyền
lợi của đảng hay của chính họ nên đã để lỡ mất cơ hội ngàn năm, và đã tự nguyện
rước voi giày mồ một cách nhục nhã (Ở hội nghị Thành Đô, Khi Giang Trạch Dân
xuất hiện, Đỗ Mười đã nhào tới ôm chầm lấy Giang trước sự ngỡ ngàng của họ
Giang và theo ông Dương Danh Dy, nguyên Tổng Lãnh Sự Việt Nam tại Quảng Châu
(Trung Quốc) thì trong hội nghị, những người lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam đã
không dám đòi hỏi bất cứ một điều gì, dù Cộng Sản Trung Quốc đã xâm lăng Việt
Nam năm 1979. Như thế là mấy ông Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười đã
tới phòng hội để được chỉ đạo và nghe lệnh. Vì thế từ Hội Nghị Thành Đô
(9/1990), Trung Quốc đã dùng phương châm 16 chữ vàng và 4 tốt để áp đặt và bắt
đầu đòi nợ và Cộng Sản Việt Nam cũng dối dân bằng mấy chữ đó để bắt đầu trả nợ:
Đó là cái nợ mà Trung Cộng đã viện trợ trên 24 năm cho sự chiến thắng của đảng
Cộng Sản và cái nợ mà Trung Quốc giữ cho Cộng Sản Việt Nam ở ngôi vị: Với
dân Việt là kẻ thống trị, còn với Trung Quốc là kẻ bị trị.
Sự thỏa thuận ở Hội Nghị Thành Đô là những gì? Tất nhiên chỉ Bộ
Chính Trị đảng Cộng Sản biết. Nhưng từ đó đến nay, những sự kiện chúng ta thấy
được thì Việt Nam đã mất quá nhiều:
Với
hiệp ước biên giới Việt- Trung (30/12/1999), Trung Quốc lấy thác Bản Giốc, Ải
Nam Quan và trên 1000km2 cùng những cao điểm ở biên giới. Với hiệp ước Phân
Định Vịnh Bắc Bộ (25/12/2000) Trung Quốc lấy trên 10.000km2 biển. Với chương
trình khai mỏ, Trung Quốc chiếm Cao Nguyên. Với chương trình cho thuê rừng (hay
cho không rừng như ông Trần Văn Tri, Giám Đốc Sở Kế Hoạch và Đầu Tư Quảng Nam
cho biết thì công ty TNHH, một thành viên InnovGreen được miễn 100% tiền thuê
đất trong 50 năm, vì đó là quy định của chính phủ về ưu đãi đầu tư, được áp
dụng trên cả nước) ở 10 tỉnh: Lạng Sơn, Quảng Ninh, Cao Bằng, Nghệ An, Hà Tĩnh,
Quảng Nam, Bình Định, Kon Tum và Bình Dương, đã cho doanh nghiệp nước ngoài
thuê rừng đầu nguồn dài hạn (50 năm) với tổng diện tích hơn 300 ngàn Hectare.
Trong đó doanh nghiệp Đài Loan, Hong Kong và Trung Quốc chiếm trên 264 ngàn
hectare (87%) ở các tỉnh xung yếu biên giới. Theo tướng Đồng Sỹ Nguyên thì việc
Trung Quốc chọn thuê đất chủ yếu ở Lạng Sơn, Quảng Ninh, đặc biệt ở Nghệ An, Hà
Tĩnh, Quảng Bình, nơi có trục đường 7, đường 8 sang Lào, đường đi lên Tây
Nguyên là có chủ đích, vì đó là những tỉnh xung yếu biên giới, có những vị trí
chiến lược mang tính cốt tử.
Cần
nói thêm là tỉnh Hà Tĩnh đã cấp cho Tập Đoàn Formosa Đài Loan – Trung Quốc 33
km2 đất cảng Vũng Áng từ năm 2008, theo dự án đầu tư của Tập Đoàn này và chủ
đầu tư đã đem vào hàng ngàn công nhân Trung Quốc. Họ định cư lập làng quanh
Vũng Áng, kết hôn với con gái, phụ nữ địa phương. Vũng Áng thuộc Kỳ Anh, Hà
Tĩnh, là khu vực nước sâu nằm ở cửa phía nam vịnh Bắc Bộ. Từ đây có thể khống
chế tàu thuyền ra vào cảng Hải Phòng, cũng như giao thông đường biển với toàn
miền Bắc, tiếp cận thuận lợi các mục tiêu phòng thủ chiến lược trên Biển Đông
như đảo Cồn Cỏ, Hòn Mê, Hòn Khói… Vị trí này nằm ở chân núi Hoành Sơn dọc Quốc
lộ 1, vị trí yết hầu của cả nước, có thể chia cắt giao thông Bắc Nam.
(caunhattan.wordpress.com/2012/12/13
– Hoàng Trung Hải giúp Trung Quốc chiếm vị trí yết hầu của Việt Nam).
Rồi
bằng con đường kinh tế, trong 10 năm nay, chính quyền Việt Nam đã để cho nhà
thầu Trung Quốc chiếm tới 90% những gói thầu quan trọng thuộc các lĩnh vực
thiết yếu của nền kinh tế như điện, xi măng, hóa chất, luyện kim, cầu đường,
khai khoáng… Theo chuyên gia kinh tế Bùi Kiến Thành thì rất ít doanh nghiệp
Việt Nam lọt qua vòng sơ tuyển dự thầu. Có lẽ ông Thành không dám nói thẳng ra,
nhưng ta có thể hiểu là đã có một lực hậu thuẫn từ Trung Ương đảng Cộng Sản
Việt Nam yểm trợ để các dự án thầu quan trọng rơi vào tay nhà thầu Trung Quốc.
Cần biết thêm một vấn đề nữa mà chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan chỉ ra là phần
lớn dự án quan trọng ở lĩnh vực điện, giao thông mà phía Trung Quốc đang làm
nhà thầu, là đang sử dụng vốn vay ODA. “Như vậy, vốn giá rẻ mà Việt Nam đi vay,
các nước khác giúp đỡ, lại được sử dụng để mua máy móc Trung Quốc, làm lợi cho
họ. Điều này sẽ khiến các nhà tài trợ không thực sự hài lòng”.
(vnexpress.net/11/28/2012).
Trên
đây là những cái mất hiện hình của đất nước vào tay Trung Quốc. Còn một cái mất
vô hình mà chúng ta có thể cảm được qua Bản Tuyên Bố Chung giữa Chủ Tịch Trung
Quốc Hồ Cẩm Đào và Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh ngày 17/11/2006 tại Hà Nội, nhân
dịp ông Hồ qua thăm Việt Nam. Bản Tuyên
Bố bao gồm nhiều vấn đề, nhưng có một số điểm đặc biệt sau đây:
-
Tăng cường quan hệ láng giềng hữu nghị và hợp tác toàn diện Việt Nam – Trung
Quốc.
-
Phát huy đầy đủ vai trò cơ chế hợp tác giữa các ngành ngoại giao, quốc phòng,
công an, an ninh, mở rộng hợp tác thiết thực trong các lĩnh vực kinh tế, thương
mại, khoa học kỹ thuật, văn hóa, giáo dục…
-
Hai nước đã chính thức thành lập và tiến hành phiên họp đầu tiên của Uỷ Ban Chỉ
Đạo Hợp Tác Song Phương Việt – Trung. Hai bên nhất trí cho rằng sự kiện này có
lợi cho việc tăng cường chỉ đạo vĩ mô, quy hoạch hợp tác và thúc đẩy toàn diện
sự hợp tác trong tất cả các lĩnh vực giữa Việt Nam và Trung Quốc…
-
Tích cực ủng hộ và thúc đẩy doanh nghiệp hai nước hợp tác lâu dài và cùng có
lợi trong các lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, công nghiệp chế tạo, khai thác
nguồn nhân lực, năng lượng, chế biến khoáng sản và các lĩnh vực quan trọng
khác. Khẩn trương bàn bạc và thực hiện các dự án lớn như bô-xit Đắc Nông.
Qua
những điểm hợp tác toàn diện các ngành ngoại giao, quốc phòng, công an, an
ninh… với Ủy Ban Chỉ Đạo Hợp Tác Song Phương và tăng cường chỉ đạo vĩ mô, chúng
ta có thể cảm được là đảng Cộng Sản Việt Nam đã bị Trung Quốc nuốt và trở thành
một thứ đảng ủy của đảng Cộng Sản Trung Quốc. Vì vai trò chủ động trong các
lãnh vực này là Trung Quốc chứ không thể là Việt Nam và ai có thể chỉ đạo?
Chẳng lẽ Cộng Sản Trung Quốc để Cộng Sản Việt Nam chỉ đạo.
Như thế trên tiến
trình thôn tính Việt Nam, Trung Quốc phải thâu tóm đảng Cộng Sản Việt Nam và sự
việc đó đã hiện ra rất rõ ở bản tuyên bố này. Và thảm kịch của đất nước chúng
ta là khi Trung Quốc đã biến được đảng Cộng Sản Việt Nam thành đảng ủy của Cộng
Sản Trung Quốc thì Việt Nam trở thành một Quận hay một Tỉnh của Trung Quốc. Xin nhớ lại là lần
thăm Việt Nam này, Hồ Cẩm Đào đã tới Hội An, tỉnh Quảng Nam, tắm biển, rồi mới
ra Hà Nội. Đó là hành động của Chủ Tịch Trung Quốc đi thăm một tỉnh thuộc Trung
Quốc.
Trước nguy cơ mất
nước này, mấy năm nay, từ quốc nội đến hải ngoại, hồn nước đã bật dậy:
Ở
hải ngoại, các tổ chức chính trị và những hội đoàn có nhiều hoạt động lên tiếng
tố cáo đảng Cộng Sản Việt Nam bán nước và lên án sự xâm lược của Trung Quốc.
-
Phản ảnh sự việc trên báo chí, trên website.
-
Biểu tình chống những phái đoàn của chính quyền Việt Nam với biểu ngữ nêu đích
danh Cộng Sản bán nước.
-
Biểu tình lên án Trung Quốc trước tòa Đại sứ và Lãnh sự Trung Quốc ỡ Mỹ và trên
thế giới.
-
Tổ chức hội thảo về Hoàng Sa và Trường Sa để nói lên tham vọng ngông cuồng của
Trung Quốc.
Còn
ở trong nước, tuy hoàn cảnh nguy hiểm, nhưng ý thức về nguy cơ mất nước, ý thức
chống Trung Quốc, ý thức đối nghịch với đảng, nhà nước Cộng Sản trước nguy cơ
này đã được nói lên từ nhiều tầng lớp: Tôn giáo, trí thức, sinh viên, thường
dân và cả đảng viên và tiếng nói này đã trở thành một chủ
lưu được truyền bá rộng rãi trên báo mạng mà chính quyền không cách nào
ngăn cấm và hủy diệt.
Xin tóm tắt mấy điểm
cụ thể:
-
Thứ nhất, gọi là chủ lưu vì đó là tiếng nói của nhiều giới quy về một hướng bao
gồm Tôn giáo, giới trẻ, trí thức, các ông tướng và đảng viên Cộng Sản.
-
Thứ nhì, chủ lưu xác định rõ kẻ xâm lược Việt Nam là Trung Quốc.
Xin
dẫn một số thí dụ:
- Biểu ngữ của sinh
viên trong cuộc biểu tình chống Trung Quốc chiếm Hoàng Sa, Trường Sa:
Thanh
niên, sinh viên Việt Nam thế kỷ 21 tặng Trung Quốc:
Mười
sáu chữ vàng
Láng
giềng khốn nạn
Cướp
đất toàn diện
Lấn
biển lâu dài
Thôn
tính tương lai.
- Nhà thơ sinh viên
Thái Hữu Tình viết:
Sinh
viên biểu tình phải đâu chuyện lạ
Nhưng
nước mình khác nước người ta
Nếu
quả thật đã hồi sinh được hồn dân tộc
Thì
tôi thực tình cám ơn kẻ cướp Trường Sa.
Kẻ
quen lấy thịt đè người
Vẫn
còn đó thịt xương thối rữa
Máu
đổ Bạch Đằng, xương trắng Đống Đa.
Nó
cậy tài chuyên làm đồ giả
Mười
sáu chữ vàng cũng đồ vàng mã
Môi
răng gì một giọng lái buôn.
- Hòa Thượng Quảng
Độ, trong
lời kêu gọi không dùng hàng Trung Quốc ngày 3/10/2009, đã viết:
“Nguy
cơ mất nước vào tay Trung Quốc là nguy cơ cụ thể và hiện tiền. Ngày 29/3 đầu
năm nay, nhân danh Hội Đồng Lưỡng Viện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất,
tôi đã cất “Lời kêu gọi Tháng 5 Bất Tuân Dân Sự – Biểu Tình Tại Gia” mở đầu
cuộc đấu tranh bất bạo động để bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ, lãnh hải mà hai
nghìn năm tiền nhân ta không ngừng đem ý chí bất khuất và xương máu gìn giữ non
sông.
Hôm
nay nhân danh Hội Đồng Lưỡng Viện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, tôi
xin cất lời kêu gọi đồng bào trong và ngoài nước hãy có thái độ trước hai hiện
tượng Trung Quốc xâm lấn và nhà cầm quyền Cộng Sản bó tay đầu hàng…
Chúng
ta cần biểu tỏ qua thái độ để chống hai quốc nạn nội xâm và ngoại xâm.
Thái
độ biểu tỏ hôm nay để nhà cầm quyền Bắc Kinh thấy rõ ý chí kiên cường của người
dân Việt là phát động phong trào không dùng hàng Trung Quốc… Tẩy chay hàng
Trung Quốc là tẩy chay chủ nghĩa bá quyền xâm lược của nhà cầm quyền Bắc Kinh.
Ngoài lý do chính trị mà tẩy chay, còn lý do hàng xấu và hàng độc. Trung Quốc
đang gây nguy hại cho cơ thể và môi sinh người tiêu dùng Việt Nam”.
- Các ông tướng Cộng
Sản:
Từ
vụ bauxite, chúng ta được đọc những lời can ngăn chính quyền ngưng dự án của
các ông tướng Võ Nguyên Giáp, Đồng Sỹ Nguyên, Nguyễn Trọng Vĩnh và Lê Văn
Cương. Trong đó, các vị ấy đều nói về tham vọng xâm chiếm Việt Nam của Trung
Quốc. Mới đây trong bài “16 chữ vàng là thật hay giả” tướng Nguyễn Trọng Vĩnh
đã xác định rõ là “16 chữ vàng” mà nhà cầm quyền Trung Quốc vẽ ra chỉ là trò
giả hiệu. Nó chỉ là lá bùa dán vào miệng để bịt miệng Việt Nam, để ăn cướp mà
Việt Nam không được la làng, xẻo thịt, cắt da Việt Nam cũng không kêu được.
Đáng tiếc là những nhà lãnh đạo Việt Nam vẫn “hữu nghị một chiều”.
- Ông Lê Hồng Hà, một cấp lãnh đạo
ngành công an (đã về hưu), trong cuộc phỏng vấn của Bác sĩ Phạm Hồng Sơn đã nói
là Trung Quốc đã và đang ráo tiết thực hiện những kế hoạch dữ dội, xâm nhập,
ảnh hưởng, chèn ép, bao vây trên mọi lĩnh vực, kinh tế, an ninh, quốc phòng,
lãnh thổ, nhằm thực hiện ý đồ cuối cùng là thôn tính Việt Nam. Còn về phía Việt
Nam thì nhiều cán bộ lãnh đạo của Việt Nam lại đã và đang bị Trung Quốc mua
chuộc và khống chế. Tất cả những điều đó đều là một quá trình liên tục từ Đại
Hội VI của đảng Cộng Sản Việt Nam đến nay. Thái độ nói chung của lãnh đạo Việt
Nam hiện nay về Trung Quốc lại lờ phờ, không rõ ràng. Đó là một vấn đề hết sức
nguy hiểm.
(danluan.org/3/6/2012,
Phỏng vấn Lê Hồng Hà – Đảng chỉ còn vai trò kìm hãm xã hội)
- Các vị trí thức:
Sau
cuộc Hội Thảo Biển Đông và Hải Đảo Việt Nam (24,25/7/2009) nhà báo Hoàng Phố,
nhật báo Người Việt, đã phỏng vấn hai nhà trí thức đọc tham luận trong buổi hội
thảo là nhà văn Nguyên Ngọc và Tiến sĩ Sử học Nguyễn Nhã.
Trong cuộc phỏng
vấn, nhà văn Nguyên Ngọc cho biết:
“Quan
hệ với Trung Quốc bây giờ đang là vấn đề gay go. Họ là một nước quá to mà cũng
quá nhiều tham vọng phát triển để biến thành siêu cường. Từ tham vọng này họ
lấn áp Việt Nam quá sức chịu đựng và chúng tôi thấy cần tiếng nói của xã hội
dân sự”.
Còn
Tiến sĩ Nguyễn Nhã, khi được hỏi: Theo Tiến sĩ, trước tình hình bức thiết hiện
nay, ta phải có đối sách nào với Trung Quốc trong vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa?
Thì ông đã trả lời: “Vấn đề đối phó với Hoàng Sa, Trường Sa là thử thách trong
thiên niên kỷ này. Bất cứ một hành động nào làm cho thế nước của chúng ta suy
vong là có tội. Chúng ta phải đồng thuận, nối kết trong cũng như ngoài, nhà
nước cũng như nhân dân. Nếu không thì hình ảnh của Tân Cương, Tây Tạng không
phải là hình ảnh quá xa vời đối với Việt Nam”.
- Bác sĩ Phạm Hồng
Sơn:
Sau
khi bị lực lượng “Cựu chiến binh” đến nhà hành hung khủng bố tinh thần
(23/3/2010), Bác sĩ Phạm Hồng Sơn đã nhận được sự động viên, chia xẻ của nhiều
người từ khắp ba miền Bắc Trung Nam và từ hoàn cầu. Trong đó có cả những cựu
chiến binh và thương binh ông chưa quen biết. Vì thế ông đã viết bài “Niềm Tin
Lại Lớn Thêm Lên”, trong bài có câu: “Tôi xúc động vì nhiều người đã băng qua
được những nỗi sợ mà tôi đã phải gắng vượt qua. Tôi xúc động vì chúng ta lo
lắng cho nhau thật sự, chúng ta đang nghe được nỗi lòng của nhau. Chúng ta đang
giúp nhau cảm được đúng và sâu hơn nghĩa của hai chữ “đồng bào”. Chúng ta đang
rợn được nỗi nhục của thân nô lệ và sự đắng cay của người dân lại “sắp” mất
nước”.
- Nhà văn Nguyễn
Xuân Nghĩa đã lên tiếng trước khi vào tù:
Tổ
quốc tôi như miếng da lừa
Một
lần ước, mất đi một góc
Ước
phồn vinh: Rừng mất cây, biển mất cá
Ước
vẹn toàn: Mất hải đảo, mất cao nguyên.
Tôi
đứng ôn hòa, biểu ngữ chống Bắc Kinh
Người
đến đầu tiên là cảnh sát
Họ
nhìn tôi như nhìn loài chó ghẻ
Tôi
ngã rồi họ dựng chúng tôi lên
Những
nắm đấm thôi miên vào mặt.
Họ
là người Việt Nam như tôi
Ở
chung với tôi trên mảnh đất cỗi cằn sỏi đá
Ở
chung với tôi mảnh đất ngàn năm vật vã
Lo
sinh nhai, lo giữ chốn sinh tồn.
Tôi
nằm lăn ra đất
Nước
mắt nuốt vào lòng
Lịch
sử 4 ngàn năm triều đại nào như thế?
(Hải
Phòng, 29/4/2008)
(Người
Buôn Gió – Đến thăm Phạm Thanh Nghiên, đd)
- Nhạc sĩ Việt Khang
sống giữa lòng đất nước mà phải lên tiếng hỏi:
Giờ
đây… Việt Nam còn hay đã mất?
Mà
giặc Tàu ngang tàng trên quê hương ta.
Hoàng
Trường Sa đã bao người dân vô tội
Chết
ngậm ngùi vì tay súng giặc Tàu.
……….
Việt
Nam tôi đâu? Việt Nam tôi đâu? Việt Nam tôi đâu?
Bây giờ xin giới
thiệu ý nghĩ của giới bình dân trước nạn xâm lấn của Trung Quốc. Giới này không thể
viết lên tâm sự của mình, nhưng chúng ta có nhiều nhà văn, nhà báo ghi lại tâm
sự của họ qua những bài phóng sự. Ở đây xin giới thiệu một bài của Thiên Thư.
Với nhan đề “Từ mũi Sa Vĩ nhìn về Móng Cái: Trung Quốc làm chủ, Việt Nam làm
thuê” nhà báo Thiên Thư đã ghi lại những cái thấy, điều nghe về chuyện người
Trung Quốc đã chiếm Móng Cái và Trà Cổ bằng kinh tế với thân phận người dân
Việt ở đây:
“Sau
chiến tranh biên giới tháng Hai năm 1979, thị trấn Móng Cái bị tàn phá nặng nề,
mãi đến năm 1991, khi quan hệ Việt Trung trở lại bình thường thì sự trao đổi
buôn bán qua cửa khẩu Bắc Luân ngày càng tăng lên.
Móng
Cái cũng như nhiều thành phố vùng giáp biên khác, nhiều cửa hàng, trung tâm
thương mại, khách sạn, khu vui chơi giải trí được đầu tư bởi các công ty, tập
đoàn lớn của Trung Quốc. Một trong hai khu giải trí, kinh doanh lớn nhất thành
phố Móng Cái là của công ty Hồng Vận và công ty liên doanh Hải Ninh – Lợi Lai.
Như nhiều nhà đầu tư Trung Quốc khác, hai công ty này được thuê đất 50 năm với
nhiều loại hình kinh doanh như sòng bạc, khách sạn, sàn nhảy, dịch vụ, mua sắm hàng
hiệu (nhái), cửa hàng ăn Trung Quốc.
Cuối
tuần, khách du lịch từ Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan đến Móng Cái nghỉ rất
đông. Các cửa hàng, khách sạn, cho đến sân golf dường như hoạt động hết công
suất. Tất cả tiền đều chẩy vào túi chủ Trung Quốc, chẳng có thứ gì của Việt Nam
được tiêu dùng, trừ những người phục vụ luôn là người Việt Nam biết hai thứ
tiếng. Vì thế dân ba miền Bắc Trung Nam rủ nhau về Móng Cái như trẩy hội, kẻ
không ruộng nương lên đây làm cửu vạn, người có vốn lên đây đánh hàng”.
Móng
Cái thì như vậy, còn Trà Cổ ông Thiên Thư viết:
“Tôi về thăm Trà Cổ
vào những ngày cuối tháng Bảy dương lịch, khi cả nước tổ chức “về nguồn”, đại
giỗ cho những người con đất Việt đã chiến đấu và hy sinh trong các cuộc chiến
tranh. Duy chỉ có vành đai biên giới phía Bắc này khói hương không được tỏa. Ba
mươi năm qua những con người nằm xuống trong cuộc chiến đấu với bọn xâm lược
Trung Quốc không được ghi nhận, ở nghĩa trang, trên bia mộ, trong sách sử và
truyền thông cả nước không được nhắc đến…
Có những quá khứ bị
buộc phải bịt kín và lờ đi để phục vụ cho lợi ích hiện tại, nhưng tương lai sẽ
như thế nào sau những gì đang diễn ra. Có thể lâu lâu tôi về đây mà ngây ngấy
đâm lo, rồi nỗi lo của tôi cũng vơi đi theo nhịp sống hối hả của thị thành,
nhưng những người dân miền biên ải thì đêm chẳng yên giấc, mối lo mất nước luôn
thường trực như những gì buộc họ phải khắc cốt ghi tâm.
Đứng từ mũi cực đông
Sa Vĩ, phóng tầm mắt về phía đông bắc có thể trông thấy cột mốc biên giới trên
biển Việt – Trung, cứ vài phút lại thấy ca nô của lực lượng biên phòng phóng
vút trên mặt sóng. Bên kia vùng biển của Trung Quốc, những cảng biển, cầu tầu
hiện đại và những công trình kiên cố trải dài trắng rực cả vành đai biên giới…
Một
ông lão làng chài nhìn thời vận mà thốt lên “Danh nghĩa là đất của mình,
nhưng Trung Quốc đã thuê 50 năm tới, không chỉ Trà Cổ, Móng Cái mà cả
cái tỉnh Quảng Ninh này, từ sân golf, khách sạn, các khu trung tâm mua sắm,
quảng trường cho đến cái quán ăn vỉa hè đều có chủ là người Trung Quốc. Sống
trên đất Việt, nhưng người Việt chỉ là kẻ làm thuê, lại phải tiêu dùng mọi thứ
hàng hóa của Trung Quốc thì có đau không, có lo không?”.
Ngày
trước, đứng từ mũi Sa Vĩ địa đầu phía đông của tổ quốc có thể chiêm ngưỡng được
vẻ đẹp của bờ biền Trà Cổ cong và dài 17 cây số, được mệnh danh là thơ mộng
nhất Việt Nam. Nhưng bây giờ nhìn từ bức phù điêu này, Trà Cổ chỉ là một bãi
lầy xộc xệch, bờ biển bị băm nát rào kín bởi các dự án của Trung Quốc, có chăng
chỉ là hai cây đa do ông Trần Đức Lương (cựu Chủ Tịch nước) và Nguyễn Tấn Dũng
(đương kim Thủ Tướng) trồng, nó ốm yếu trước gió biển Đông Thổi vào.
Bạc
nhược thay! Án ngữ mũi Sa Vĩ ngày nay là sân golf 18 lỗ của Trung Quốc. Để lấy
đất làm sân golf này, người ta đã cho di dời cả ngôi miếu thờ thần hoàng làng,
rồi bứng cả đồn biên phòng nằm sát mép biển vào sâu trong bờ. Bao quanh sân
golf là rừng phi lao kín, lớp ngoài là dây kẽm gai che chắn mọi sự tò mò từ bên
ngoài.
Từ
mũi Sa Vĩ theo con đường nhựa đến mái đình Trà Cổ, hai bên đường đã thay đổi
nhiều, nhà cao tầng, khách sạn, nhà trọ mọc lên rất nhiều, nhưng vẫn thấp
thoáng những cụ già ngồi vá lưới trong những căn nhà ọp ẹp buồn đến cay mắt.
Trà Cổ đã thay đổi rất nhiều, nhưng ngôi đình Trà Cổ là vẫn thế gần 600 năm
qua. Nếu đình Trà Cổ là báu vật, là cột mốc khẳng định chủ quyền văn
hóa của Việt Nam tại vùng biên ải này thì người dân Trà Cổ sống làm
người nước Nam, có chết vẫn là “thằng người” làm ma nước Nam như một bô lão
trong làng đã khẳng định”.
(Thiên
Thư: Từ mũi Sa Vĩ nhìn về Móng Cái: Trung Quốc làm chủ, Việt Nam làm thuê/nguoi-viet.com/7/29/2009)
Sợ
mất nước đã thành chủ lưu thì thì sự phê phán chính quyền Cộng Sản đã đưa đất
nước đến nguy vong đó cũng đã thành chủ lưu. Nói thẳng, không còn sợ, kiêng nể
gì nữa đã trở thành hiện tượng đặc biệt dưới chế độ độc tài toàn trị. Hàng ngày
cứ lướt qua những trang mạng trong nước như: Tự Do Ngôn Luận, Bauxitvietnam,
Dân Luận, X-café… chúng ta sẽ thấy những bài phê phán đảng và chính quyền Việt
Nam về thái độ khiếp nhược và tiếp tay cho sự xâm lấn của Trung Quốc.
Ở đây xin chép lại
ít điều:
1. Trước hết là
tiếng thơ của người trẻ:
Trong
bài Đất của Thái Hữu Tình có đoạn:
Nghìn
năm văn vật
Không
bằng lô đất mặt tiền
Cướp
đất của dân, rồi Tàu cũng cướp.
Tổ
quốc đang thành xơ mướp
Nhanh
tay nào, mau cướp chúng bay ơi.
Trong
bài “Một ngày phải khác mọi ngày” Bùi Chí Vinh đã viết:
Chào
một ngày đất nước tự lưu vong
Cội
rễ văn hiến 4000 năm trốc gốc
Tuổi
teen gối đầu giường Lý An, Ngô Vũ Sâm, Trương Nghệ Mưu, Trần Khải Ca lạ hoắc.
Pano
giăng khắp nơi hình ảnh Củng Lợi, Chương Tử Di, Thành Long phơi phới toét miệng
cười.
Chào
một ngày phát triển giống đười ươi.
Đi
trên xã tắc thấy người thua xa khỉ
Thấy
lô cốt ngáng đường, thấy nước ngập tận mông, thấy thánh hiền sợ quỷ.
Thấy
truyền thống chống ngoại xâm co rúm lại vì tiền.
Chào
một ngày vong bản vì hèn.
Sống
chết mặc bay, túi thầy vô cảm.
Ải
Nam Quan nằm ngoài ranh giới Việt Nam, xưa rồi Diễm
Nước
mắt Nguyễn Trãi khóc Phi Khanh rơi tận nước Tàu
Chào
một ngày giống hệt cõi âm
Những
xác chết anh hùng bật dậy
Máu
trả máu, đầu trả đầu. Nhớ đấy
Mãi
quốc cầu vinh, tất quả báo nhãn tiền.
Chào
một ngày soi rõ mặt anh em.
2. Thư của một phụ
nữ tên N.H gửi các bác Đồng Sỹ Nguyên, Nguyễn Trọng Vĩnh và Nguyễn Hữu Anh trên
mạng Bauxit Việt Nam có đoạn:
“Thưa
các bác, việc 10 tỉnh cho nước ngoài thuê đất rừng 50 năm đã là con số cuối
cùng chưa ạ? Việc cho nước ngoài thuê đất ven biển 50 năm liệu có gây hậu họa
như việc cho thuê đất rừng 50 năm không? Cảng Đà Nẵng là vị trí chiến lược quân
sự cực kỳ quan trọng, thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đều chọn để đổ bộ vào xâm
lược Việt Nam. Vậy mà hiện nay, đất ven biển Đà Nẵng cũng đã cho nước ngoài (có
cả Trung Quốc, Đài Loan) thuê 50 năm…
Việc
cho nước ngoài thuê đất rừng, ven biển hình như mang lại siêu lợi nhuận về kinh
tế, cho nên các tỉnh, thành phố đã coi nhẹ vấn đề an ninh quốc gia hay còn một
lý do nào khác nữa mà sao cháu thấy họ đua nhau cho thuê nhiều đến thế?
Một
vị lãnh đạo cao nhất của thành phố trực thuộc trung ương đã trả lời và phân
tích cho cử tri khi họ thắc mắc về việc thành phố cho nước ngoài thuê 50 năm
quá nhiều đất ven biển: “Chúng ta chẳng phải làm gì cả mà lại có tiền
thu được từ việc cho thuê đất và từ các dịch vụ kinh doanh của họ thì sướng quá
chứ còn kêu ca, thắc mắc cái gì. Thành phố chỉ cho thuê 50 năm chứ có bán đâu
mà sợ mất nước”.
Cháu
thấy câu trả lời phân tích của vị lãnh đạo sao mà đơn giản quá và hình như là
còn chưa xứng tầm nữa, phải không bác?
3. Tiếng nói của trí
thức
Trong bài “Tổ Quốc
bao giờ nhục thế này chăng?”, nhà thơ Bùi Minh Quốc đã viết:
Hỡi
sông Hồng tiếng thét bốn nghìn năm
Tổ
quốc bao giờ nhục thế này chăng?
Hãy
trông kìa
Bọn
thẻ đỏ tim đen tiếm quyền hóa giặc
Bịt
miệng người kêu nỗi đau Ải Bắc
Bóp
cổ người thét nỗi nhục Hoàng Sa
Sông
có nghe nỗi nhục chuyển sơn hà?
Giáo sư Hà Văn
Thịnh, Đại Học Khoa Học Huế, trong bài “Đất nước đang bất ổn thật rồi” có đoạn:
“Dân tộc Việt Nam
đang sống trong nền văn minh nào đây? Nếu nói là nền văn minh “của dân”, sao
người dân khổ thế? Nếu nói rằng đây là nền văn minh của chịu đựng và nhẫn nhục
thì xin hỏi, chờ đến bao giờ? Nếu nói rằng nền văn minh “hữu nghị” của “thỏa
đáng thật thà”, sao dối trá và lường gạt cứ như chuyện chợ trời?
27
tháng 5, thả ngư dân bị bắt, sau khi đã trấn lột hơn nửa tỷ đồng tài sản của
ngư dân ta, ông Hồ Cẩm Đào nói rằng đã tìm được giải pháp “thỏa đáng” cho Biển
Đông. Lời ông nói gió chưa kịp thổi bay thì 29/5, ông ta xấc xược và côn đồ khi
ngang nhiên ban hành “Lệnh” cấm đánh bắt cá ở Biển Đông, phần lớn thuộc chủ
quyền của Việt Nam, từ ngày 16/5 đến 1/8/2010! Năm ngày sau, ngày 4/5, lính
Trung Quốc lại bắt giữ tàu QNG-0281 với 12 ngư dân và đòi tiền chuộc 70 vạn
nhân dân tệ.
Đến
như vậy mà còn nhắm mắt đưa chân tin vào “Năm Hữu Nghị”, thì tôi không hiểu
những người lãnh đạo có trách nhiệm với dân tộc, đất nước hiện nay đang muốn
làm gì khi cứ cúi đầu thấp hơn nữa? Điện Biên Phủ đâu? Hào khí Bạch Đằng,
Chương Dương, Hàm Tử ở đâu, hay đang rủ nhau cùng trốn chạy trong cái góc khuất
hay tăm tối đớn hèn nào đó?”.
Ông Hà Sĩ Phu, trong
bài “Từ Vụ Bauxite nghĩ Về Vận Nước”, đã viết:
“Trong
lịch sử 4000 năm đã có bao giờ bị thất thủ mất đất, mất biển đơn giản như thế,
đã có bao giờ ngoại bang cưỡi lên lưng, tóm lấy yết hầu, chi phối nhân sự dễ
dàng như thế? Đã có bao giờ người cầm đầu xã hội bạc nhược đến mức không dám
gọi đến tên kẻ đã đánh giết dân mình, chứ chưa nói đến có gan chống lại”.
(doi-thoai.com/7/27/2009)
Và trong bài “Giải
“Cộng” Nhi Thoát”, ông lại viết:
“Phơi
hết sự tàn bạo bất cận nhân tình không cần che đậy, tự “khỏa thân chính
trị” của chế độ chuyên chính trong nước. Đồng thời, sự chuyên chính
trong thế giới Cộng Sản với nhau cũng “khỏa thân” luôn không che đậy: Việc
chính thức thành lập thành phố biển Tam Sa với đầy đủ quy chế hành chính và
quân sự, việc kêu gọi đầu tư ngay trong thềm lục địa đương nhiên của Việt Nam,
đưa 23.000 tàu đánh cá tràn vào vùng biển Việt Nam… đã tự lột trần cái bản mặt
giả dối của chủ nghĩa quốc tế Cộng Sản đến mức không còn một chút lá
nho, cả những 16 chữ vàng, quan hệ 4 tốt, và cuộc thi ca khúc Việt-Trung và lời
kêu gọi tri ân kẻ đã xâm lược cũng trở nên trơ trẽn, hèn hạ không thể chấp
nhận”…
Đến
giai đoạn này thì các Blogger trong nước cũng không giữ lễ nữa: Không cần ám
chỉ mà kể thẳng tên dù là thủ tướng hay tổng bí thư, hay Bộ Chính Trị. Mác- Lê
không còn là điểm nhạy cảm phải kiêng, lại còn nghi ngờ rằng Đảng và nhà nước
có định chống xâm lược thật không (hay đã đồng tình với giặc xâm lược?), coi
chính quyền chỉ là một đám cướp lớn phản động đã rõ ràng”.
(danchimviet.info/8/10/2012)
III.
Nghĩ gì
Qua những phần trình bày về Nhật Bản hậu chiến và Việt
Nam hậu chiến, chúng tôi có mấy nhận định sau đây:
1. Sau cuộc chiến
tranh vì tham vọng mở rộng đế quốc, Nhật bại trận và trở thành một nước bị Hoa
Kỳ cai trị.
Nhưng Yoshida và đảng Dân Chủ Cấp Tiến đã nương theo Chế Độ Chiếm Đóng để tìm
sinh lộ cho nước Nhật mà sinh lộ này đã bị chế độ quân phiệt Nhật hủy diệt. Cái
may của Nhật là Hoa Kỳ tới cai trị, nhưng không coi Nhật là kẻ thù mà đến để
giúp Nhật hủy diệt chế độ quân phiệt và thực hiện những cải cách dân chủ cho
Nhật. Từ đó, Yoshida đã có cơ hội để thực hiện chủ trương ông đã ôm ấp từ thập
niên 1930 là Nhật phải trở thành cường quốc đại dương và phải liên kết với thế
giới Tây Phương trên hướng đó mà sau đệ nhị thế chiến thì Mỹ đã thay Anh đứng
đầu thế giới này.
Nhưng
thời gian Yoshida làm thủ tướng (7 năm từ 1946 tới 1954) lại rơi vào thời gian
khởi đầu chiến tranh lạnh (1947) với sự hình thành khối Cộng Sản do Liên Sô
lãnh đạo. Vì thế ông phải đối phó với phong trào do Tả Phái, đảng Cộng Sản và
trí thức Nhật đòi Mỹ rút quân, đòi trung lập như chủ trương của Mac Arthur trong
giai đoạn đầu việc chiếm đóng. Ông biết tinh thần và ước nguyện của dân Nhật.
Nhưng ông cũng biết Mỹ sợ Nhật ngả về phía Cộng Sản và sẽ kéo dài việc chiếm
đóng, nên ông đã thỏa thuận với Mỹ để quân Mỹ ở lại đất Nhật với điều kiện là
Mỹ trả lại nền độc lập cho Nhật.
Mặc
dù Hiệp Ước An Ninh Mỹ-Nhật đã đem tới cho ông nhiều cay đắng khi báo chí gọi
ông là “bù nhìn của Mỹ”, nhưng ông đã giữ chính quyền tới năm 1954, khi Nhật đã
lấy lại chủ quyền, kinh tế đã phục hồi và chạy đều với con đường sống ông đã mở
cho Nhật. Con đường đó là Nhật phải liên kết với Mỹ và Tây Phương và vận dụng
cái dù an ninh của Mỹ và viện trợ Mỹ để phát triển kinh tế với kỹ thuật mới. Từ
đó, Nhật đã có thể mở rộng thị trường vào Mỹ Châu, Âu Châu và Á Châu. Mục tiêu
này chiến tranh của chế độ quân phiệt đã thất bại. Nhưng trong hòa bình,
Yoshida đã thực hiện giấc mộng này cho nước Nhật. Và từ sự thành tựu kinh tế
của Nhật, nhiều sử gia viết về Nhật Bản đều có một nhận định là Nhật đã thua
trong chiến tranh nhưng thắng trong hòa bình.
2. Còn Việt Nam,
việc tìm đường cho nước của đảng Cộng Sản đã đưa đất nước vào vòng phân tranh
Quốc Cộng, với một thảm kịch máu xương, tàn phá và thù hận đến nay chưa dứt. Sự chiến thắng của
đảng Cộng Sản Trung Quốc cuối năm 1949 là cơ may cho đảng Cộng Sản Việt Nam,
nhưng lại là vận đen cho dân tộc Việt Nam. Vì đảng Cộng Sản Trung Quốc đã dùng
chủ nghĩa Cộng Sản và dùng viện trợ để cột chặt Cộng Sản Việt Nam vào đảng Cộng
Sản Trung Quốc. Với cái nợ chủ nghĩa, cái nợ viện trợ và cái nợ dựa lưng Trung
Quốc để tồn tại, Cộng Sản Việt Nam đã đưa đất nước vào vòng lệ thuộc Trung
Quốc.
3. Hầu hết những
cuốn sử Nhật Bản đều có phần viết về chính sách của Yoshida đã buộc Nhật phải
lệ thuộc Mỹ về đường lối ngoại giao trong một thời gian dài. Nhưng sự lệ thuộc
về ngoại giao này Yoshida đã chọn để tìm sinh lộ cho nước. Vì ông biết Mỹ cần
Nhật trong chiến lược chận Cộng Sản, còn Nhật cần Mỹ để phát triển. Vì thế ông
đã nói với những ngưòi cộng sự thân tín: “Chẳng được gì khi từ bỏ Tây Phương để
ủng hộ những nước Á Châu” (ám chỉ mấy quốc gia Trung Lập như Ấn Độ, Thái Lan).
Yêu
nước và thực dụng, Yoshida đã mở đường cho Nhật, nhưng ông phải trả giá, vì
đụng phải tinh thần dân tộc của dân Nhật. Ông biết như thế, nên ông sợ và
Yoshida đã để lộ cái sợ này khi từ Hội Nghị San Francisco năm 1951 trở về nước,
được dân chào đón nồng nhiệt từ phi trường và dọc hai bên đường vào thành phố
Tokyo, nhưng trong khi vẫy tay chào những người dân và học sinh phất cờ, ông đã
khóc. Theo Akira Matsui, viên bí thư đi với ông thì Yoshida khóc không phải vì
cảm động mà khóc vì sợ sẽ phải chịu một số phận như ngoại trưởng Jutaro Komara,
trở về sau cuộc đàm phán kết thúc chiến tranh với Nga năm 1905. Những người dân
tộc cực đoan nghĩ rằng Jutaro đã không khai thác đủ những nhượng bộ của Nga từ
sự chiến thắng của Nhật. Vì thế Jutaro Komara đã bị nhạo báng và nhà ông bị ném
đá.
(William
Chapman, đd, tr. 88)
Theo
chúng tôi nghĩ thì sự giải thích đó có thể chỉ đúng một phần, vì Yoshida là một
chính khách có bản lãnh và cứng cỏi, nên khó có thể khóc vì sợ bị nhạo báng và
ném đá mà có thể ông đã khóc vì biết rằng ông chỉ mới thực hiện được một nửa
nguyện vọng của dân Nhật là thu hồi nền độc lập, nhưng vẫn phải để quân Mỹ trên
đất Nhật. Hoa Kỳ đã giúp Nhật tái thiết thời hậu chiến, tan nát và đói, nhưng
dân Nhật đòi Mỹ phải ra khỏi nước Nhật, mà Yoshida chưa thể hoàn thành được
điều này.
Yêu
nước và tận lực tìm đường sống tự do và phát triển cho nước, nhưng Yoshida sợ
tinh thần dân tộc Nhật. Và đúng như thế, vì sau khi bản Hiệp Ước An Ninh Mỹ-
Nhật được công bố, dân Nhật gồm những đảng đối lập, công đoàn, sinh viên, trí
thức đã biểu tình dữ dội khắp nơi chống Mỹ và đòi Yoshida từ chức. Mặc dù
Yoshida đã lãnh đạo Nhật qua những năm Mỹ chiếm đóng, đã giữ được danh dự cho
Nhật trước ông tướng Toàn Quyền Mac Arthur, đã đưa Nhật tới phát triển tự túc
và độc lập, nhưng ông phải từ chức năm 1954. Nhưng sau đó và đến nay thì dân
Nhật đã tôn ông là một chính khách yêu nước lớn của Nhật.
4. Chuyện người lãnh
đạo Nhật và dân Nhật như thế, còn trở lại Việt Nam, chúng tôi nhớ là sau khi
hai Hiệp Định Biên Giới và Vịnh Bắc Bộ được ký ở Hà Nội cuối năm 1999 và 2000,
thì đảng Cộng Sản và Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã mở tiệc ăn mừng. Trong đó Tổng Bí
Thư Lê Khả Phiêu, Chủ Tịch Nước Trần Đức Lương và Bộ Trưởng Ngoại Giao Nguyễn
Mạnh Cầm, mặt người nào cũng hớn hở (ảnh trên Net) nâng ly chúc tụng Bộ Trưởng
Ngoại Giao Trung Quốc Đường Gia Triền. Đó là hai hiệp định bán nước, nhưng báo
nhà nước không đăng, dân không hề biết đến một điều. Nước Việt đã tồn tại 4000
năm, nhưng bây giờ là của ai mà dân Việt phải cúi đầu để Đảng Cộng Sản ăn mừng
trên hiệp định bán nước với kẻ cướp nước?
Như
thế cho đến nay nhìn vào sự nguy vong của Việt Nam trước thủ đoạn thôn tính mềm
của Trung Quốc, chúng ta có thể nói rằng đảng Cộng Sản Việt Nam đã bắc
một cây cầu từ nô lệ Tây qua nô lệ Tàu mà cây cầu đó đảng Cộng
Sản đã xây bằng xương máu của dân Việt.
Tiếng
kêu thảng thốt: Việt Nam tôi đâu? Việt Nam tôi đâu? Giờ đây Việt Nam Còn hay
đã mất mà giặc Tàu ngang tàng trên quê hương ta… của nhạc sĩ Việt
Khang là tiếng kêu chung của dân Việt trước đêm đen của dân tộc.
Nhưng
chúng ta vẫn có niềm tin vì trong đêm đen ấy luôn luôn có những tia lửa bùng
lên. Tia lửa đó là những phiên tòa của những kẻ bán nước xử những người yêu
nước. Tia lửa đó là sự kiên định bất khuất của những người phải ở trong nhà tù
vì chống Tàu. Tia lửa đó là là sự dũng cảm thách đố bạo lực của những nhà sư
như Hòa Thượng Quảng Độ, Hòa Thượng Viên Định, những vị trí thức như các ông Hà
Sĩ Phu, Bùi Minh Quốc, Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Quang A, Phạm Toàn, Nguyên Ngọc,
Nguyễn Xuân Diện, Nguyễn Đan Quế, Huỳnh Ngọc Tuấn, Phạm Hồng Sơn… cùng những
người trẻ như Huỳnh Thúc Vy, Lê Thị Công Nhân, Phạm Thanh Nghiên, Trịnh Kim
Tiến, Bùi Hằng…
Những
tia lửa đó là hồn nước. Trước nguy cơ mất nước, và trở thành dân nô lệ của
Tàu, sẽ có một ngày những tia lửa ấy kết lại thành biển lửa để đem lại độc lập
cho nước và quyền sống tự do của con dân Việt.
-
Việt Nam tôi đâu? Việt Nam tôi đâu?
-
Việt Nam ở trong lòng chúng ta.
-
Việt Nam ở trong hồn dân Việt.
Sách tham khảo:
1.
William Chapman: Inventing Japan. The Making of a Postwar Civilization,
Prentice Hall Press, New York, 1991.
2.
James L. Mcclain: Japan: A Modern History. W. W. Norton & Company,
New York, 2002.
3.
Mikiso Hane: Modern Japan: A Historical Survey. Westview Press. Boulder,
1986.
4.
Edwin O. Reichauer. Japan: The Story of a Nation. Alfred A. Knopf. New
York, 1970.
5.
Kenneth Henshall: A History of Japan: From Stone Age to Superpower.
Palgrave Macmillan. London, 2004.
©
Đàn Chim Việt
-----------------------------------------------
1-2-2013
1-2-2013
1-2-2013
No comments:
Post a Comment