01:26:am
30/01/13
Nhật
bại trong chiến tranh nhưng thắng trong hòa bình.
Sử Nhật Bản
Chúng
ta sẽ đuổi kịp Nhật trong 15, 20 năm và nhân dân ta sẽ đi trên thảm vàng.
Lê Duẩn
Có
đảng Cộng Sản mới có đổi mới.
Đỗ Mười
Trung
Quốc thành công thì chúng ta cũng thành công.
Lê Khả Phiêu
Ngày
9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, lật đổ chế độ thực dân Pháp ở Việt
Nam. Ba ngày sau (11/3), Đại Sứ Nhật Yokohama đại diện Thiên Hoàng trao trả nền
độc lập của Việt Nam cho Hoàng Đế Bảo Đại. Ngày 11/3/1945, Nam triều công bố
tuyên cáo nền độc lập và thành lập chính phủ Trần Trọng Kim dưới sự yểm trợ của
Nhật. Nhưng chỉ 5 tháng sau (8/1945), Nhật đầu hàng Đồng Minh và đã tạo ra một
khoảng trống chính trị khi quân Nhật buông súng, còn chính phủ Trần Trọng Kim
chưa kịp làm gì phải buông tay. Nhân thời cơ đó, đảng Cộng Sản Việt Nam có tổ
chức và sách lược đã nhanh tay chiếm chính quyền, thành lập Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa (2/9/1945). Từ đó, nhân danh chính quyền cách mạng, đảng Cộng Sản đã
tiến hành 2 cuộc chiến tranh. Thứ nhất là kháng chiến chống Pháp, khi quân Pháp
trở lại chiếm Việt Nam năm 1946. Cuộc chiến này đã kéo dài 9 năm từ 19/12/1946
đến tháng 7/1954 giữa chính quyền Cộng Sản (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa) với Pháp
và chính phủ Bảo Đại. Và thứ nhì là kháng chiến chống Việt Nam Cộng Hòa và Mỹ
kéo dài 15 năm giữa Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở miền Bắc với Việt Nam Cộng Hòa
và Mỹ ở miền Nam. Như thế năm 1945, Nhật đi vào thời kỳ tái thiết hậu chiến thì
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa lại đi vào chiến tranh và mãi đến 30/4/1975, khi Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa thắng Việt Nam Cộng Hòa thì Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa hay
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam mới đi vào thời kỳ hậu chiến. Nhật Bản bại trận nên việc tái thiết phải đi theo chính sách của nước
chiếm đóng là Hoa Kỳ. Còn Việt Nam Cộng Sản thắng trận nên đã tiến hành tái
thiết và xây dựng xã hội chủ nghĩa trên cả nước.
Lấy mốc thời gian là 30 năm cho thời hậu chiến, chúng tôi xin
ghi lại những thành quả mà Nhật Bản và Việt Nam Cộng Sản đã đạt được trong
khoảng thời gian hậu chiến ấy.
A. Nhật Bản hậu chiến
Trước khi đi vào
thời kỳ hậu chiến của Nhật, chúng tôi xin tóm tắt ít điều về trận chiến của
Nhật ở Á Châu Thái Bình Dương:
Từ
giữa thế kỷ 19 (1868), dưới thời Minh Trị Thiên Hoàng, do thức thời biết học
Tây Phương canh tân, nên Nhật đã thoát khỏi sự thôn tính, chiếm làm thuộc địa
của những cường quốc Âu Mỹ. Nhưng khi trở thành cường quốc vào cuối thập niên
1920, Nhật cũng lại đi vào con đường bành trướng thực dân, xâm chiếm các nước Á
Châu:
-
Năm 1910, chiếm Cao Ly (Hàn Quốc).
-
Năm 1932, chiếm Mãn Châu.
-
Tháng 7/1937, xâm lăng Trung Quốc.
-
Tháng 9/1940, Nhật gia nhập liên minh với Đức Quốc Xã của Hiler và Phát Xít Ý
của Mussolini thành khối Trục Rome – Berlin – Tokyo.
-
Tháng 7-1941, không quân Nhật tấn công Trân Châu Cảng (Pearl Harbor) của Hoa
Kỳ.
-
Năm 1941, chiếm Manila, Philippines, Walk Island, Guam và Diến Điện.
Từ
đầu thế chiến II (1939), Hoa Kỳ đứng ngoài chiến tranh do đạo luật trung lập
(1935-1937). Nhưng từ khi Đức tấn công Anh quốc và Nhật Bản xâm chiếm mấy nước
Á Châu thì chính quyền Roosevelt đã thuyết phục Quốc Hội bỏ chính sách trung
lập. Khởi đầu viện trợ quân dụng cho Anh, rồi sau khi bị Nhật tấn công Trân
Châu Cảng thì Hoa Kỳ tuyên chiến với cả khối Trục.
Tháng
giêng năm 1942, ở Washington, 26 quốc gia, đứng đầu là Hoa Kỳ, Anh Quốc và Liên
Bang Sô Viết, kết thành Đồng Minh để đối phó với khối Trục.
Năm
1942, ở mặt trận Thái Bình Dương, Nhật thảm bại ở trận Coral Sea, và trận
Midway. Sau hai trận này hải quân Hoa Kỳ lấy lại ưu thế.
Cũng
năm 1942, Hoa Kỳ chiếm lại Guadal Carnal ở tây nam Thái Bình Dương, một đảo có
vị trí chiến lược, không những ngăn Nhật tiến đánh Úc Châu mà còn là một bàn
đạp để tấn công Nhật ở nam Thái Bình Dương. Vì thế chỉ sau một năm trận Trân
Châu Cảng, chiến tranh ở Thái Bình Dương đã nghiêng về phía Hoa Kỳ.
Từ
đây Nhật chuyển về thế thủ, quyết tâm giữ những đảo đã chiếm được với ý định
kéo dài chiến tranh để đánh bại tinh thần Hoa Kỳ. Nhưng tướng Mac Arthur đả sử
dụng chiến lược gọi là “Island hopping”, theo đó lực lượng Mỹ trập trung chiếm
những đảo có vị trí chiến lược, còn để lại cho quân Nhật những đảo khác. Kết
quả của chiến lược này là những đảo quân Nhật giữ đã bị cô lập, bị cắt nguồn
tiếp tế, nên đã tự bị hủy.
Sau
khi chiếm lại Phi Luật Tân (5-1945), quân Mỹ chiếm Okinawa, cắt Nhật làm đôi và
xiết chặt chu vi phong tỏa. Trên biển, thương thuyền và tàu tiếp tế của Nhật bị
tàu ngầm Mỹ tấn công, còn trên lãnh thổ Nhật thì bị B-29 thả bom tàn phá những
thành phố lớn và hủy diệt những trung tâm kỹ nghệ và quân sự.
Mặc
dù ở trong tình thế tuyệt vọng, với tổn thất quá lớn và bị phong tỏa, nhưng
Nhật vẫn tiếp tục chiến đấu theo chủ trương của phe tướng lãnh chủ chiến là cứ
để cho quân Mỹ vào Nhật và quân dân Nhật sẽ chiến đấu đến người cuối cùng. Vì
thế Hoa Kỳ đã đề ra hai giải pháp để kết thúc chiến tranh: Thứ nhất, thực hiện
một cuộc xâm lăng và thứ nhì, xử dụng một loại vũ khí mới. Theo Tổng Thống
Harry Truman (Tổng Thống Roosevelt bị bệnh chết ngày 12/4/1945), thì trận chiến
trên lãnh thổ Nhật cần 1 triệu quân và sẽ kéo dài tới 1946 với sự tổn thất ghê
gớm cho cả hai bên, còn xử dụng vũ khí mới thì kết thúc chiến tranh nhanh
chóng. Cuối cùng giải pháp thứ nhì đã được chọn.
Ngày
6/8/1945, trái bom nguyên tử với sức tàn phá 20 ngàn tấn TNT được thả xuống
Hiroshima, phá hủy 3 square miles thành phố, giết và làm bị thương trên 160.000
người. Vì không nhận được sự đáp ứng tích cực của Nhật, nên ngày 9/8 Mỹ thả
trái bom thứ nhì xuống thành phố cảng Nagasaki, giết và làm bị thương khoảng
130.000.
Ngày
15/8, Nhật Hoàng Hirohito tuyên bố đầu hàng vô điều kiện và ngày 2/9 văn kiện
đầu hàng được ký trên chiến hạm Missouri đậu trong vịnh Tokyo giữa tướng Umeza
đại diện Nhật và tướng Mac Arthur đại diện Đồng Minh. Sau đó hàng chục ngàn
binh sĩ Đồng Minh đổ bộ vào Nhật, ghi dấu lần đầu tiên trong lịch sử, Nhật bị
quân đội ngoại quốc chiếm đóng.
***
Sau khi đầu hàng, Nhật được Hoa Kỳ tiếp thu và Hoa Kỳ đã thực
hiện một chế độ chiếm đóng theo những điều khoản của Tuyên Ngôn Posdam giữa Hoa
Kỳ, Anh và Trung Hoa (Tưởng Giới Thạch) ngày 26/7/1945 và chính sách của Hoa Kỳ
đối với Nhật do Bộ Ngoại Giao, Chiến Tranh và Hải Quân soạn thảo ngày 6/9/45.
Trong đó có hai điểm căn bản:
Thứ nhất, thay đổi Nhật
thành một quốc gia hòa bình.
Thứ nhì, xây dựng một nước
Nhật dân chủ.
Trên
danh nghĩa thì đây là sự chiếm đóng của những cường quốc Đồng Minh. Nhưng thực
chất thì Hoa Kỳ chịu trách nhiệm và tướng Mac Arthur, tư lệnh lực lượng Đồng
Minh ở mặt trận Thái Bình Dương đã được trao cho nhiệm vụ thay đổi nước Nhật.
Với chức vụ Tư Lệnh Tối Cao của Cường Quốc Đồng Minh (Supreme Commander of the
Allied Powers – SCAP), Mac Arthur thiết lập Đại Bản Doanh ở Tokyo với 5000 nhân
viên và khoảng 500.000 quân để cai trị 70 triệu dân Nhật. Nhưng đó không phải
là một chính quyền quân sự mà Mac Arthur đã cai trị Nhật theo đường lối gián
tiếp thông qua chính quyền Nhật, vẫn để người Nhật cai trị người Nhật với sự
chỉ đạo và chính sách của SCAP. Trong 7
năm cai trị Nhật theo chính sách này, Mac Arthur đã hoàn thành được nhiệm vụ
thay đổi nước Nhật.
Về cá nhân, ông được dân Nhật kính trọng gọi là “Blue-
eyed Shogun”.
Về
chính sách, ông đã đạt được điều mà sử gia Mikiso Hane đã tổng kết là “Trong
lịch sử không có dân tộc nào khác đã được đối xử nhân đạo hơn và nhận được
nhiều phúc lợi hơn trong tay của những người chinh phục… Những mục tiêu mà
người chiếm đóng theo đuổi không phải là trả thù hay khai thác bóc lột mà là
những cải cách giúp Nhật đạt được một xã hội tự do và dân chủ”.
(Mikiso
Hane, Modern Japan: A historical Survey, Westview Press, Colorado, 1986.
tr. 344)
Đó
là Mac Arthur của Hoa kỳ, còn Nhật Bản trong thời kỳ bị chiếm đóng cũng xuất
hiện một nhân vật đối tác tương xứng với Mac Arthur là Yoshida Shigeru. Ông xuất thân từ Tokyo Imperial University và đi
vào ngành ngoại giao từ 1906. Trước chiến tranh, Yoshida đã giữ nhiều chức vụ ở
Trung Hoa, làm Đại sứ ở Ý và ở Anh Quốc năm 1936. Vì lập trường chống chế độ
quân phiệt, ông bị triệu hồi từ nhiệm sở ở London và buộc phải rời khỏi ngành
ngoại giao tháng 3/1939.
Không
cộng tác với nhóm quân phiệt và thêm phần bị bắt vì những hoạt động cầu hòa
trong chiến tranh, nên Yoshida đã là một trong một số ít chính khách có tiếng
trước chiến tranh không bị chế độ chiếm đóng thanh trừng. Vì thế ngay sau khi
Mac Arthur thiết lập Tổng Hành Dinh ở tòa nhà Dai Ichi ở Tokyo, Yoshida đã được
triệu lên thủ đô để nhận chức Bộ Trưởng Ngoại Giao. Rồi sau đó được thỉnh cầu
làm Thủ Tướng đầu năm 1946 và đã giữ chức vụ này gần 7 năm, suốt giai đoạn Hoa
Kỳ chiếm đóng.
Yoshida
là một chính khách bảo thủ. Vào thời kỳ đầu chế độ chiếm đóng, ông đã xếp đặt
cuộc hội kiến lịch sử đầu tiên của Nhật Hoàng Hirohito với Mac Arthur và đã hết
lòng bảo vệ ngôi vua. Với lập trường chống Cộng và thực dụng, Yoshida đã biết
cách làm việc với Mac Arthur để đưa Nhật vượt qua giai đoạn hậu chiến quá khó
khăn, đồng thời đã biết vận dụng những chính sách của SCAP để chủ động thay đổi
nước Nhật và mở đường cho Nhật đi vào thế giới dân chủ.
Sau đây là mấy
thành tựu lớn của Nhật sau chiến tranh:
I. Bại mà thành dân
chủ
Sau
khi Nhật đầu hàng, Tổng thống Harry Truman đã tuyên bố là việc chiếm đóng Nhật
có hai mục đích: Thứ nhất, chuyển Nhật thành một quốc gia hòa bình bằng cách
tận diệt những nhân tố đưa đến chủ nghĩa quân phiệt và chiến tranh. Thứ nhì,
xây dựng trên nước Nhật một nền dân chủ mạnh.
Còn
tướng Mac Arthur khi nhận trách nhiệm lãnh đạo nước Nhật đã có một chủ kiến là
đến Nhật để “tạo dựng một quốc gia mới” và ông đã ghi một danh sách
những việc phải làm như sau:
“Hủy
bỏ hiến pháp Minh Trị thay vào bằng hiến pháp Mac Arthur. Nhật phải từ bỏ chiến
tranh vĩnh viễn. Giáng Hoàng Đế Nhật từ thần linh xuống làm người. Tách Thần
Đạo ra khỏi nhà nước. Giải phóng nông dân ra khỏi chế độ nông nô và được cấp
đất. Công nhân được phép tổ chức công đoàn và đình công chống lại chủ. Giải tán
Zaibatsu, hệ thống đại công ty kỹ nghệ thương mại và thay bằng một hệ thống
kinh tế với những xí nghiệp nhỏ. Phụ nữ được bình đẳng với nam giới. Xóa bỏ chế
độ gia trưởng, trong đó người cha, người chồng là những ông vua nhỏ. Thanh trừng
những người đã tạo ra chiến tranh. Hủy bỏ phương pháp học thuộc lòng và tôn thờ
Hoàng Đế ở trường học. Mở cửa chính trị cho mọi người…”.
Qua
lời của Tổng Thống Truman và qua danh sách ghi việc của tướng Mac Arthur, chúng
ta hiểu một điều là nửa thế kỷ học Tây phương để canh tân từ thời Phục Hưng
Minh Trị (1860), Nhật Bản đã trở thành cường quốc tính tranh bá cùng những
cường quốc Tây phương, nhưng đã bỏ quên nâng cao giá trị dân chủ và vị thế con
người trong xã hội Nhật Bản. Vì thế trong chương trình dựng lại nước Nhật,
tướng Mac Arthur khởi đầu đã tiến hành việc phi quân sự hóa và xây dựng chế độ
dân chủ:
1. Phi quân sự hóa:
Vấn
đề này gồm mấy việc:
a. Giải ngũ quân đội
Nhật và hồi hương binh sĩ cùng thường dân Nhật ở ngoài nước Nhật. Việc hồi
hương 3.300.000 binh sĩ và khoảng 3.200.000 thường dân đã kết thúc vào đầu năm
1948.
b. Những cơ sở quân sự
Nhật ở Nhật, ở Đông Nam Á và Thái Bình Dương được dỡ bỏ, còn quân dụng, vũ khí
bị phá hủy.
c. Thiết lập tòa án
quân sự quốc tế để xử những người tạo ra chiến tranh. Việc xử án đã kéo dài từ
1946 tới 1948. Kết quả xử tử (treo cổ) 7 người trong số 25 bị cáo, trong đó có
tướng Tojo, thủ tướng chiến tranh từ 1941 đến 1944. 18 người còn lại đã nhận
những án tù dài hạn, nhưng đến năm 1957, những người này đã được giảm án.
d. Thanh trừng những
phần tử quan trọng liên hệ đến những nỗ lực chiến tranh. Việc điều tra này đã
kéo dài từ 1946 đến 1948. Kết quả là 220.000 người gồm doanh nhân, kỹ nghệ gia
và cựu sĩ quan đã bị loại ra khỏi guồng máy chính quyền, hay bị cấm hoạt động
trong khoảng 5 năm hay hơn.
Trên
tiến trình xử tội phạm chiến tranh, số phận của Hoàng Đế Hirohito và số phận
của chế độ quân chủ cũng được bàn cãi ở Nhật cũng như ở Mỹ. Nhưng tướng Mac
Arthur đã nhận chân vị thế của Hoàng Đế trong lòng người dân Nhật, trong truyền
thống Nhật và giá trị của ông trong việc ổn định xã hội để thực hiện những mục
tiêu của việc chiếm đóng. Vì thế khi chính quyền Mỹ hỏi ông về vấn đề này, Mac
Arthur đã trả lời: “Tôi tin rằng nếu Hoàng Đế bị kết tội và có thể bị treo cổ như
là một tội phạm chiến tranh thì chính quyền quân sự Mỹ sẽ phải được thiết lập
trên khắp nước Nhật, và chiến tranh du kích có thể sẽ bùng nổ”.
(Mikiso
Hane: đd, tr. 346)
Nhiều
sử gia viết về nước Nhật đã có một nhận định chung là sự sáng suốt của Mac Arthur
đã cứu Hoàng Đế Hirohito và giữ yên chế độ quân chủ. Nhưng vị trí của ông và
bản chất của chế độ quân chủ sẽ được thay đổi trong bản hiến pháp mới do SCAP
soạn thảo để làm nền cho việc dân chủ hóa chế độ.
2. Xây dựng chế độ
dân chủ
a. Thay đổi hiến pháp
Đầu
năm 1946, theo chương trình dân chủ hóa, nội các Shidehara Kijuro chịu trách
nhiệm soạn thảo bản hiến pháp mới, nhưng tướng Mac Arthur đã bác bỏ bản hiến
pháp này vì đã giữ nguyên cơ cấu chính trị Nhật như hiến pháp Minh Trị (1889).
Sau đó ông đã chỉ thị tướng Coutney Whitney, người đứng đầu Bộ Phận Chính Quyền
trong Tổng Hành Dinh Đồng Minh (Allied Powers General Headquarters – GHQ) thành
lập một ban đặc nhiệm soạn thảo hiến pháp, căn cứ theo tài liệu chỉ dẫn của Bộ
Ngoại Giao, Chiến Tranh và Hải Quân Mỹ. Đó là bản hiến pháp Mac Arthur. Sau khi
được chính phủ Nhật sửa chữa chút ít, bản hiến pháp mới được chuyển lên Quốc
Hội dưới hình thức là một tu chính án của hiến pháp Minh Trị (1889), và được
thông qua ngày 3/11/46.
Hiến
pháp mới đã thay đổi nước Nhật từ một nước quân chủ lập hiến hình thức, còn bản
chất là quân chủ chuyên chế thành một nước dân chủ đại nghị với những điểm
chính như sau:
-
Hoàng Đế là biểu tượng của quốc gia và sự thống nhất của nhân dân.
-
Quyền tối thượng thuộc về nhân dân.
-
Quốc Hội gồm hai viện: Hạ Viện (House of Representatives) và Thượng Viện (House
of Councillors) đều do dân bầu và Hạ Viện có quyền cao hơn Thượng Viện.
-
Đảng chiếm đa số ghế Hạ Viện sẽ thành lập nội các. Thủ tướng và các bộ trưởng
trong nội các đều là đại biểu Hạ Viện và chịu trách nhiệm trước quốc hội.
-
Tư pháp độc lập với quốc hội và hành pháp.
-
Thực hiện quyền tự trị địa phương: Quận trưởng, thị trưởng và hội đồng thành
phố đều do dân bầu.
-
Từ bỏ chiến tranh và không duy trì quân lực.
-
Nam nữ bình quyền, vợ chồng bình đẳng.
-
Nhân quyền được bảo đảm, đặc biệt là quyền sống tự do và theo đuổi hạnh phúc.
-
Quyền phổ thông đầu phiếu cho công dân từ 20 tuổi.
-
Tôn giáo được tách khỏi nhà nước.
-
Công nhân có quyền tổ chức công đoàn, đình công và thương lượng tập thể với
chủ.
-
Thiết lập nền giáo dục tự do và bình đẳng.
-
Hủy bỏ giai cấp quý tộc (peerage).
Vào
Tết năm 1946, trước khi hiến pháp mới có hiệu lực, Hoàng Đế Hirohito, theo sự
khuyến khích của SCAP, đã tuyên bố ông không phải là thần thánh (divine). Từ đó
ông thường ra khỏi cung điện để thăm hỏi dân tình.
3. Cải cách kinh tế
Để
thực hiện mục tiêu dân chủ hóa kinh tế, SCAP tiến hành thay đổi hệ thống kỹ
nghệ và ruộng đất ở nông thôn.
a. Về kỹ nghệ:
Những
nhà làm chính sách ở Washington căn cứ trên những chứng cớ, thống kê và điều
tra đã kết luận rằng:
-
Hệ thống Zaibatsu đã kiểm soát 3/4 những hoạt động kỹ nghệ và thương mại và
những người đứng đầu hệ thống Zaibatsu đã thông đồng với giới quân phiệt để mở
rộng đế quốc Nhật.
-
Sự tập trung tài sản quá lớn đã ngăn cản việc phát triển dân chủ ở nhật.
Vì
thế việc đầu tiên đối với kỹ nghệ là phải phá bỏ hệ thống Zaibatsu. Theo đó
những thành viên trong gia đình của Zaibatsu và những người điều hành hàng đầu
phải bị thanh trừng. Những công ty chủ quản Zaibatsu (holding company) phải bán
chứng khoán cho công chúng.
Việc
thứ nhì là ban hành luật chống độc quyền, cấm cartels, trusts cùng những thỏa
hiệp hạn chế mậu dịch.
Thứ
ba là ban hành luật hủy bỏ sự tập trung quá mức của quyền lực kinh tế. Luật này
cho phép hủy bỏ bất cứ công ty nào chế ngự một thị trường đặc biệt mà những
công ty mới vào khó tồn tại.
Theo
luật này thì trên 1000 công ty sẽ bị giải tán, nên giới doanh nghiệp và chính
trị ở Nhật và Mỹ đã phản đối với lý lẽ là chương trình khó thực hiện và sẽ làm
chậm sự hồi phục kinh tế Nhật. Vì thế chương trình đã được xét lại và kết quả
là số công ty trong danh sách giải tán đã giảm từ số ngàn xuống còn 11 công ty.
Tuy thế 83 công ty chủ quản Zaibatsu bị giải tán và khoảng 5000 công ty khác
phải tổ chức lại theo luật chống độc quyền. Chẳng hạn 2 đại công ty Mitsui và
Mitsubishi đã bị phân thành 240 công ty riêng biệt.
Theo
dõi kết quả của chương trình cải cách hệ thống Zaibatsu, sử gia Mikiso Hane đã
tổng kết: “Nỗ lực hủy bỏ hệ thống doanh nghiệp lớn đã không kéo dài được lâu,
vì sau khi SCAP ra đi, hầu hết những công ty Zaibatsu cũ đã kết hợp lại, mặc dù
dưới một hình thức lỏng lẻo hơn. Và sự kết hợp đã gia tăng cùng với sự phát
triển kinh tế nhanh trong những năm cuối thập niên 1950-60”
(Mikiso,
anedđd. tr. 347)
Cùng
với chương trình thay đổi hệ thống kỹ nghệ, SCAP cũng thúc đẩy chính quyền Nhật
ban hành một số đạo luật lao động để xây dựng và phát triển phong trào nghiệp
đoàn độc lập. Trong đó có thể kể:
-
Luật nghiệp đoàn (Trade Union Law): Bảo đảm cho công nhân ở cả 2 khu vực công
và tư, quyền tổ chức, tham dự vào việc thương lượng tập thể và đình công.
-
Luật tiêu chuẩn lao động (Labor Standard Law): Qui định lương tối thiểu, giờ
làm việc tối đa (8 giờ/ngày – 48 giờ/tuần. Ngày nghỉ được trả lương, an toàn
lao động, học nghề, nghỉ bệnh, bồi thường tai nạn. Việc làm của phụ nữ và trẻ
em (hai nhóm đã bị những nhà kỹ nghệ khai thác quá mức trước chiến tranh).
Từ
sự khuyến khích của SCAP và những bộ luật lao động, số công đoàn và đoàn viên
đã phát triển nhanh chóng. Tháng 8 năm 1945 không có công nhân mang thẻ nghiệp
đoàn, nhưng tới tháng giêng năm 1946, 120 công đoàn đã được thành lập với số
đoàn viên gần 900.000. Tới năm 1949, 6.5 triệu trong tổng số 15 triệu công nhân
kỹ nghệ đã được kết nạp vào hơn 35.000 công đoàn.
b. Về cải cách ruộng
đất:
Khi
chiến tranh kết thúc, 70% nông dân là tá điền hay phải thuê thêm đất, và số đất
được thuê mướn chiếm khoảng 46%. Nhưng Nhật không có điền chủ lớn, chỉ vào
khoảng 2000 điền chủ có 100 acres. Hầu hết những cá nhân làm chủ chỉ khoảng 10
acres.
Dưới
sự chỉ đạo của SCAP, Quốc Hội đã thông qua luật cải cách ruộng đất tháng 10 năm
1946. Đạo luật này đã giải quyết việc phân chia ruộng đất cho nông dân như sau:
-
Chính quyền mua tất cả ruộng đất của địa chủ vắng mặt (không sống thường trực
trên đất của mình), rồi bán lại cho nông dân theo giá mua. Mỗi gia đình được
mua 2.5 acres và phải trả trong 30 năm với lãi xuất 3.2%.
-
Việc mua bán đất được 13.000 Ủy Ban Ruộng Đất điều hành do địa phương bầu ra.
-
Địa chủ sống trên đất của mình được giữ lại 2.5 acres để canh tác và thêm 7.5
acres có thể cho thuê.
-
Một sự kiện đặc biệt là nông dân đã mua được đất ruộng với giá rất thấp, vì sự
lạm phát phi mã sau chiến tranh, với hậu quả là tiền mất giá giữa thời gian khi
giá bồi thường được quyết định và thời gian khi mua bán kết thúc, đưa đến một
tình trạng là địa chủ thực tế đã không được bồi thường. Trong nhiều trường hợp
giá mỗi acre trả cho địa chủ chỉ bằng một cây thuốc lá ngoài chợ đen. Tình
trạng này đã giúp cho nông dân có thể trả hết số nợ mua đất trong thời gian
ngắn.
Chương
trình cải cách điền địa kết thúc vào tháng 8/1950. Với kết quả khoảng 2.8 triệu
acres đất ruộng và 1.95 triệu acres đất vùng cao đã được mua từ 2.34 triệu địa
chủ và bán lại cho 4.75 triệu tá điền và những nông dân có ít đất hơn mức tối
đa theo luật. Sự thành tựu của chương trình cải cách ruộng đất đã nhanh chóng
đưa nông dân Nhật lên vị thế độc lập và biến Nhật thành một xứ sở của tiểu
nông.
4. Cải cách giáo dục
Trên
hướng dân chủ hóa và mở rộng giáo dục, SCAP đã tiến hành thay đổi nền giáo dục
của Nhật như sau:
-
Thứ nhất, về cấu trúc đã mô phỏng hệ thống giáo dục của Mỹ, bao gồm tiểu học 6
năm, trung học đệ nhất cấp 3 năm, trung học đệ nhị cấp 3 năm và cao đẳng 4 năm.
-
Thứ nhì, về triết lý giáo dục, bỏ sắc lệnh giáo dục của Hoàng Đế và thay bằng
bộ luật căn bản giáo dục với nội dung: “Đề cao giá trị cá nhân và nỗ lực đào
tạo những công dân yêu chân lý và hòa bình”. Vì thế, học đường đã bỏ những giáo
trình về đạo đức, luân lý và những nhà giáo dục đã viết lại sách giáo khoa với
nội dung đề cao những giá trị dân chủ và hòa bình, đặc biệt về các ngành khoa
học xã hội.
-
Thứ ba, về mở rộng giáo dục, SCAP mở rộng cửa giáo dục cho học sinh tiếp tục
học sau 9 năm giáo dục cưỡng bách. Vì thế trường đại học đã được thiết lập ở
mỗi quận (Prefecture) và đại học tư cũng được thiết lập theo sự khuyến khích
của SCAP. Nói chung, đến cuối thập niên 1960, Nhật đã có khoảng 600 trường đại
học và cao đẳng.
5. Phát triển chính
trị dân chủ
Trên
tiến trình dân chủ hóa chính trị Nhật Bản, SCAP đã tiến hành những bước như
sau:
a. Mở đường cho tự do
lập hội:
Ngay
sau khi nắm quyền cai trị Nhật Bản, SCAP ban hành “Civil Liberties Directive”,
tháng 10/1945 và ra lệnh phóng thích tất cả chính trị phạm, khoảng 3000 người,
trong đó có nhiều đảng viên Cộng Sản, đáng kể là 2 thủ lãnh Cộng Sản Tokuda
Kyuichi và Shiga Yoshio. Với quyền tự do lập hội, chính đảng đủ các khuynh
hướng: Bảo thủ, cấp tiến, xã hội và cộng sản đã thi nhau xuất hiện, khoảng trên
300 đảng. Chính việc mở đường tự do này mà những người Cộng Sản đã gọi lực
lượng chiếm đóng là quân giải phóng.
b. Thực hiện bầu cử:
Sau
khi chấp nhận đầu hàng, Nhật Hoàng đã chỉ định hoàng thân Higashikuni lập nội
các thay Đô Đốc Kantaro Suzuki ngày 16/8/45. Nội các Higashikuni đã từ chức sau
45 ngày, nên Shidehara, người chủ trương chính sách hòa bình trước và sau thế
chiến II, đã được SCAP chỉ định lập nội các mới (9/10/45). Nhưng nội các
Shidehara chỉ tồn tại được 6 tháng, vì đảng Cấp Tiến của Shidehara đã về nhì
trong cuộc bầu cử đầu tiên sau chiến tranh. Đảng Tự Do đã về nhất, đáng lẽ lãnh
tụ đảng, Hatoyama Ichiro, thành thủ tướng, nhưng ông đã bị SCAP thanh trừng vì
những hoạt động trước và trong chiến tranh của ông. Vì thế Yoshida Shigeru, Bộ
Trưởng Ngoại Giao trong nội các Shidehara, đã thay Hatoyama lập nội các.
Hiến
pháp mới có hiệu lực từ tháng 5/47, nên SCAP ra lệnh tổ chức bầu cử vào tháng
4/47. Kết quả bầu cử: Đảng Xã Hội (Socialist party) về nhất, lãnh tụ đảng là
Katayama liên minh với đảng Dân Chủ của Ashida, lập nội các. Nhưng chính quyền
Xã Hội đã hoàn toàn bất lực do sự phân tranh nội bộ và đổ tháng 3/ 1948. Ashida
thay Katayama lập nội các, nhưng nội các Ashida cũng đổ sau mấy tháng (10/48)
do bất lực, tham nhũng và hối lộ.
Yoshida
trở lại chính quyền trong tháng 10/48, và ông đã tổ chức một đảng mới, đảng Dân
Chủ Tự Do (Democratic Liberal Party) bằng sự kết hợp đảng Tự Do với thành phần
chống đối trong đảng Dân Chủ. Trong cuộc bầu cử tháng 1/1949, đảng Dân Chủ Tự
Do thắng lớn, từ 152 lên 264 ghế, trở thành đảng đầu tiên sau chiến tranh nắm
đa số tuyệt đối trong Hạ Viện gồm 466 ghế. Đảng Dân Chủ về nhì, nhưng bị tụt từ
90 xuống 68 ghế, đảng Xã Hội từ 111 xuống 49 ghế. Còn đảng Cộng Sản lấy lại
được một phần thanh thế, từ 4 lên 35 ghế. Từ đây, Yoshida đã giữ chính quyền
trong 7 năm (46-47 và 48-54). Với chính sách củng cố cơ chế dân chủ, khuyến
khích chủ nghĩa tư bản, liên kết với thế giới tự do, chống lại chủ nghĩa cộng
sản, ông đã vạch được con đường sống phát triển của Nhật.
Còn
những người theo xã hội chủ nghĩa, bị đàn áp trước chiến tranh, đã chấp nhận
hiến pháp dân chủ và ủng hộ những cải cách của SCAP, nhưng họ chống lại chủ
nghĩa tư bản và đòi hỏi:
-
Không được thả lỏng xí nghiệp tư.
-
Quốc hữu hóa những ngành kỹ nghệ lớn.
-
Gia tăng những chương trình phúc lợi xã hội.
Những
người xã hội chủ nghĩa cũng chống lại chính sách của chính quyền bảo thủ liên
kết với Hoa Kỳ và thế giới tư bản trong chiến tranh lạnh. Từ đó, những người
theo xã hội chủ nghĩa đã trở thành một đối lực của những lực lượng dân chủ bảo
thủ.
II. Bại mà khôi
phục nền độc lập trong 7 năm
Trong
mấy năm hậu chiến, Nhật đang nỗ lực thực hiện cải cách dân chủ và khôi phục
kinh tế thì tình hình thế giới biến đổi nhanh. Trên bình diện quốc tế, sự phân
tranh ý thức hệ tư bản – cộng sản giữa thế giới tư bản và khối cộng sản do Liên
Sô lãnh đạo đã chuyển thế giới sang chiến tranh lạnh. Còn ở Á Châu thì cuối năm
1949 đảng Cộng Sản Trung Hoa của Mao Trạch Đông đã thắng chính quyền Quốc Dân
Đảng của Tưởng Giới Thạch và tiếp đó mùa hè năm 1950, chiến tranh Hàn quốc (Cao
Ly) bùng nổ do Bắc Hàn xâm lăng Nam Hàn.
Trước
tình thế ấy, Hoa Kỳ chuyển sang chính sách ngăn chặn sự bành trướng của chủ
nghĩa Cộng Sản trên thế giới, và muốn kết Nhật thành đồng minh của Mỹ trên
tuyến ngăn chặn Cộng Sản ở Châu Á Thái Bình Dương. Từ đó chính sách của Mỹ đối
với Nhật cũng thay đổi, từ một nước bị Mỹ cai trị thành một nước độc lập, đồng
minh của Mỹ. Thật ra vấn đề trả độc lập cho Nhật đã được tướng Mac Arthur đề
cập đến trong một cuộc họp báo từ tháng 3/1947, với lý do là ông đã thấy sự tiến
triển của chương trình cải cách cùng khả năng điều hành cải cách của chính phủ
Nhật, hơn thế việc kéo dài chiếm đóng sẽ có những phản tác dụng. Nhưng có lẽ
Mac Arthur đã nói ra vấn đề quá sớm, khi Mỹ đang chuyển thế trước trận chiến
mới của Liên Sô. Vì thế đến năm 1950, chính quyền Mỹ mới tính đến việc trao trả
độc lập cho Nhật, và Foster Dulles, cố vấn Bộ Ngoại Giao, sau đó là ngoại
trưởng, đã được Tổng Thống Truman trao nhiệm vụ giải quyết vấn đề.
Trước
hết, F. Dulles tham khảo những cường quốc Đồng Minh để tìm một sự đồng thuận về
một hiệp ước hoà bình cho Nhật. Còn đối với Hoa Kỳ, ông đưa ra 5 điều kiện để
Nhật có thể thu hồi nền độc lập:
-
Thứ nhất, Nhật phải quên bản hiến pháp Mac Arthur, để tái vũ trang với số quân
350.000 người.
-
Thứ nhì, hiệp ước hòa bình chỉ được ký với các nước Âu Mỹ, những đồng minh
chống Cộng Tây phương.
-
Thứ ba, Nhật không được chọn chính sách trung lập. Hoa Kỳ cần một đồng minh ở
Đông Bắc Á.
-
Thứ tư, Mỹ cần duy trì những căn cứ hải, lục, không quân ở Nhật trong chiến
lược đối phó với Liên Sô và Trung Cộng.
-
Thứ năm, Nhật chỉ công nhận chính quyền Quốc Dân Đảng ở Đài Loan.
Với
5 điều kiện trên, Hoa Kỳ muốn biến Nhật thành một đồng minh mạnh trong chiến
lược ngăn chặn sự bành trướng của Cộng Sản ở Á Châu. Đổi lại, Nhật sẽ được thu
hồi chủ quyền, được trợ giúp thêm về kinh tế, và đi vào khối mậu dịch Tây
phương, và được trợ giúp tái vũ trang để Nhật góp phần vào sự tự vệ khu vực.
Đối
lại với lập trường của Mỹ, đa số dân Nhật đã bày tỏ một lập trường khác hẳn:
-
Chống lại việc tái vũ trang để liên kết với Tây phương và sự hiện diện của lực
lượng Mỹ trên đất Nhật.
-
Muốn Nhật trung lập, đứng ngoài sự phân tranh mới của thế giới Tư Bản và khối
Cộng Sản.
-
Muốn hiệp ước hòa bình phải bao gồm cả Trung Cộng và Liên Sô. Vì như thế chứng
tỏ đó là một chính sách trung lập đúng nghĩa của trung lập.
Còn
đối với thủ tướng Yoshida, người có trách nhiệm thương thuyết với Foster Dulles
về vấn đề độc lập của Nhật thì trong 5 điều kiện của Mỹ, ông đã bác bỏ việc tái
vũ trang với đội quân gồm 350.000 người. Vấn đề này ông đã nói với F. Dulles là
Nhật không thể thực hiện vì kinh tế Nhật không đương nổi, dân Nhật không chấp
nhận, hiến pháp cấm và các nước lân bang sẽ hoảng sợ.
Còn
bốn điều kiện sau thì điều kiện duy trì quân đội Mỹ trên đất Nhật là khó khăn
nhất, vì đa số dân Nhật và những đảng đối lập không chấp nhận. Nhưng đây lại là
trọng điểm trong chiến lược mới của Mỹ, nên cuối cùng ông đã chấp nhận để đổi
lấy nền độc lập bị một phần lệ thuộc, đổi lấy việc phát triển kinh tế, đổi lấy
việc liên kết với Mỹ để mở đường cho Nhật đi vào thế giới Âu Mỹ cả về chính trị
lẫn kinh tế.
Tháng 9/1951, việc thương thuyết kết
thúc. Nhật và 47 nước cựu thù ký vào Hiệp Ước Hòa Bình ở San Francisco. Ngoại
trưởng Liên Sô không ký, còn Trung Cộng và Trung Hoa Đài Loan không được mời,
vì sự bất đồng giữa Mỹ và Anh về chính quyền nào, Taiwan hay Bắc Kinh, là chính
quyền hợp pháp. Cùng ngày đó, Hoa Kỳ và Nhật ký Hiệp Ước An Ninh Mỹ-Nhật. Với
hiệp ước này:
-
Quân đội Mỹ được tiếp tục ở lại trên đất Nhật.
-
Nhật được bảo vệ trước những cuộc xâm lăng từ bên ngoài và những cuộc nổi loạn
ở trong nước do những cường quốc bên ngoài yểm trợ.
Đảng
Xã Hội và Cộng Sản chống lại việc phê chuẩn hiệp ước Hoà Bình và hiệp ước An
Ninh. Nhưng đảng Dân Chủ Tự Do của Yoshida chiếm đa số trong Quốc Hội, vì thế
cả hai Hiệp Ước đã được phê chuẩn và có hiệu lực ngày 28/4/1952.
Hai
Hiệp Ước Hòa Bình và An Ninh đã trả lại chủ quyền cho Nhật và mở cửa cho Nhật
trở lại với cộng đồng thế giới, nhưng Yoshida đã bị phê phán gay gắt ở Hiệp Ước
An Ninh, vì đã nhượng bộ quá nhiều khi để cho Mỹ tiếp tục duy trì số quân quá
lớn với nhiều căn cứ, cùng những hoạt động tự do của quân Mỹ trên đất Nhật. Tuy
vậy theo sử gia James McClain thì “Yoshida đã coi việc thi hành hệ thống San
Francisco là sự chiến thắng lớn nhất trong sự nghiệp của ông. Nhật đã khôi phục
chủ quyền, việc chiếm đóng lâu dài của nước ngoài đã kết thúc, quốc gia đã kết
với khối Anh Mỹ hùng mạnh và đất nước đã được bảo đảm sự trợ giúp kinh tế của
những cường quốc kỹ nghệ của thế giới”.
(James
McClain: Japan: a Modern History, w.w. Norton &Company, New York,
2002, tr. 558)
©
Đàn Chim Việt
No comments:
Post a Comment