Wed, 09/16/2015 - 01:13 —
tuankhanh
Trong những câu chuyện về
biển, mộ gió là một trong những điều khi nói đến, bất kỳ ai cũng cảm nhận được
sự bi ai của kiếp người. Mộ gió là nơi gọi hồn trở về từ đại dương mênh mông
sau khi người đi biển đã đặt cược đời mình với biển cả.
Từ đời Chúa Nguyễn Phúc
Nguyên (1563 -1635 ), cùng với lời khuyên của học giả Đào Duy Từ (1572-1634),
biển được lưu tâm là nơi đánh dấu bờ cõi Việt Nam, nhưng cũng là nơi mà những
người lính – ngư dân đầu tiên đi mà không hẹn ngày về. Mộ gió có từ đó. Những
ngày Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa cũng là những ngày mà người ta vẽ lại hình
người bằng đất sét, thương nhớ thịt xương đã nằm sâu dưới đáy biển hay trong bụng
cá. Lúc đó, kẻ thù của ngư dân chỉ là bọn cướp vặt hoặc là thời tiết chứ chưa đầy
hiểm nguy như hôm nay, bởi những chiếc tàu Trung Quốc dữ tợn vượt hơn tất cả.
Mộ gió hôm nay, lại nhiều
hơn bao giờ hết. Nhìn những nắm đất xếp cạnh nhau trãi dài trên bờ cát mới thấy
thiên nhiên không thể khốc liệt bằng con người. Con người không có bão táp
không tay như sẳn sàng nhấn chìm đồng loại của mình, sẳn sàng tàn phá mọi thứ
không phải vì quá nghèo khó, không phải vì thù hận, mà chỉ điên cuồng vì thách
thức và cưỡng đoạt. Những ngôi mộ gió giờ không còn lính, chỉ những người đàn
ông hiền lành đi biển, mong kiếm thêm bữa cơm cho gia đình mình. Những ngôi mộ
gió đó uất nghẹn và bàng hoàng không hiểu vì sao mình lại ở đây.
“Giờ thì ít ai dám đi biển
xa. Cách bờ biển mình chừng 12 hải lý tàu cá Trung Quốc nó đậu dày đặc. Mà
không biết nó có phải là tàu cá chi không vì cần thì tụi nó rút súng bắn đùng
đùng như cơm bữa”, một người dân miền Trung kể với chúng tôi, những người ở
thành phố vẫn ăn cá mà thật là thờ ơ, ít khi nào hình dung sự sống và cái chết
chung quanh thuyền cá Việt hôm nay ra sao.
Trên bãi biển mà chúng
tôi thấy, những chiếc tàu đánh cá vội vã trở về lúc bình minh ở bãi. Họ đi và
canh cánh nỗi sợ hãi ngay trên mép biển của mình, sẳn sàng quay đầu chạy khi xa
xa có bóng cờ của Trung Quốc láng giềng. Giờ thì lệnh cấm đánh bắt của Trung Quốc
ban hành, ngư dân Việt Nam cũng thì thầm nhắc nhau vì không khéo, đó là những
chuyến đi đầy mạo phạm không có ngày về. Tổ quốc trong lời thì thầm. Tổ quốc mộ
gió.
Chuyện mộ gió hôm nay với
ngư dân không chỉ là sự thương tiếc cho người ở lại biển, mà còn là sự cảnh
báo: Biển không còn bình yên bởi con người và trò chơi chính trị. Biển bị bao
vây trong những cái bắt tay và nụ cười hữu nghị cộng sản, trao về mộ gió.
Tôi gọi điện thoại cho một
ngư dân ở Quảng Ngãi, khi nghe tin Việt Nam có nghị định mới (71/2015 ) về chuyện
tàu hải quân Việt Nam được phép dùng vũ khí để truy đuổi những tàu nước ngoài
xâm phạm lãnh hải. Người đi biển này im lặng một hồi rồi nói "liệu mọi thứ
rồi sẽ tốt hơn không?”. Chuyến đi dọc miền Trung mới đây, tôi chợt nhận ra rằng
người miền Trung trực tính, hay nói và dễ gần... như đã thay đổi. Họ hay nói
lãng sang chuyện khác và né tránh về những câu chuyện biển mà họ đang sống chết
với nó. Ở trên biển, họ lo sợ tàu Trung Quốc, nhưng ở trên bờ, họ ngại ngùng điều
gì đó thật khó hiểu. Thậm chí, có người lỡ bộc bạch, đã canh cánh gọi vào 2, 3
lần chỉ để dặn rằng thôi đừng nhắc gì về những điều ông đã nói. Ngay cả trong đời
sống, nỗi niềm của những ngư dân Việt cũng đã chôn vào mộ gió sao?
Thật võ đoán, nếu liên hệ
chuyện tàu hải quân Việt Nam được dùng vũ khí với chuyện có đến 4 tàu cá của
ngư dân Việt bất ngờ bị “tàu lạ” liên tục tấn công ở vùng biển Kiên Giang, kề với
người bạn láng giềng tính tình khó đoán Campuchia. Nhưng chắc chắn phải có điều
gì đó khiến các vụ tấn công dã man này hoàn toàn khác, so với những vụ cướp và
tấn công vặt trước khi Việt Nam có tuyên bố mạnh hơn trên biển. Các “tàu lạ”
này xông thẳng và nhắm bắn trực diện vào ngư dân. Anh Ngô Văn Sinh, 38 tuổi,
người cha của một gia đình, người đứng lái tàu, đã bị những “kẻ lạ” biết nói tiếng
Việt bắn thẳng vào mặt và chết ngay trên buồng lái. Kể từ khi Campuchia có vẻ gần
hơn với Trung Quốc, biển Việt Nam ở phương nào cũng đầy nguy nan.
Mọi thứ dường như hiện rõ
hơn, chứ không khó khăn để phỏng đoán. Cách thức của “kẻ lạ” tấn công ngư dân
Việt chẳng khác gì tàu cá Trung Quốc áp sát bờ biển miền Trung. Ông Lê Thế
Hưng, đại tá Tham mưu trưởng Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng Đà Nẵng nói rằng từ đầu
năm đến nay, lượng tàu Trung Quốc tiến vào biển Việt Nam ngày càng có thái độ
nguy hiểm. Ngoài chuyện đánh bắt, tàu Trung Quốc còn đưa máy móc vào thăm dò biển
Việt Nam, uy hiếp, cướp tài sản của tàu cá Việt... Thậm chí tàu đánh bắt gần bờ
hướng Hoàng Sa cũng bị tàu Trung Quốc rượt đuổi và cướp.
Kiên Giang không có mộ
gió, vì lâu nay, nơi này chỉ là vùng làm ăn thanh bình của cực Nam nước Việt.
Nhưng có lẽ đến lúc người dân đi biển ở đây nghĩ về mộ gió, thứ mà biển đã muốn
giữ lại con người hiền lành chăm chỉ, chỉ trả lại gió – như cái kết buồn của những
số phận vô danh và luôn yêu đất nước này.
Một người quen từng kể về
câu chuyện bà mẹ hóa điên khi đứa con trai út đi biển, và không trở về. Bà hay
ngồi trên mộ gió của con mình và hát như một bài hát ru vào vô tận. Giọng hát
miền Trung à ơi mà tôi đã được nghe khi đi qua vùng đất này – liệu có đổi giọng
thành những giọng hát miền Nam hay miền Bắc vào những ngày sắp tới? Những tiếng
hát Việt Nam đau thắt trong vòng vây của tình hữu nghị.
Để ghi lại những gì mình
thấy, tôi hỏi ông chủ nhà trọ rằng nơi đây có internet không. Ông ngớ người ra
giây lát rồi nói "Dạ chụ, nơi đây không cọ internet, chỉ có wifi
thôi". Thật buồn cười và dễ thương. Người miền Trung vậy đó, hiền lành và
chất phác với đời sống. Con cá không có tổ quốc, nhưng người đi biển biết mình
thuộc về nơi nào. Họ không quá dũng cảm để chọn hy sinh nhưng ra khơi là bổn phận
sinh tồn mà họ không thể làm khác.
Vì vậy, dù bên tai có
văng vẳng tiếng hát ru Việt Nam của bà mẹ hoá điên trên mộ gió, ngư dân Việt lại
vẫn im lặng giong buồm ra biển - như một cách để tự nhận thấy mình thật
cô đơn, ngay trên chính tổ quốc của mình.
No comments:
Post a Comment