Thursday, 24 September 2015

KHỦNG HOẢNG NGƯỜI NHẬP CƯ Ở CHÂU ÂU (Jeanne Park, CFR)





Jeanne Park, Phó Giám đốc Hội đồng Quan hệ Đối ngoại, CFR
Trường Sơn chuyển ngữ, CTV Phía Trước
Posted on Sep 17, 2015

Giới thiệu
Làn sóng người nhập cư đổ vào châu Âu từ các nước châu Phi, Trung Đông và Nam Á hiện đang đặt ra thách thức lớn nhất cho giới lãnh đạo và hoạch định chính sách châu Âu kể từ sau khủng hoảng nợ ở Hy Lạp. Tổ chức Di dân Quốc tế (IOM) khẳng định rằng châu Âu là điểm đến nguy hiểm nhất đối với những trường hợp di dân bất thường trên thế giới, và hành trình qua Địa Trung Hải cũng là hành trình nguy hiểm nhất thế giới. Tuy nhiên, bất chấp những thiệt hại về nhân mạng ngày càng tăng, phản ứng chung của Liên minh châu Âu vẫn mang tính phi thể thức và không tán thành trách nhiệm với với dòng người di cư này, họ tập trung vào việc đảm bảo an ninh biên giới hơn là bảo vệ quyền lợi của người di cư và tị nạn. Trong tình hình chủ nghĩa dân tộc đang trỗi dậy ở nhiều nước trong Liên minh châu Âu, và nỗi lo về khủng bố Hồi giáo đang ám ảnh khắp lục địa, tương lai của những trại tị nạn và mục tiêu sửa đổi chính sách cho người di dân đang rất bất định.

--------------------

Những dòng người di cư và tị nạn này đến từ đâu?

Căng thẳng chính trị ở Trung Đông, châu Phi và Nam Á đang tái cấu trúc xu hướng di cư vào châu Âu. Số lượng trường hợp di cư bất hợp pháp qua biên giới các nước Liên minh châu Âu bắt đầu tăng vào năm 2011, khi hàng ngàn người Tunisia tìm đường đến đảo Lampedusa của Ý sau khởi đầu mùa xuân Ả Rập. Sau đó, dòng người từ vùng châu Phi Hạ Sahara di cư đến Libya từ trước lại phải tiếp tục tìm đường thoát khỏi tình trạng hỗn loạn thời kỳ hậu Qaddafi trong năm 2011-2012. Hiện nay, lượng người di cư và tị nạn ngày càng tăng qua biên giới biển các nước Liên minh châu Âu phần lớn đến từ Syria, Afghanistan, và Eritrea.
Theo Cơ quan Tị nạn Liên Hiệp Quốc (UNHCR), khoảng 58 phần trăm[1] lượng người di cư bất thường vượt biên vào châu Âu qua đường biển trong sáu tháng đầu năm 2015 đến từ Syria, Afghanistan, và Eritrea. Trong đó, chiếm tỉ lệ cao nhất là những người Syria tìm đường thoát khỏi quê nhà vì cuộc nội chiến đã hoành hành hơn bốn năm (34 phần trăm). Nhóm di dân chiếm tỉ lệ cao thứ hai đến từ Afghanistan thì muốn thoát khỏi cuộc chiến vẫn tiếp diễn với phiến quân Taliban (12 phần trăm), và những người Eritrea chạy trốn nạn cưỡng bách lao động (12 phần trăm) tạo thành nhóm di dân chiếm tỉ lệ cao thứ ba. Tình trạng suy giảm an ninh và nghèo đói ở Iraq, Libya, Nigeria, Somalia, Sudan và Nam cũng đã góp phần khiến lượng di dân ngày càng tăng.

Đâu là khác biệt giữa người di cư và người tị nạn?

Quá trình phân biệt di dân với những người tìm nơi trú ẩn và người tị nạn không phải phải lúc nào cũng tường minh, nhưng đây là chỉ báo rất quan trọng bởi vì hai nhóm người này sẽ được độ hỗ trợ và bảo vệ ở những mức độ khác nhau theo luật pháp quốc tế.

Người tỵ nạn được xác định là một người chạy trốn nạn cưỡng bách lao động hay xung đột, do đó tìm kiếm sự hỗ trợ từ cộng đồng quốc tế theo Công ước Người tị nạn năm 1951[2] về tình trạng của người tị nạn; “người tị nạn” (refugee – asylum seeker) là người đi tìm nơi trú ẩn với nguyện vọng/ đơn xin tị nạn được chấp nhận. Ngược lại, “người nhập cư” (economic migrant) rời bỏ quê nhà chủ yếu vì động cơ kinh tế. Khái niệm “di dân” (migrant) được xem là một thuật ngữ trung tính, khái quát cho cả ba nhóm. (Nói cách khác: mọi người tị nạn đều là dân nhập cư, nhưng không phải mọi di dân đều là người tị nạn)

Châu Âu hiện đang chứng kiến ​​một làn sóng di dân hỗn hợp, trong đó người di cư vì lý do kinh tế và người tị nạn hòa lẫn vào nhau. Trong thực tế, những nhóm này hoàn toàn có thể và thực sự đang chồng chéo lên nhau, và khu vực đa thành phần đang phải sống trong hoàn cảnh bất ổn vì hai mươi tám quốc gia thành viên của Liên minh châu Âu không thống nhất và cũng không xác định được giải pháp cụ thể nên thường áp dụng những phương pháp không phù hợp đối với các trại tị nạn.

Những nước EU nào đang đứng ở tiền tuyến của cuộc khủng hoảng này?

Các nước Liên minh châu Âu chịu ảnh hưởng nặng nề nhất bởi khủng hoảng kinh tế, như Hy Lạp và Ý, cũng từng là những điểm đến chính của người di cư và tị nạn do các nước này gần với lưu vực Địa Trung Hải. Dòng người di cư trong những năm qua cũng đang cho thấy khuynh hướng tiếp xúc nhiều hơn các nước dọc theo biên giới phía đông của Liên minh châu Âu như Hungary, khiến cho tình trạng di cư không đều gia tăng mạnh.

Bản đồ về tình hình phân bố các trại tị nạn và điểm tiếp nhận những dòng người nhập cư vào châu Âu. Ảnh: Reuters.
Hàng trăm ngàn người tị nạn tìm đường thoái khỏi chiến tranh hay kinh tế lạc hậu đã đổ vào Liên minh châu Âu trong một làn sóng chưa từng có tiền lệ. Hầu như toàn bộ dòng người này tiếp cận các quốc gia thuộc biên giới phía đông và phía nam EU trước rồi sau đó tìm cách nhập cự bất hợp pháp vào các nước EU giàu có và rộng lượng hơn ở phía bắc và phía tây.

(Chú thích: Điểm màu xanh là các trại tị nạn hoặc khu tập trung người di cư. Còn điểm đỏ là những khu vực người di cư tập trung đổ vào. Các nước được tô màu xanh nhạt là những nước không thuộc khối Liên minh châu Âu nhưng có tham gia hiệp ước Schengen. Các nước còn lại thuộc khối Liên minh châu Âu, trong đó các nước màu xanh đậm cũng tham gia hiệp ước Schengen, còn các nước màu nâu và hồng không tham gia hoặc sẽ tham gia hiệp ước Schegen trong tương lai. Hiệp ước Schengen là một yếu tố quan trọng với hành trình của người di cư vì công dân các nước thành viên của hiệp ước có thể di chuyển tự do trong lãnh thổ của tất cả các nước này)

Hy Lạp:
Đến năm 2012, 51 phần trăm[3] lượng người di cư xâm nhập bất hợp pháp vào lãnh thổ Liên minh châu Âu qua Hy Lạp. Trong năm 2013, tình hình thay đổi sau khi nhà chức trách Hy Lạp tăng cường kiểm soát biên giới qua Chương trình Aspida (còn gọi là “Tấm khiên”), bao gồm việc xây dựng hệ thống hàng rào kẽm gai ở biên giới Hy Lạp-Thổ Nhĩ Kỳ. Nhưng đến tháng Bảy năm 2015, Hy Lạp một lần nữa trở thành điểm đến trung gian ưa thích của những làn sóng người nhập cư, Frontex báo cáo 132.240 trường hợp xâm nhập biên giới Liên minh châu Âu bất hợp pháp qua cửa khẩu Hy Lạp trong nửa đầu của năm 2015, gấp năm lần số lượng phát hiện được cùng kỳ năm ngoái. Di dân từ Syria và Afghanistan chiếm “phần đông nhất” trong dòng người theo đường Thổ Nhĩ Kỳ đến Hy Lạp (chủ yếu họ đến các đảo Kos, Chios, Lesbos, và Samos của Hy Lạp) trong bảy tháng đầu năm 2015. Cuộc khủng hoảng nhập cư gần đây nhất này trùng với chính khủng hoảng nợ, vốn đã làm tê liệt hệ thống ngân hàng và chính phủ Hy Lạp vừa qua.

Ý:
Hành trình qua Địa Trung Hải kết nối Libya với Ý là tuyến đường người di cư sử dụng nhiều nhất để tiến vào châu Âu trong năm 2014: Frontex báo cáo có hơn 170.000[4] trường hợp xâm nhập biên giới trái phép vào lãnh thổ Ý. Trong tháng Mười năm 2014, chương trình tìm kiếm và cứu nạn Mare Nostrum của quốc gia này xác nhận đã trợ giúp được hơn 100.000 trường hợp người di cư, giờ chương trình này đã được thay thế bằng chương trình Triton Frontex, một hoạt động kiểm soát biên giới quy mô nhỏ hơn với ngân sách chỉ bằng một phần ba ngân sách điều hành Mare Nostrum từng có. Vào tháng 4 năm 2015, các nhà lãnh đạo EU tăng gấp ba ngân sách cho chương trình tuần tra biên giới Triton Frontex với khoảng 9.000.000 euro một tháng (9.900.000 dollar), nhưng từ chối mở rộng phạm vi đến mức tìm kiếm và cứu hộ. Trong khi số lượng trường hợp xâm nhập trái phép qua cửa khẩu biên giới Ý trong nửa đầu năm 2015 vẫn ở mức cao, với 91.302 trường hợp được ghi nhận, thiệt hại về nhân mạng trong diễn biến khủng hoảng này ngày càng tăng (tổ chức IOM ước tính hơn hai ngàn người đã chết dọc theo tuyến đường này trong năm 2015) và tình hình an ninh đang xấu đi ở Libya càng thúc đẩy nhiều người di cư tìm tuyến con đường dẫn thay thế tiến vào châu Âu qua Hy Lạp và vùng Balkan. Chín mươi phần trăm người di cư sử dụng tuyến đường này trong nửa đầu năm 2015 đến từ Eritre, Nigeria, và vùng châu Phi cận Sahara.

Hungary:
Ngày càng có nhiều di dân người Syria và Afghanistan di chuyển từ Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp thông qua Macedonia và Serbia khiến các nước này trở thành tiền tuyến mới nhất trong cuộc khủng hoảng nhập cư ở châu Âu. (Lượng di dân sử dụng tuyến đường từ Kosovo thông qua Serbia ngày càng tăng cũng góp phần vào lượng người nhập cư đến Hungary trong năm nay.) Từ tháng Một đến tháng Bảy năm 2015, tổ chức Frontex báo cáo 102.342 trường hợp xâm nhập bất hợp pháp vào lãnh thổ Hungary. Tình hình này khiến Thủ tướng Viktor Orban phải dựng lên một hàng rào kẽm gai trên biên giới với Serbia vào tháng Bảy năm 2015. Vào tháng Tư năm 2015, một cuộc khảo sát ý kiến ​​công chúng xác nhận rằng 46 phần trăm người dân Hungary được hỏi tin rằng Hungary không nên tiếp nhận người tị nạn[5]. Hiện tại thì những người di cư mắc kẹt ở quốc gia này đã bị cấm dùng tàu ​​hỏa đi về hướng tây, và họ đã biến nhà ga Keleti ở Budapest thành một khu tị nạn tạm thời từ tháng Chín năm 2015.

Còn tiếp…
________
© 2007-2015 Bản tiếng Việt TẠP CHÍ PHÍA TRƯỚC – www.phiatruoc.info

*
*
Jeanne Park, Phó Giám đốc Hội đồng Quan hệ Đối ngoại, CFR
Trường Sơn chuyển ngữ, CTV Phía Trước
Posted on Sep 21, 2015

Giới thiệu
Làn sóng người nhập cư đổ vào châu Âu từ các nước châu Phi, Trung Đông và Nam Á hiện đang đặt ra thách thức lớn nhất cho giới lãnh đạo và hoạch định chính sách châu Âu kể từ sau khủng hoảng nợ ở Hy Lạp. Tổ chức Di dân Quốc tế (IOM) khẳng định rằng châu Âu là điểm đến nguy hiểm nhất đối với những trường hợp di dân bất thường trên thế giới, và hành trình qua Địa Trung Hải cũng là hành trình nguy hiểm nhất thế giới. Tuy nhiên, bất chấp những thiệt hại về nhân mạng ngày càng tăng, phản ứng chung của Liên minh châu Âu vẫn mang tính phi thể thức và không tán thành trách nhiệm với với dòng người di cư này, họ tập trung vào việc đảm bảo an ninh biên giới hơn là bảo vệ quyền lợi của người di cư và tị nạn. Trong tình hình chủ nghĩa dân tộc đang trỗi dậy ở nhiều nước trong Liên minh châu Âu, và nỗi lo về khủng bố Hồi giáo đang ám ảnh khắp lục địa, tương lai của những trại tị nạn và mục tiêu sửa đổi chính sách cho người di dân đang rất bất định.

------------------------

Quy chế Dublin là gì?

Thực chất, các quốc gia hiện đang là điểm tập trung của dòng người di cư tiến vào châu Âu không phải chịu trách nhiệm đơn phương về những người này theo Quy chế Dublin[1]. Được sửa đổi từ năm 2013, pháp luật EU quy định rằng những người tị nạn vẫn phải ở trong các quốc gia châu Âu đầu tiên mà họ xâm nhập vào và đất nước ấy chỉ phải chịu trách nhiệm kiểm tra đơn xin tị nạn của người di cư. Những người di cư nếu tìm cách tiếp cận các nước EU khác sẽ bị trục xuất trở về nước EU mà họ nhập cảnh ban đầu.

Nhiều nhà hoạch định chính sách đồng ý rằng việc cải cách quy chế Dublin là một bước quan trọng để thống nhất được một chính sách tị nạn cho châu Âu. Theo hệ thống hiện tại, gánh nặng trách nhiệm đang đổ dồn một cách mất cân bằng vào những quốc gia là điểm đến tập trung của dòng người tị nạn với biên giới tiếp xúc trực tiếp với hành trình của họ. Tuy nhiên, thực tế là nhiều quốc gia tiên phong đã ngừng thực thi quy chế Dublin và cho phép người nhập cư di chuyển từ quốc gia EU họ đặt chân đến đầu tiên tới những quốc gia khác ở phía bắc hoặc tây EU. Đức và Thụy Điển hiện đang tiếp nhận và chấp thuận phần lớn đơn xin tị nạn trong cuộc khủng hoảng nhập cư châu Âu.

“Cả gánh nặng và sự chia sẻ đều đang hiện diện trong mắt của kẻ trong cuộc. Tôi không biết liệu có bất kỳ quốc gia EU nào sẽ đạt được sự vô tư và rộng lượng mà người ta đang tìm kiếm”, Ủy viên Cao cấp Heather Conley của Trung tâm Chiến lược và Nghiên cứu Quốc tế cho biết.

Những người di cư này phải đối mặt hoàn cảnh sống thế nào ở châu Âu?

Những khu tập trung người tị nạn đang hiện diện trên khắp lục địa, gồm cả ở Pháp, Hy Lạp và Ý, với cáo buộc về lạm dụng và bỏ bê được đề nghị giải trình trong những năm qua. Nhiều nhóm hoạt động nhân quyền cho rằng một số khu tập trung người tị nạn đã vi phạm Điều 3[2] của Công ước châu Âu về Nhân quyền, trong đó nghiêm cấm xử đối vô nhân đạo hoặc làm nhục nhân phẩm của những người này.

“Chúng tôi từng nghĩ về di cư như một vấn đề an ninh con người: chung quy là bảo vệ con người và cung cấp sự hỗ trợ cần thiết”, Ủy viên Cao cấp Khalid Koser của Viện Brookings cho biết. “Bây giờ chúng ta nhận thức rõ – hay vẫn không nhận thức được – rằng vấn đề người di cư là vấn đề an ninh quốc gia. Và nguy cơ của quá trình an ninh hóa vấn đề di cư là khả năng hợp pháp hóa những phản ứng quá mức”.

Ở Ý, người nhập cư sẽ bị phạt và trục xuất theo luật di trú Bossi-Fini vẫn đang gây tranh cãi, với quy định người di cư phải đảm bảo được hợp đồng lao động trước khi tiến vào lãnh thổ nước này. Đạo luật ra đời từ năm 2002 này khiến cho người di cư bất hợp pháp – và cả những người giúp đỡ người di cư – bị phạt tiền hoặc phải ngồi tù. Tại Hy Lạp, quá trình giam giữ kéo dài người di cư và người tị nạn, những người đôi khi bị “xếp lẫn với tội phạm hình sự”, đã bị các nhóm nhân quyền chỉ trích không ngừng. Và ở Hungary, một chuỗi những điều luật khẩn cấp vừa được thông qua vào tháng 9 năm 2015 sẽ cho phép lực lượng cảnh sát vận hành các trung tâm giam giữ người tị nạn, bên cạnh mức phạt tù vốn đã treo lơ lửng trên đầu những di dân bất hợp pháp hay những người giúp đỡ họ. Chính phủ nước này cũng đang cân nhắc triển khai quân đội vũ trang đến biên giới.

Với những quốc gia thường phải làm điểm “quá cảnh” cho dòng người tị nạn, vốn đã chịu ảnh hưởng nặng nề nhất bởi khủng hoảng kinh tế, ngân sách cho vấn đề người di cư và tị nạn hiện đã không thể theo kịp nhu cầu thực tế và nhu cầu này ngày càng tăng. Trong tháng 8 năm 2015, Ủy ban châu Âu phê chuẩn một gói cứu trợ khẩn cấp trị giá 2.400.000.000 euro (2.600.000.000 dollar), với 560.000.000 euro (616.000.000 dollar) dành cho Ý và 473.000.000 euro (520.000.000 dollar) cho Hy Lạp để hỗ trợ những chiến dịch cứu hộ người tị nạn trong sáu năm. Tuy nhiên, nhiều nhà hoạch địch chính sách khẳng định rằng gói cứu trợ với quy mô như vậy vẫn chưa thể đáp ứng cường độ ngày càng tăng của cuộc khủng hoảng.

Ngược lại, những người di cư xoay sở đến được những nước EU giàu có ở phía bắc và phía tây sẽ được hỗ trợ bởi hệ thống trung tâm tị nạn tương đối tốt với chính sách tái định cư hào phóng. Nhưng chính các nước mà người tị nạn khó tiếp cận này thường hỗ trợ nhu yếu phẩm cho những người di cư vốn có đủ tiền để tiếp tục di chuyển từ các quốc gia “quá cảnh” hoặc sở hữu giấy tờ du lịch đắt tiền để đảm bảo một hành trình an toàn với sự giúp đỡ của những kẻ buôn lậu. Nghĩa là những quốc gia này vẫn không thể tiếp cận và dành sự hỗ trợ cho những di dân cần giúp đỡ nhất.

Liên minh châu Âu phản ứng thế nào trước khủng hoảng nhập cư?

Cũng như chính cuộc khủng hoảng nợ, những tác động đến lợi ích quốc gia của nhiều nước châu Âu đã khiến họ hầu như thống nhất trong một phản ứng chung châu Âu đối với dòng di dân này. Trong tháng 6 năm 2015, các nhà lãnh đạo châu Âu đã từ chối thiết lập một hệ thống hạn ngạch nhập cư bắt buộc, và thay vì vậy họ lên kế hoạch kêu gọi các nước thành viên EU tự nguyện tái định cư bốn mươi nghìn di dân ở Hy Lạp và Italy trong khoảng thời gian hai năm. (Vào tháng 7 năm 2015, EU thông báo rằng liên minh này đã không đạt được mục tiêu như vậy khi còn gần 8.000 di dân không thể tái định cư[3])

Một số chuyên gia cho rằng không khí chính trị ngày càng phân cực của liên minh, với tình hình chủ nghĩa dân tộc, cũng như các đảng chính trị chống di dân ngày càng phát triển mạnh, là một phần nguyên nhân khiến một số quốc gia không còn mặn mà với động thái hỗ trợ nhân đạo. Pháp và Đan Mạch đều dẫn ra những mối lo an ninh để biện minh cho thái độ miễn cưỡng của họ trong việc chấp nhận những người di cư từ Trung Đông và Bắc Phi, đặc biệt là trong bối cảnh các vụ nổ súng khủng bố vừa diễn ra ở Paris và Copenhagen vào đầu năm 2015.

“Bất trắc đằng sau diễn biến này [khủng hoảng di dân] là khó khăn mà nhiều nước châu Âu phải đối mặt khi chấp nhận xã hội của họ phải pha lẫn với những nhóm dân và nền văn hóa thiểu số. Phần lớn những người nhập cư đến từ các nước Hồi giáo, và cộng đồng Hồi giáo nhập cư thường không duy trì được mối quan hệ tốt đẹp với dân bản địa”, cựu Ủy viên Cao cấp Charles Kupchan của Hội đồng Quan hệ Đối ngoại cho biết.

Trong thời điểm này, giới lãnh đạo ở các quốc gia Đông Âu như Hungary, Ba Lan, Slovakia, và Cộng hòa Czech hầu như đều bày tỏ thái độ ưu tiên dành cho di dân không theo đạo Hồi. Vào tháng 8 năm 2015, Slovakia tuyên bố chỉ chấp nhận những người tị nạn theo Thiên Chúa giáo từ Syria. Ba Lan cũng phản ứng tương tự khi chỉ tập trung hỗ trợ trại tị nạn cho những tín đồ Thiên Chúa giáo từ Syria, người đứng đầu văn phòng nhập cư của nước này thừa nhận với Financial Times rằng, “nền tảng tôn giáo [của những người xin tị nạn] sẽ có [một] ảnh hưởng đến việc thực thi các quy chế tị nạn cho họ”. Và ở Hungary, Thủ tướng Viktor Orban đã giải thích chính sách chống người nhập cư bằng thái độ bài Hồi giáo rõ rệt. Trong khi việc lựa chọn di dân dựa trên tôn giáo rõ ràng đã vi phạm quy tắc không phân biệt đối xử của EU, các nhà lãnh đạo đã bảo vệ chính sách của mình bằng cách chỉ ra cử tri của họ đã khó chịu thế nào trước sự phát triển của cộng đồng Hồi giáo.

Cuộc khủng hoảng kinh tế gần đây cũng đã thúc đẩy quá trình tái cấu trúc phân bố dân cư trên khắp lục địa, cụ thể là các nước thành viên EU đã ghi nhận một số lượng kỷ lục những công dân của họ vì khủng hoảng mà di cư đến các nước EU phía bắc và tây để tìm việc làm. Và trong khi các vấn đề di cư của nội bộ EU vốn đã làm dấy lên nỗi lo về phúc lợi xã hội trong những tháng gần đây, “những người đến từ Trung Đông và Bắc Phi lại càng khiến những cuộc tranh luận chính trị trở nên căng thẳng hơn vì những bất trắc có thể xảy ra trong quá trình chia tách và hòa nhập xã hội” ông Kupchan khẳng định.

Ngược lại, Đức và Thụy Điển đã công bố số chính sách trợ giúp người tị nạn hào phóng nhất trong toàn bộ liên minh EU. Vào tháng 9 năm 2015, Berlin cam kết sẽ hỗ trợ 6.000.000.000 euro (6.600.000.000 dollar) cho 800.000 người di cư, lượng người đông gấp bốn lần so với năm 2014, số tiền này dự kiến sẽ đến tay họ trong cuối năm 2015. Thủ tướng Đức Angela Merkel cảnh báo rằng: “Nếu Châu Âu thất bại trong truy vấn về người tị nạn, thì nó sẽ không còn là châu Âu chúng ta hằng mong đợi nữa”. Các quan chức Đức cũng thông báo rằng nước này đã chuẩn bị sẵn sàng để đón “500.000 người tị nạn mỗi năm” trong vòng nhiều năm. Tương tự như vậy, những chính sách tị nạn tự do của Thụy Điển đã khiến lượng đơn xin tị nạn ở quốc gia này gia tăng đáng kể. Đo trên cơ sở bình quân đầu người, đất nước này đã cấp nơi trú ẩn cho người tị nạn với tỷ lệ chấp thuận cao nhất trong các nước EU (bình quân 317,8 người với mỗi 100.000 người) vào năm 2014. Trước đấy, Stockholm đã thông báo rằng sẽ cung cấp quyền định cư cho tất cả người tị nạn Syria từ năm 2013.

Một số chuyên gia cho rằng chính sách nhập cư cởi mở của Đức và Thụy Điển cũng mang lại ý nghĩa kinh tế, nhân khẩu học trong hoàn cảnh các nước châu Âu đang suy giảm tỷ lệ sinh và dân số ngày càng già đi. Họ cho rằng những người di cư có thể thúc đẩy nền kinh tế của châu Âu qua việc cung cấp thêm nhân lực lao động, người đóng thuế, và người tiêu dùng, và giúp củng cố xã hội nổi tiếng an toàn của họ. Nhưng những chuyên gia khác cảnh báo rằng chính những người di cư có thể trở thành đối thủ cạnh tranh về mặt kinh tế với công dân EU, chứ không đóng góp gì cả. Ông Koser từ viện Brookings khẳng định rằng cuộc truy vấn về nhân khẩu học cho thấy một nghịch lý chính trị đối với một số quốc gia thành viên. “Hiện có 50 phần trăm thanh niên Tây Ban Nha đang thất nghiệp, và Tây Ban Nha chẳng cần người di cư. Đấy là một cái bánh vẽ rất là khó nuốt”.

Còn tiếp…
________
[1] http://www.orac.ie/website/orac/oracwebsite.nsf/page/eudublinIIIregulation-main-en
[2] http://www.echr.coe.int/Documents/Convention_ENG.pdf
[3] Luxembourg, quốc gia hiện đang giữ chiếc ghế Chủ tịch EU luân chuyển sáu tháng một lần, cho biết các bộ trưởng nội vụ đã đồng ý tái định cư cho 32.256 người Syria, Eritrea, Iraq và Somalia. Nguồn: http://www.bbc.com/news/world-europe-33602021
© 2007-2015 Bản tiếng Việt TẠP CHÍ PHÍA TRƯỚC – www.phiatruoc.info

*
*
Jeanne Park, Phó Giám đốc Hội đồng Quan hệ Đối ngoại, CFR
Trường Sơn chuyển ngữ, CTV Phía Trước
Posted on Sep 24, 2015

Cập nhật ngày 9 tháng 9 năm 2015

Giới thiệu
Làn sóng người nhập cư đổ vào châu Âu từ các nước châu Phi, Trung Đông và Nam Á hiện đang đặt ra thách thức lớn nhất cho giới lãnh đạo và hoạch định chính sách châu Âu kể từ sau khủng hoảng nợ ở Hy Lạp. Tổ chức Di dân Quốc tế (IOM) khẳng định rằng châu Âu là điểm đến nguy hiểm nhất đối với những trường hợp di dân bất thường trên thế giới, và hành trình qua Địa Trung Hải cũng là hành trình nguy hiểm nhất thế giới. Tuy nhiên, bất chấp những thiệt hại về nhân mạng ngày càng tăng, phản ứng chung của Liên minh châu Âu vẫn mang tính phi thể thức và không tán thành trách nhiệm với với dòng người di cư này, họ tập trung vào việc đảm bảo an ninh biên giới hơn là bảo vệ quyền lợi của người di cư và tị nạn. Trong tình hình chủ nghĩa dân tộc đang trỗi dậy ở nhiều nước trong Liên minh châu Âu, và nỗi lo về khủng bố Hồi giáo đang ám ảnh khắp lục địa, tương lai của những trại tị nạn và mục tiêu sửa đổi chính sách cho người di dân đang rất bất định.

---------------------------

Vùng Schengen là gì?

Hành động “di chuyển đến quốc gia kế tiếp” của những người di cư vốn đã nhập cảnh trái phép khi họ đặt chân lên chặng dừng đầu tiên, một sự vi phạm rõ ràng Quy chế Dublin, đã nâng cao căng thẳng trong vùng Schengen cho phép miễn thị thực của EU, với những quy định loại bỏ yêu cầu kiểm soát biên giới giữa hai mươi sáu quốc gia châu Âu. Khu vực này được xem là một trong những thành tựu biểu trưng của tiến trình kết nối châu Âu, và giờ đây, trong tình hình khủng hoảng nhập cư và những mối lo ngại về an ninh ngày càng tăng, vấn đề vùng Schengen càng được nghiên cứu kỹ lưỡng. (Bất ổn đầu tiên xuất hiện vào tháng 4 năm 2011, khi nước Pháp tái lập kiểm soát biên giới trong thời gian ngắn để ứng phó với hàng ngàn người tị nạn Tunisia và Libya tiến vào Pháp từ nước láng giềng Italy. Đến tháng 5 năm 2011, Đan Mạch cũng hành động tương tự khi quốc gia này khôi phục tạm thời việc kiểm soát biên giới với Thụy Điển và Đức.)

Trong tháng 8 năm 2015, Đức thông báo rằng quốc gia này đã đình chỉ quy chế Dublin cho những người tị nạn Syria, để ngưng trục xuất người Syria trở về nước châu Âu mà họ nhập cảnh đầu tiên. Quyết định này của thành viên hùng mạnh nhất và giàu có nhất của liên minh được xem như một cử chỉ quan trọng của tình đoàn kết với các quốc gia đang đứng ở tiền tuyến của khủng hoảng nhập cư. Tuy nhiên, Thủ tướng Merkel cũng cảnh báo rằng tương lai của vùng Schengen vẫn tiềm ẩn nguy cơ trừ khi tất cả các nước thành viên EU cùng làm tròn trách nhiệm để quá trình tái định cư di dân diễn ra công bằng.

Bà Conley của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) e ngại rằng một dòng di dân liên tục có thể khiến các nước thành viên EU đình chỉ du lịch tự do qua biên giới, như Đan Mạch và Pháp đã làm trong năm 2011, trong khoảng thời gian khá lâu. “Tôi ngờ rằng nếu đời sống chính trị xung quanh vấn đề người nhập cư bắt đầu trở nên hỗn loạn, bạn sẽ nhận thấy các nước tái lập kiểm soát biên giới với tần suất lớn hơn, có nghĩa là họ đã có thể phải căn chỉnh lại đến cả một trong những trụ cột chính của châu Âu, là quyền di chuyển tự do của người dân” bà cho biết thêm.

Những đề xuất chính để quản lý khủng hoảng là gì?

Trong tháng 9 năm 2015, Chủ tịch Ủy ban châu Âu Jean-Claude Juncker đã công bố kế hoạch xem xét lại hệ thống hạn ngạch nhập cư trong hai mươi hai nước thành viên của khối tham gia hệ thống này. (Hy Lạp, Ý, và Hungary sẽ không bị yêu cầu tái định cư cho người di cư nhiều hơn nữa, và Anh, Đan Mạch, Ireland được miễn chính sách tị nạn EU theo quy định đặt ra trong Hiệp ước Lisbon năm 2009) Nỗ lực thứ hai của ông Juncker là thiết lập một hạn ngạch tái phân bố dân cư cho 160.000 di dân, tăng gấp bốn lượng người trong tháng tư vừa rồi, và thêm Hungary vào danh sách các quốc gia ở chặng nhập cảnh đầu tiên cần được hỗ trợ, cùng với Hy Lạp và Italy. Một số người chỉ trích kế hoạch hạn ngạch này vì cho rằng nó sẽ tạo ra một “lực hút” mới với người nhập cư, mà họ cho rằng yếu tố này không bền vững. Các nhà lãnh đạo EU dự kiến ​​sẽ thảo luận về đề xuất này tại hội nghị thượng đỉnh khẩn cấp về khủng hoảng di dân dự kiến diễn ra ​​ngày 14 tháng 9.

Giới hành pháp và chính phủ các nước EU đang cùng chuẩn bị chính sách trước những dòng người tị nạn mới, sau khi giới quan chức công bố thông tin chi tiết về lượng người mỗi quốc gia thành viên EU phải tiếp nhận trong thứ Hai vừa rồi.

Kế hoạch mới về phân bổ hạn ngạch tiếp nhận người tị nạn theo từng nước châu Âu. (Anh Quốc, Ireland và Đan Mạch không có trong danh sách này vì những quốc gia này được miễn trách nhiệm trong chính sách về người tị nạn ở châu Âu. Hy Lạp, Hungary và Ý cũng không có trong danh sách vì đây là những nước phải làm “cửa ngõ” tập trung người di cư vào châu Âu – như thông tin ở trên) Ảnh: Reuters
(Tổng cộng 160 ngàn người tị nạn sẽ được tái định cư ở các nước châu Âu trong danh sách. Phần màu xanh trong từng đường biểu diễn được tính dựa trên 40.000 người nhập cư đến từ Ý và Hy Lạp (dự kiến ban đầu vào tháng 5 năm 2015). Phần màu đỏ trong từng đường biểu diễn được tính dưa trên 120.000 người nhập cư xuất hiện sau đấy (tính trong tháng 9 năm 2015). Mỗi phần màu đỏ đều gấp khoảng ba lần phần màu xanh trong từng đường biểu diễn, tương ứng với tỷ lệ 120.000 người/ 40.000 người. Như vậy, tỷ lệ này được bảo toàn trong khả năng tiếp nhận của từng nước EU, và thực tế, Đức và Pháp phải tiến hành tái định cư cho lượng người nhập cư đông nhất)

Bên cạnh việc tiếp nhận lượng người tị nạn ngày càng tăng, nhiều chuyên gia cho rằng EU và các cường quốc trên toàn cầu cũng phải viện trợ thêm cho các nước Trung Đông như Thổ Nhĩ Kỳ, Lebanon, Jordan, những quốc gia vốn đã phải thường trực chịu trách nhiệm với số phận của dòng người tị nạn từ Syria. Theo Cao ủy Liên Hiệp Quốc về người tị nạn, có khoảng 1.900.000 người Syria đã định cư ở Thổ Nhĩ Kỳ, khoảng 1.100.000 người ở Lebanon, và khoảng 630.000 người ở Jordan kể từ khi xung đột xảy ra Syria vào năm 2011. Chính điều này đã thay đổi phân bố nhân khẩu và các nền kinh tế các nước sở tại, vì thiếu kinh phí mà họ vẫn đang rất chật vật để cung cấp nhu yếu phẩm và chỗ trú ẩn cho người tị nạn. (Từ năm 2011, Hoa Kỳ đã viện trợ nhân đạo cho Syria hơn 4 tỷ dollar, nhưng chỉ cung cấp được nơi trú ẩn cho 1500 người Syria.)

Ủy ban Châu Âu hiện đang thực thi một số chính sách khác, bao gồm việc lập một “danh sách các nước an toàn” để giúp các nước xúc tiến giải quyết đơn xin tị nạn và thậm chí có quyền trục xuất nếu cần thiết. Dòng người nhập cư từ các nước vùng Balkans dễ chịu tổn thương nhất bởi quá trình thay đổi thủ tục này, đơn xin tị nạn của họ chiếm 40 phần trăm trong tổng số đơn xin mà nước Đức nhận được trong sáu tháng đầu năm 2015. Tuy nhiên, một số tổ chức nhân quyền đã đặt câu hỏi về phương pháp mà một số quốc gia sử dụng để xây dựng các danh sách và nghiêm trọng hơn, họ cảnh báo rằng dạng danh sách như vậy có thể vi phạm quyền tị nạn.

Liên minh châu Âu vừa thông qua một kế hoạch mười điểm về di dân trong tháng 4 năm 2015 bao gồm các lời kêu gọi cho một “nỗ lực mang tính hệ thống để nắm bắt và phá hủy các mạng lưới do những kẻ buôn người sử dụng”. Tuy nhiên, nhiều nhà phê bình cho rằng nếu tập trung vào những chiến dịch làm gián đoạn hoạt động buôn người thì giới hoạch định chính sách đã không nhận ra những “yếu tố thúc đẩy” còn quan trọng hơn khiến người di cư phải tìm đến châu Âu: tình trạng nghèo đói và xung đột đang hoành hành ở những khu vực rộng lớn của Trung Đông, châu Phi và Nam Á đã khiến người dân ở đấy không còn cách nào khác ngoại trừ tha hương.

Vào tháng 5 năm 2015, Vụ trưởng chính sách đối ngoại của EU, bà Frederica Mogherini, đề nghị sự ủy quyền từ Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc về việc sử dụng lực lượng quân sự để đuổi bọn buôn người và tàu của chúng ra khỏi bờ biển của Libya. Tuy nhiên, Chính phủ được quốc tế công nhận của Libya lập tức từ chối đề nghị này, và Nga, một thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, cũng cảnh báo rằng quốc gia này sẽ phủ quyết bất kỳ đề nghị nào nhằm mục đích tiêu diệt tàu thuyền của bọn buôn người. Vào tháng 9 năm 2015, bà Mogherini công bố kế hoạch xem xét lại vấn đề phá hủy tàu buôn lậu với chính phủ đoàn kết dân tộc Libya và Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc.

Những kế hoạch về vấn đề hạn ngạch và hoạt động hải quân có thể giúp các nước thành viên EU kiểm soát cuộc khủng hoảng nhập cư này tốt hơn, nhưng các chuyên gia cũng cảnh báo rằng chỉ những đề nghị như vậy sẽ không thể ngăn chặn làn sóng người di cư. Vì vậy, các nhà lãnh đạo châu Âu phải giải quyết được căn nguyên của khủng hoảng nhập cư: nghĩa là họ phải làm trung gian để giúp kết thúc cuộc nội chiến của Syria, khôi phục lại sự ổn định cho Libya, và nâng mức viện trợ cho vùng châu Phi cận Sahara. Châu Âu sẽ còn phải tiếp tục đối mặt với nhiều luồng di dân, trừ khi họ cùng thiết lập được giải pháp chính trị thỏa đáng cho cuộc khủng hoảng này.

Trong khi đó, cách các nước EU thiếu phối hợp trong lúc giải quyết những trường hợp di dân bất thường ở mức gần trung hạn có thể tiếp tục khiến các quốc gia riêng lẻ phải ưu tiên an ninh quốc gia hơn trách nhiệm quốc tế. Nghĩa là các nước không chỉ tái lập mà còn thiết lập việc kiểm soát biên giới một cách gắt gao như đóng cửa biên giới, xây dựng hàng rào kẽm gai, cũng như xây dựng chính sách hàng hải chú trọng trường hợp đặc thù chứ không phải quy chuẩn chính trị quốc tế.

Nhưng đối với bà Conley của CSIS, làm như vậy sẽ không chỉ gây nguy hiểm người di cư và người tị nạn, mà còn đi ngược lại những lý tưởng đã lập nên EU như ngày nay. “Những phản ứng chính trị mang khuynh hướng xua đuổi người di cư hoặc giam cầm họ về lâu dài đều đi ngược lại chính hệ giá trị EU luôn nhấn mạnh, như trách nhiệm bảo vệ cuộc sống con người và quyền tị nạn,” bà khẳng định.

© 2007-2015 Bản tiếng Việt TẠP CHÍ PHÍA TRƯỚC – www.phiatruoc.info






No comments:

Post a Comment

View My Stats