Người dịch: Trần Văn Minh
Khu
vực này có thể phụ thuộc vào Trung Quốc để tăng trưởng, nhưng sự
phụ thuộc đó làhỗ tương, điều mà Trung Quốc
dường như bỏ quên.
Ông Rafael Alunan, Bộ trưởng Nội vụ của Philippines
dưới thời tổng thống Fidel Ramos, nhớ lại ngày người Trung Quốc bước vào bãi đá
Vành Khăn trong quần đảo Trường Sa, một khu vực ở Biển Đông mà những người đồng
hương của ông đã từ lâu xem là của họ. Ba năm trước đó, vào năm 1992, người Mỹ
đã rút khỏi vịnh Subic và căn cứ không quân Clark. Không có sự che chắn bảo đảm,
ông Ramos là một tướng về hưu, có rất ít lựa chọn.
Ông Alunan nói: “Chúng tôi thức dậy vào một buổi
sáng với một vết đâm sau lưng. Khi chúng tôi chất vấn Trung Quốc, họ nói với
chúng tôi họ ở đó để xây dựng cấu trúc tạm thời cho ngư dân. Lo ngại của chúng
tôi đã chứng minh là đúng. Hôm nay, nó là một căn cứ quân sự đầy đủ”.
“Raffy” là tên người dân gọi ông, gần đây đã đưa một
đoạn phim ngắn lên YouTube. Trong đoạn phim đó, ông mô tả Trung Quốc là một nước
“lừa đảo” và “thất bại” được đánh dấu bằng tham nhũng tràn lan, nợ nần, suy giảm
kinh tế, xuất huyết vốn tư bản và bất mãn xã hội. “Với tốc độ nhanh đến nỗi
Trung Quốc đang tạo ra kẻ thù và phá hoại tài sản chung trên thế giới, người ta
mong rằng Trung Quốc sẽ tự nổ bùng trước khi gây thiệt hại hơn nữa cho đời sống
của hành tinh và sự ổn định tương đối của khu vực”, ông kết luận.
Vào cuối tháng 5, cùng với các nghiên cứu sinh của
Jefferson Fellowship từ Trung tâm Đông-Tây ở Hawaii, tôi gặp ông Alunan ở
Manila. Khi tôi hỏi tại sao ngôn ngữ của ông quá cay đắng, ông ta cảm thấy ngạc
nhiên. Ông nói với tôi, “Đó chỉ là sự thổ lộ những gì mà người Philippines
chúng tôi cảm nhận. Tôi ngạc nhiên khi ông xem điều đó là cay độc”.
Philippines đã từng xác định chủ nghĩa dân tộc của
mình trên quan điểm chống Mỹ. Hôm nay, mục tiêu là Trung Quốc. Dư luận trong
khu vực quần đảo cho thấy Đông Nam Á, đã bắt đầu từ bỏ nỗi sợ hãi cũ đối với
Trung Quốc, đang cảm thấy khó chịu về họ. Điều này buộc các nhà lãnh đạo chính
phủ xem xét lại ngân sách quốc phòng, tìm kiếm đồng minh an ninh mới và suy
nghĩ về tương lai của một khu vực chưa từng thấy xung đột lớn kể từ khi Chiến
tranh Đông Dương kết thúc gần ba thập niên trước đây. Làm gì bây giờ?
Trong số các nước Asean ven biển, Philippines đã có
một trong những mối quan hệ chặt chẽ hơn với Trung Quốc, đã sớm công nhận nước
Cộng hòa Nhân dân, thiết lập quan hệ ngoại giao vào tháng 6 năm 1975, theo bước
chân của Malaysia, là nước đầu tiên làm việc này. Sự thực là, năm trước đó,
Trung Quốc đã chiếm lấy quần đảo Hoàng Sa sau khi giết chết khoảng 70 binh sĩ
Việt Nam. Nhưng Việt Nam lúc đó không nằm trong Asean, do đó, vấn đề đã được
xem như là chuyện của kẻ khác, một tranh chấp huynh đệ giữa hai nước cộng sản.
Ngay cả việc chiếm đá Vành Khăn cũng được xem như là một sai lầm.
Bối
cảnh mới
Nhưng vừa khi sự kiện đó bắt đầu mờ dần trong tâm
trí của các nước Đông Nam Á thì cuộc đối đầu ở bãi cạn Scarborough xảy ra vào
năm 2012, khi Hải quân Philippines tìm cách bắt tám tàu đánh cá Trung Quốc thì
bị các tàu hải giám của Trung Quốc chặn lại. Đột nhiên, sự kiện được khoác lên
một tầm mức mới. Mỹ đã can thiệp, làm cho cả hai bên phải đồng ý rút lui.
Manila giữ lời hứa của mình nhưng người Trung Quốc
đã thất hứa. Sau đó họ sử dụng chiến thuật bầy đàn để ngăn chặn tàu thuyền
Philippines vào lại khu vực. Tháng Giêng năm sau, Philippines khởi động tiến
trình tố tụng trọng tài chống lại Trung Quốc, làm cho thế giới ngạc nhiên về
hành động và sự sỉ nhục văn hóa ngụ ý trong đó.
Các thành viên Asean thường kín đáo nhìn sự táo bạo
của Manila dưới ánh mắt ngờ vực. Nhưng tình hình đang thay đổi ở một vài nơi bất
ngờ nhất. Chẳng hạn như Malaysia đang sửa chữa lại kế hoạch an ninh mới và bắt
đầu công khai biểu lộ những lo lắng sau nhiều năm ve vãn Trung Quốc. Chỉ mới đầu
năm 2013, khi Thủ tướng Najib Razak chuẩn bị tái tranh cử trong bối cảnh sự bất
mãn của cử tri đối với đối tác liên minh của ông, Hiệp hội Trung Quốc Malaysia,
ông đã thực hiện một điều đặc biệt là tung ra kế hoạch khu công nghiệp
Malaysia-Trung Quốc Kuantan trong tiểu bang nhà của ông. Đứng bên cạnh ông ngày
hôm đó không ai khác hơn là ông Giả Khánh Lâm, nhân vật được xếp thứ tư trong Bộ
Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Nhưng tháng tư vừa qua, khi đọc diễn văn với tư cách
Chủ tịch ASEAN, Datuk Seri Najib đã bày tỏ “quan ngại sâu sắc” đối với việc bồi
đắp đảo đang diễn ra ở Biển Đông. Đáng chú ý, ông đã bay đến Tokyo vài tuần sau
đó để nâng cấp mối quan hệ quốc gia với Nhật Bản lên “quan hệ đối tác chiến lược”.
Indonesia, quốc gia lớn nhất của ASEAN, cũng cảnh
giác. Indonesia chưa phải là một bên tranh chấp, nhưng tuyên bố đường lưỡi bò của
Trung Quốc vòng xuống phía quần đảo Natuna của họ. Trong khi Bắc Kinh chưa từng
xác định chính xác tọa độ đường vòng này, các quan chức quân sự cao cấp Trung
Quốc nói trong vòng riêng tư rằng Jakarta đang “nằm trên 50.000 km vuông vùng
biển của chúng ta”. Trong khi đó, Việt Nam là nước có liên hệ lịch sử và chính
trị gần nhất với Trung Quốc trong số các nước ASEAN, đang cấp tốc ve vãn Ấn Độ
và Hoa Kỳ, ký kết thỏa thuận quốc phòng mà các chi tiết chưa được công bố.
Tuần này, khi các đại diện của 57 quốc gia tụ họp tại
Bắc Kinh để ký kết các điều khoản hiệp hội của Ngân hàng Đầu tư Cơ sở Hạ tầng
Châu Á mới (AIIB), ba trong số bảy nước trì hoãn đến từ ASEAN, đó là
Philippines, Malaysia và, đáng ngạc nhiên nhất là Thái Lan. Lời giải thích
chính thức là họ đang chờ đợi sự thông qua ở trong nước trước khi ký vào.
CHÍNH
SÁCH ‘BẤT AN’
Thỉnh thoảng cũng nên đặt mình vào vị trí của người
khác và tôi đã làm chính điều đó vài tuần trước đây khi đến thăm Học viện Quốc
gia về Nghiên cứu Biển Đông của Trung Quốc ở Hải Khẩu, đảo Hải Nam. Làm thế nào
để giải thích chính sách an ninh hay bất an của Trung Quốc, tôi hỏi Tiến sĩ Wu
Shicun, vị giám đốc tao nhã của Viện. Tiến sĩ Wu liệt kê ra những vấn đề: Khuôn
khổ an ninh là, Mỹ và Nhật đang gây khó khăn hơn cho Trung Quốc tiến vào Tây
Thái Bình Dương thông qua biển Hoàng Hải và biển Hoa Đông. Do đó, Biển Đông
cung cấp một lá chắn tự nhiên chống lại sự can thiệp có thể xảy ra.
Ông nói, phần bất an là Bắc Kinh cảm thấy việc tái
cân bằng của Mỹ tất cả là để kiềm chế Trung Quốc và Biển Đông chỉ là một phương
tiện cần thiết. “Mỹ đã điều chỉnh vị trí của họ về các tranh chấp”, ông nói với
tôi. “Từ sự can thiệp hạn chế, họ đã đi tới can thiệp tích cực và đang chọn
phe”.
Nhưng như thế tại sao không nhanh chóng hoàn tất một
Quy tắc Ứng xử (COC) ràng buộc với ASEAN, nếu không có gì khác để ngăn cản sự can
thiệp từ bên ngoài? Vâng, Tiến sĩ Wu nói, COC phức tạp hơn nhiều so với Tuyên bố
Ứng xử của các bên, ký kết vào năm 2002. Thêm nữa, chính các thành viên Asean
không thống nhất về những gì họ muốn trong đó: Malaysia nói rằng COC nên chỉ áp
dụng cho quần đảo Trường Sa, trong khi Việt Nam nói rằng nên bao gồm quần đảo
Hoàng Sa luôn. “Vì vậy, không dễ để Trung Quốc và các nước ASEAN đạt được đồng
thuận về vấn đề này”.
CUỐI
CÙNG LÀ CHUYỆN GÌ
Một số nhà phân tích cho rằng vấn đề thực sự là về
tàu ngầm tên lửa đạn đạo, hoặc SSBN, phương tiện ngăn chặn hạt nhân tối hậu. Ví
dụ, Liên Xô thường giấu các SSBN của họ dưới băng đá Bắc Cực để tránh bị phát
hiện. Nhưng, như những người theo dõi câu chuyện chuyến bay MH370 của Malaysia
Airlines đều biết, Biển Đông là một ao hồ cạn so với các ao rộng lớn của Ấn Độ
Dương và Thái Bình Dương. Điều này làm cho tàu ngầm của Trung Quốc, thường gây
nhiều tiếng động, dễ bị tổn thương. Vì vậy, một số nhìn thấy chính sách “pháo hạm”
của Trung Quốc đang chuyển động – một nỗ lực để biến Biển Đông thành một hồ nước
tư nhân, cho phép tàu ngầm của họ đủ khoảng trống để lẻn ra các đại dương lớn
hơn. Tiến sĩ Tong Zhao, một cộng sự viên tại Trung tâm Carnegie-Tsinghua về
Chính sách Toàn cầu của Bắc Kinh, ghi nhận biến cố liên quan đến tàu USNS
Impeccable – khi tàu này liên tục bị các tàu của Trung Quốc quấy rối trong thời
gian bốn ngày hồi tháng 3 năm 2009 – điều này xảy ra bởi vì Impeccable đang cố
gắng đồ họa các tuyến đường giao thông dưới biển từ Tam Á ở đảo Hải Nam, nơi
Trung Quốc có một căn cứ tàu ngầm lớn.
Kết quả cuối cùng của tất cả mọi chuyện là sự khởi đầu
của Chiến tranh Lạnh mới ở trước cửa của ASEAN. Bởi vì điều này, trong lúc
Trung Quốc đang tung ra đề án thúc đẩy tăng trưởng khu vực như AIIB, các chính
phủ phải gia tăng chi tiêu quốc phòng, mà ngân quỹ thường được lấy từ giáo dục
và y tế. Đó là phần thương tâm của vấn đề.
Khía cạnh đáng sợ là, không giống như trong những
ngày đối mặt giữa Liên Xô và NATO, hiện không có sẵn cơ chế để ngăn chặn tại nạn,
hoặc làm giảm cường độ trong trường hợp xảy ra sự cố.
Trung Quốc cần phải hiểu những thiệt hại uy tín do
chính họ tự gây ra, đáng chú ý là sự ngoan cố từ chối để các tuyên bố chủ quyền
của họ được thử nghiệm trước pháp luật. Điều đáng tiếc là về các vấn đề như
thương mại, ví dụ, Trung Quốc đã học được cách tận dụng hệ thống của Tổ chức
Thương mại Thế giới cho lợi thế của họ, đặc biệt là cơ chế giải quyết tranh chấp
của Tổ chức. Bằng cách nào đó, họ đã không làm điều đó trong các tranh chấp biển.
Chắc hẳn Trung Quốc cũng phải xấu hổ khi quân đội nước ngoài nói với các nhà
báo về các cuộc diễn tập trong tương lai với Trung Quốc, họ giải thích điều này
dưới khía cạnh là nhu cầu để “xã hội hóa” Trung Quốc, như rằng Trung Quốc là một
con yêu quái không thể đoán trước cần phải được huấn luyện để ăn với miệng của
nó đóng lại.
Bắc Kinh cũng phải biết rằng trong khi họ đã giữ cho
câu chuyện về sự trỗi dậy của họ như là một động lực tăng trưởng cho thế giới,
sự phụ thuộc này hoàn toàn chỉ là một chiều. Khi nền kinh tế của họ chậm lại,
Trung Quốc sắp sửa bớt vênh váo. Hiện tại, theo những nhà quan sát Trung Quốc,
khoảng 2% tăng trưởng kinh tế đến từ việc cộng thêm giảm phát vào tỷ lệ tăng
trưởng chính thức, là tỷ lệ mà hiện nay đã giảm xuống hơn 4%. Các Phòng Thương
mại Mỹ tại Bắc Kinh cho biết tỷ lệ phần trăm lợi nhuận của các công ty nhà nước
ở Trung Quốc đang liên tục tuột dốc. Tương tự như vậy, Indonesia và Thái Lan –
hai nền kinh tế lớn nhất Đông Nam Á – có Trung Quốc là đối tác thương mại hàng
đầu của họ. Nhưng họ mua nhiều từ Trung Quốc hơn con đường ngược lại. Singapore
là nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất tại Trung Quốc trong hai năm qua, một
thực tế không thể chối bỏ, cho rằng sự suy thoái của Trung Quốc đa phần xuất
phát từ sự sụt giảm đáng kể về đầu tư từ năm 2009.
Bắc Kinh hãy lưu ý. Khu vực này quan trọng đối với
quý vị cũng như là quý vị đối với nó.
No comments:
Post a Comment