Nguyễn Văn Thân
5/03/2015
Tranh chấp Biển Đông
Như
mọi người đã biết, Phi Luật Tân đã tiến hành nộp đơn kiện Trung Quốc với Tòa án
Trọng tài Quốc Tế dưới Phụ Lục VII của Công Ước Quốc Tế về Luật biển 1982 vào
ngày 23 tháng 1 năm 2013. Từ tháng 3 đến tháng 7 năm 2013 thì một Hội đồng thẩm
phán dày dặn kinh nghiệm cho phiên xử này đã được thành lập gồm có các vị thẩm
phán Thomas A. Mensah (Ghana), Jean Pierre Cot (Pháp), Stanislaw Pawlak (Ba
Lan), Alfred H.A. Soon (Hòa Lan) và Rudiger Wolfrum (Đức). Thomas A. Mensah trước
đây đã từng là chủ tịch và Jean Pierre Cot, Stanislaw Pawlak cùng với Rudiger
Wolfrum hiện là 3 trong số 21 vị thẩm phán đương nhiệm của Tòa án Quốc tế về Luật
biển. Theo lịch trình, Phi Luật Tân đã nộp hồ sơ pháp lý dày khoảng 4000 trang
cho tòa vào ngày 3 tháng 3 năm 2014. Tòa yêu cầu phía bị đơn (Trung Quốc) nộp hồ
sơ phản bác trước ngày 16 tháng 12 năm 2014. Nhưng vào ngày 7 tháng 12 năm
ngoái, Trung Quốc đã chính thức ban hành một văn bản lập trường (position
statement) xác nhận là sẽ không tham gia vào vụ kiện dựa trên cơ sở là Tòa án
không có thẩm quyền xét xử đơn kiện này. Tuy nhiên, Tòa đã gửi một số câu hỏi
và yêu cầu Phi Luật Tân trả lời trước ngày 16 tháng 3 năm 2015. Phiên xử dự trù
sẽ diễn ra từ ngày 7 đến 18 tháng 7 năm nay và phán quyết của Tòa sẽ được ban
hành trong tháng Giêng năm 2016, tức là 3 năm sau ngày Phi Luật Tân khởi kiện.
Hội đồng thẩm phán
Phía
nguyên đơn Phi Luật Tân được đại diện bởi một đội ngũ luật sư quốc tế hùng hậu
và đắt tiền gồm có Paul Reichler (Hoa Kỳ), Giáo Sư Bernard Oxman (Đại Học Trường
Luật Miami), Giáo Sư Philippe Sands QC (Đại Học Edinburgh) và Giáo Sư Alan
Boyle (Đại Học College London). Những vị này cũng đã thụ lý hồ sơ đại diện cho
nguyên đơn thành công trong vụ kiện giữa Bagladesh và Miến Điện cũng như giữa
Bangladesh và Ấn Độ trong vụ kiện Vịnh Bengal năm 2012 và 2014. Tóm lại, đội
ngũ thẩm phán và luật sư dính líu tới vụ kiện này của phi Luật Tân đều là những
người có kiến thức và kinh nghiệm về Luật biển Quốc tế hàng đầu trên thế giới.
Biển
Đông là một biển rìa lục địa và là một phần của Thái Bình Dương bao phủ khoảng
2.74 triệu cây số vuông. Biển Đông được bao bọc bởi các quốc gia gồm có Trung
Quốc, Việt Nam, Phi Luật Tân, Brunei, Mã Lai Á, Nam Dương và Đài Loan. Biển
Đông có rất nhiều đặc điểm nhưng có 3 bộ phận riêng biệt là quần đảo Hoàng
Sa, bãi cạn Scarborough và quần đảo Trường Sa. Đơn kiện của
Phi Luật Tân không liên quan tới Hoàng Sa. Bãi cạn Scarborough Shoal
nằm khoảng 120 hải lý từ phía tây của Phi Luật Tân và hơn 350 hải lý từ Trung
Quốc. Nó là những bãi đá chìm nằm dưới mặt nước với 6 điểm nhô trên mặt nước
khi thủy triều lên. Quần đảo Trường Sa gồm có khoảng 150 hòn đảo và đá
mà đa số là những hòn đá ngầm nằm dưới mặt nước có khoảng cách từ 50 tới 350 hải
lý từ Palawan và hơn 550 hải lý từ Đảo Hải Nam. Không có hòn đá nào mà Trung Quốc
hiện chiếm đóng tự nó có khả năng duy trì một cuộc sống kinh tế.
Đơn kiện của Phi Luật
Tân phác thảo 4 điểm chính:
Thứ nhất, Phi Luật Tân yêu cầu
tòa tuyên bố là quyền hạn và trách nhiệm sử dụng biển, đáy biển cũng như các đặc
điểm biển gồm có đá, đá ngầm và đảo được xác định bởi Công ước Quốc tế về Luật
biển và tuyên bố chủ quyền “Đường 9 đoạn của” Trung Quốc vi phạm các điều khoản
của Công ước và vì vậy là bất hợp pháp.
Thứ hai, các hòn đá ngầm
trong quần đảo Trường Sa gồm có Mischief Reef (Đá Vành Khăn), McKennan
Reef (Đá Ken Nan), Gaven Reef (Đá Ga Ven) và Subi Reef (Đá Xu Bi) đều nằm dưới
mặt nước khi thủy triều lên và không phải là đảo và vì vậy không thể lệ thuộc
chủ quyền của bất cứ quốc gia nào trừ khi nó trở thành một bộ phận thềm lục địa
của quốc gia đó. Dựa vào nguyên tắc này, Mischief Reef và McKennan Reef là một
bộ phận thềm lục địa của Phi Luật Tân dưới Chương VI của Công Ước.
Thứ ba, các hòn đá trong bãi
cạn Scarborough Shoal gồm có Johnson Reef (Đá Gạc Ma), Cuarton Reef (Đá
Châu Viên) và Fiery Cross Reef (Đá Chữ Thập) phần lớn nằm ở dưới mặt nước khi
thủy triều lên ngoại trừ một vài hòn đá nhô lên từ mặt nước. Những hòn đá này
nhiều lắm chỉ có thể hưởng quy chế 12 hải lý nhưng Trung Quốc đã đòi hơn 12 hải
lý từ các bãi đá này và đã ngăn cản tàu thuyền Phi Luật Tân đánh cá ngoài phạm
vi 12 hải lý.
Sau cùng, nguyên đơn yêu cầu
Tòa xác nhận là Phi Luật Tân có quyền sử dụng và khai thác biển trong vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa tính từ đường cơ sở quần đảo (archipelagic
baselines) mà Trung Quốc đã và đang một cách bất hợp pháp ngăn cản Phi Luật Tân
trái với trách nhiệm của Trung Quốc dưới Công ước.
Dù
đã tham gia Công ước Quốc tế về Luật biển nhưng Trung Quốc đòi chủ quyền của hầu
hết Biển Đông, cụ thể là chủ quyền trên hơn 1.94 triệu cây số vuông hoặc 70% mặt
biển và đáy biển trong “Đường 9 đoạn” theo lá thư đề ngày 7 tháng 5 năm 2009 gửi
cho Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc. Từ phía Đông, bộ phận năm trong đường 9 đoạn
này chỉ cách Đảo Luzon của Phi Luật Tân 50 hải lý và cắt đứt vùng đặc quyền
kinh tế 200 hải lý của Phi Luật Tân. Trong phạm vi Đường 9 đoạn, Trung Quốc đã
ngăn cản tàu thuyền Phi Luật Tân tự do khai thác trong vùng đặc quyền kinh tế.
Từ tháng 6 năm 2012, Trung Quốc đã đặt vùngbiển trong Đường 9 đoạn thuộc phạm
vi hành chánh của tỉnh Hải Nam và trong tháng 11 năm đó họ đã ban hành luật cấm
tàu thuyền đi vào phạm vi của Đường 9 đoạn.
Ngay
cả trước khi công bố yêu sách Đường 9 đoạn, Trung Quốc đã tiến hành chiếm đóng
một số bãi đá tại Trường Sa và xây cất đảo nhân tạo trên các bãi đá này
gồm có Mischief Reef, McKennan Reef,
Gaven Reef và Subi Reef. Những bãi đá này không phải là đảo theo Điều 121 của
Công ước mà là những bãi đá chìm có khoảng cách rất xa từ lãnh hải và thềm lục
địa của Trung Quốc. Mischief Reef có khoảng cách 130 hải lý từ Palawan và 600 hải
lý từ Hải Nam. McKennam Reef chỉ cách Palawan 180 hải lý. Trung Quốc đã xây cất
bục xi măng và một số cấu trúc khác trên bãi đá này dù Phi Luật Tân đã phản đối.
Gaven Reef và Subi Reef là hai bãi đá chìm cách Palawan khoảng 205 và 230 hải
lý.
Trong
năm 2012, Trung Quốc chiếm đóng 6 hòn đá nhỏ nhô trên bãi cạn ScarboroughShoal
gồm có Johnson Reef cách Palawan 180
hải lý, Cuarteron Reef cách Palawan
245 hải lý và Fiery Cross Reef cách
Palawan 255 hải lý. Những hòn đá này không phải là đảo mà chỉ rộng có vài mét
và cao hơn mặt nước khoảng 3 mét khi thủy triều lên. Những bãi đá này nằm gần kề
với nhau và không thể hưởng hơn 12 hải lý dưới Công ước nhưng Trung Quốc ngăn cấm
Phi Luật Tân được sử dụng quyền khai thác ngoài phạm vi 12 hải lý của những bãi
đá ngầm này và trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Phi Luật Tân. Cho tới
tháng 4 năm 2012 thì tàu thuyền Phi Luật Tân thường xuyên vẫn thường xuyên ra
vào đánh cá trong khu vực này không có chuyện gì xảy ra nhưng sau đó thì bị
Trung Quốc ngăn cấm mà chỉ có tàu thuyền Trung Quốc được quyền đánh cá trong
khu vực này và họ đã đánh bắt những loại hải sản có nguy cơ bị tuyệt chủng chẳng
hạn như rùa, cá mập và gàu cò sạp là những động vật được bảo vệ bởi luật quốc tế
và của luật của Phi Luật Tân.
Từ
năm 1995, Phi Luật Tân đã nhiều lần cố gắng đàm phán để đi đến một thoả thuận với
Trung Quốc nhưng không có kết quả. Phi Luật Tân có đủ bằng chứng chứng minh là
họ đã tận dụng mọi nỗ lực giải quyết tranh chấp bằng đàm phán theo yêu cầu của
Công ước sau 17 năm thương thuyết nhưng không có kết quả.
Trong
văn bản lập trường, Trung Quốc lập luận rằng đơn kiện của Phi Luật Tân phủ nhận
chủ quyền truyền thống (historic rights) của Trung Quốc tại Biển Đông mà vấn đề
giải quyết tranh chấp chủ quyền không nằm trong phạm vi của Công ước. Thứ hai,
vịêc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền các hòn đá, đảo chìm, bãi cạn cũng không nằm
trong phạm vi Công ước và thứ ba trước khi trả lời câu hỏi là Trung Quốc có vi
phạm quyền hạn của Phi Luật Tân về việc sử dụng và khai thác trong vùng đặc quyền
kinh tế hay không thì cần phải xác định chủ quyền của các hòn đá, đảo chìm và
bãi cạn. Vì vậy, vấn đề này cũng nằm ngoài phạm vi của Công ước. Tóm lại, tòa
không thể nào phán xét đơn kiện của Phi Luật Tân mà không phán xét chủ quyền của
các hòn đá và đảo nhưng Công Ước chỉ cho phép Tòa phán quyết những tranh chấp
liên quan tới việc diễn giải và áp dụng các điều khoản của Công ước.
Mặc
dù bị đơn Trung Quốc không tham gia vụ kiện nhưng không có nghĩa là Phi Luật
Tân sẽ đương nhiên thắng kiện (default judgment) mà tòa vẫn phải đi qua một tiến
trình xét xử công khai và minh bạch. Câu hỏi đầu tiên và quan trọng nhất là tòa có thẩm quyền
xét xử vụ kiện hay không? Vấn đề này do tòa quyết định chớ không phải
bên bị kiện. Khi tham gia vào Công ước thì các quốc gia thành viên đã chấp
nhận trước thẩm quyền của tòa trong mọi tranh chấp liên quan đến sự diễn giải
và áp dụng các điều khoản của Công ước ngoại trừ tranh chấp liên quan tới chủ
quyền và ranh giới lãnh hải liên hệ. Tuy nhiên, trong lúc phán xét tranh chấp về
các điều khoản của Công Ước thì có lúc tòa phải phân định lãnh hải nhưng không
có nghĩa là tòa xét xử tranh chấp về lãnh hải. Ví dụ như qua hai vụ kiện trong
vịnh Bengal giữa Bangladesh và Miến Điện và giữa Bangladesh và Ấn Độ, vấn đề
trong hai vụ kiện này là tòa phải ấn định đường cơ sở của Bangladesh vì biên giới
của quốc gia này giáp vịnh Bengal có hình lõm khá đặc biệt. Sau khi tòa ra phán
quyết ấn định đường cơ sở thì cũng đã mặc nhiên ấn định lãnh hải 12 hải lý cũng
như vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Bangladesh. Cả Miến Điện và Ấn Độ đều
chấp nhận phán quyết của tòa. Thái độ của Miến Điện và đặc biệt nhất là của Ấn
Độ thật là đáng phục vì nó biểu lộ văn hóa văn minh và tinh thần thượng tôn
pháp luật thay vì theo thói quen “nước lớn bắt nạt nước nhỏ” của một số
đại cường quốc. Phán quyết này đã giúp cả 3 quốc gia trong vùng giải quyết một
sự tranh chấp kéo dài hàng chục năm và có cơ hội duy trì ổn định cũng như hợp
tác phát triển giao thương có lợi cho tất cả mọi người.
Vậy thì tòa có thể
phán xét yêu cầu của Phi Luật Tân mà không cần phải phân định chủ quyền hoặc
lãnh hải hay không?
Trong đơn tố kiện, Phi Luật Tân nói rằng họ biết rõ tuyên bố bảo lưu của Trung
Quốc dưới Điều 298 của Công ước là không chấp nhận thẩm quyền của tòa án được
thành lập dưới Công ước về các vấn đề liên quan tới chủ quyền truyền thống cũng
như việc phân định ranh giới lãnh hải liên hệ. Luật sư của Phi Luật Tân lập luận
rằng nguyên đơn không yêu cầu xác định chủ quyền của những hòn đảo hoặc đá đang
bị tranh chấp hoặc phân định lãnh hải mà chỉ yêu cầu tòa xác nhận những hòn đảo
và đá đó có được hưởng đặc quyền kinh tế hay không dù chủ quyền thuộc bất cứ quốc
gia nào. Thứ hai, nguyên đơn yêu cầu xác định yêu sách chủ quyền Đường 9 đoạn
vi phạm Công ước và không có giá trị pháp lý vì yêu sách này vượt xa phạm vi 12
hải lý tính từ đường cơ sở. Ngoài ra, Luật biển Quốc tế và Công ước chỉ cho
phép tuyên bố chủ quyền truyền thống đối với các vịnh (historic bay title) nằm
gần bờ biển của một quốc gia. Các hòn đảo và đá ở Trường Sa và bãi cạn Scarborough
Shoal thì cách Trung Quốc và đảo Hải Nam rất xa. Vì vậy, tòa có đủ thẩm quyền
phán xét vì yêu cầu của nguyên đơn không đụng chạm tới việc xác định chủ quyền
truyền thống hoặc lãnh hải.
Dù
không tham gia vào vụ kiện nhưng Trung Quốc đã đầu tư rất nhiều trong việc xây
dựng lập luận là tòa án được thành lập dưới Phụ Lục VII không có thẩm quyền
phán xét đơn kiện của Phi Luật Tân. Tuy rằng đã tuyên bố phủ nhận thẩm quyền
nhưng Trung Quốc chắc chắn là không muốn bị đặt vào thế khinh mạn phán quyết của
tòa đặc biệt là khi tòa gồm có những vị thẩm phán hàng đầu được mọi người kính
trọng.
Vì
vậy, phán quyết của tòa dự trù trong đầu năm 2016 sẽ có một tầm quan trọng đáng
kể không chỉ riêng cho Phi Luật Tân mà cho cả nền an ninh và hòa bình ở Biển
Đông. Nếu câu trả lời là tòa không có thẩm quyền thì Phi Luật Tân sẽ thất bại
hoàn toàn về mặt pháp lý cũng như ngoại giao. Thế thương thuyết của Phi Luật
Tân sẽ giảm thiểu rất nhiều đối với Trung Quốc. Mặt khác, Trung Quốc sẽ dạn dĩ
hơn nữa trong việc thực hiện tham vọng lấn chiếm Biển Đông. Không có quốc gia
nào trong vùng có khả năng áp đặt giải pháp kinh tế với Trung Quốc, xung đột vũ
trang có nguy cơ diễn ra khi các cuộc tranh chấp tiếp tục leo thang.
Nhưng
nếu tòa ban hành phán quyết theo lời yêu cầu của Phi Luật Tân thì sẽ tạo ra một
tác động tích cực. Tuy Phi Luật Tân không có khả năng quân sự hoặc kinh tế để
thi hành phán quyết của tòa nhưng trong 95% các vụ kiện quốc tế thì các bên kiện
chấp nhận phán quyết của tòa dù họ không hài lòng với phán quyết đó. Uy tín của
một quốc gia có một tầm vóc quan trọng. Nếu không tuân thủ phán quyết của tòa
thì tư cách thành viên Công ước của Trung Quốc có thể sẽ bị đình chỉ. Ngoài ra,
các quốc gia đối tác cũng như các đại công ty phải xem lại việc giao thương làm
ăn với Trung Quốc. Nếu Trung Quốc sẵn sàng khinh miệt án lệnh của tòa thì liệu
họ có tôn trọng các văn bản hiệp ước hoặc thỏa thuận kinh tế mà họ ký kết hay
không?
Phán quyết của tòa án
trọng tài trong vụ kiện này cũng sẽ ảnh hưởng quan trọng đến quan hệ và tranh
chấp chủ quyền giữa Việt Nam và Trung Quốc tại Biển Đông. Không có dấu hiệu
gì cho thấy Trung Quốc sẽ ngưng hoặc giảm ý định kiểm soát vùng biển trong Đường
9 đoạn. Việt Nam không có khả năng đối đầu quân sự và cũng không đủ sức mạnh
kinh tế để đặt áp lực ngoại giao với Trung Quốc. Giải pháp duy nhất và có thể
không tránh khỏi là đấu tranh pháp lý trước tòa án quốc tế. Trong cuộc phỏng vấn
với một cơ quan truyền thông tại Hoa Kỳ trong tháng 9 năm 2014, Tiến sĩ Nguyễn
Thị Lan Anh, giảng viên khoa Luật Quốc tế Học viện Ngoại giao Việt Nam cho biết
có một học giả nào đó đã tiết lộ là Trung Quốc đã tiến hành đầu tư vào một đội
ngũ 200,000 luật sư để tạo dựng cơ sở pháp lý cho yêu sách chủ quyền Biển Đông
của họ. Trong khi đó thì Hội Luật gia Việt Nam chỉ có khoảng 46,000 thành viên
và cả nước Việt Nam chỉ có khoảng 8,000 hành nghề luật sư và. Ngoài ra, Trung
Quốc cũng đã thành lập các trường đại học và đào tạo nhiều học giả chuyên
nghiên cứu về luật biển cùng với các tạp chí chuyên môn về luật biển có tầm vóc
quốc tế. Thẩm phán Trung Quốc Cao Chi Quốc là một trong 21 thẩm phán đương nhiệm
của Tòa án Quốc tế về Luật biển.
So
với Việt Nam thì khả năng và kiến thức pháp lý về luật biển của Trung Quốc mạnh
hơn rất nhiều. Ngay từ bây giờ, Việt Nam cần xây dựng một đội ngũ luật sư giỏi
và có khả năng Anh ngữ dành công tác toàn thời nghiên cứu về các vụ kiện tranh
chấp lãnh hải. Có thể mời các vị luật sư và giáo sư đã từng tham gia các vụ kiện
này đến Việt Nam giảng dạy và huấn luyện. Cần phải mở trường hoặc khoa luật quốc
tế sử dụng Anh ngữ để bắt đầu đào tạo một thế hệ luật sư có tinh thần và tư duy
độc lập và khách quan theo đúng tiêu chuẩn và đẳng cấp quốc tế. Cần phải loại bỏ
điều kiện trung thành hoặc phục vụ cho lợi ích của Đảng Cộng Sản Việt Nam để học
giả có thể thoát ra khỏi vòng kim cô ý thức hệ Mác-Lê mà vươn ra biển lớn. Chỉ
có như vậy thì Việt Nam mới mong cơ hội tranh thủ phần thắng với các học giả và
luật sư Trung Quốc trong cuộc chiến pháp lý bảo vệ chủ quyền lãnh hải tại Biển
Đông.
N.V.T.
Tác
giả gửi BVN
No comments:
Post a Comment