4-3-2013
Mỗi đảng viên cộng sản Việt Nam
phải thấy xấu hổ trước những câu hỏi như: Tại sao một đảng cầm quyền với 3
triệu đảng viên và 68 năm cầm quyền lại không dám cạnh tranh với các đảng chính
trị khác? Tại sao đảng cộng sản có hàng vạn tiến sĩ, thạc sĩ chính trị mà không
dám đối thoại công khai với các nhà bất đồng chính kiến? Tại sao đảng cầm quyền
lại phải dùng đến những thành phần xã hội đen để chống lại nhân dân, chống lại
các tôn giáo...
*
Đảng cộng sản Việt Nam từ trước tới
bây giờ vẫn “nhất quán” trong việc chống “diễn biến hòa bình”, chống “đa nguyên
đa đảng”. Trong một lần tuyên bố với báo giới Ấn Độ, ông tổng bí thư Nguyễn Phú
Trọng lại khẳng định một lần nữa rằng Việt Nam không chấp nhận đa đảng.
Điều này nói lên điều gì? Đầu tiên,
nó phản ánh là sự kém tự tin và sự tụt hậu của đảng cộng sản, một đảng đã ra
đời 83 năm và đã có 68 năm cầm quyền, vẫn chưa đủ tự tin để cạnh tranh với các
đảng phái khác. Có lẽ “đảng ta” nên chịu khó đem sách vở sang học lại người
“học trò cũ”, tức thủ tướng Hun Sen của Campuchia.
Cho dù Campuchia vẫn còn nghèo khó,
tham nhũng, bất công nhưng không ai bảo là Campuchia không có dân chủ. Hun Sen
là người cộng sản duy nhất trên trái đất này có thể (hay phải) tự đổi mới mình
và ông ta đã thành công. Trong bốn nhiệm kỳ, đảng của ông chiếm đa số trong các
cuộc bầu cử từ trung ương đến địa phương. Ông ta cũng được đánh giá cao về lòng
yêu nước qua việc kiên quyết bảo vệ chủ quyền biên giới trước Thái Lan, trong
vụ tranh chấp ngôi đền Preah Vihear. Trong vụ ông nghị sĩ đối lập Sam Rainsy
nhổ cọc biên giới với Việt Nam, ông Hun Sen cũng không hề lên tiếng. Cứ nhìn
vào những hành động này, chúng ta không thể không buồn cho sự "yếu
hèn" của chính quyền Việt Nam trước người láng giềng Trung Quốc. Thái Lan
và Việt Nam chắc chắn mạnh hơn Campuchia nhiều lần, nhưng Hun Sen đã không hèn
yếu và rồi cả Thái Lan lẫn Việt Nam đều chẳng làm gì được Hun Sen, ngoài vài
lời phản đối lấy lệ của người phát ngôn Bộ ngoại giao.
Ngoài tấm gương Campuchia chuyển
đổi từ độc tài sang thể chế dân chủ, còn hai tấm gương sáng cần tham khảo đó là
trường hợp của Đài Loan và Hàn Quốc. Hai quốc gia này từng phải sống trong chế
độ độc tài nhưng các thể chế độc tài cầm quyền đã chủ động chuyển sang thể chế dân
chủ và bây giờ đã trở thành những quốc gia phát triển nhất ở Châu Á.
Mỗi đảng viên cộng sản Việt Nam
phải thấy xấu hổ trước những câu hỏi như: Tại sao một đảng cầm quyền với 3
triệu đảng viên và 68 năm cầm quyền lại không dám cạnh tranh với các đảng chính
trị khác? Tại sao đảng cộng sản có hàng vạn tiến sĩ, thạc sĩ chính trị mà không
dám đối thoại công khai với các nhà bất đồng chính kiến? Tại sao đảng cầm quyền
lại phải dùng đến những thành phần xã hội đen để chống lại nhân dân, chống lại
các tôn giáo như vụ Bát Nhã và Tam Tòa? Tại sao phải dùng tin tặc để đánh phá
các trang báo “lề Dân”?…
Không có tổ chức chính trị đối lập
lương thiện nào (trong cũng như ngoài nước) đòi tiêu diệt hay xóa bỏ đảng cộng
sản, họ chỉ đòi hỏi đảng cộng sản phải cạnh tranh một cách “đường đường, chính
chính” với các tổ chức chính trị khác. Đây là một đòi hỏi đúng đắn và nghiêm
túc. Đất nước là của chung, của toàn thể nhân dân Việt Nam nên nhân dân Việt
Nam phải có quyền lựa chọn cho mình người lãnh đạo đất nước. Nếu đảng cộng sản
với những cương lĩnh và hành động tiến bộ và nếu nhân dân vẫn tín nhiệm thì
đảng cộng sản vẫn tiếp tục cầm quyền. Đơn giản chỉ có vậy.
Tôi tin rằng nếu có bầu cử dân chủ
thì có thể đảng cộng sản Việt Nam vẫn có thể thắng cử và tiếp tục cầm quyền.
Sửa đổi Hiến pháp, đảng lại kêu gọi nhân dân đóng góp ý kiến cho đảng. Đảng
phải thay đổi, nhưng thay đổi cái gì và thay đổi thế nào là vấn đề cần bàn.
Thay đổi đầu tiên và căn bản nhất, nếu đảng thật lòng muốn thay đổi và muốn tốt
cho chính bản thân đảng và cho nhân dân thì đó phải là quyết tâm chuyển đổi từ
thể chế độc đảng sang thể chế dân chủ. Nếu đảng vẫn không chấp nhận sự thay đổi
này thì mọi thay đổi nếu có cũng chỉ là dầu bôi ngoài da cho căn bệnh đã ung
thư.
Đảng cộng sản đang độc quyền lãnh đạo
đất nước nên rất thuận lợi trong việc chuyển đổi sang hướng dân chủ, nếu thực
hiện có lộ trình. Lộ trình đầu tiên là chấp nhận những tổ chức chính trị đối
lập ôn hòa và xây dựng. Hoặc cho phép tách đảng ra thành hai đảng như đề nghị
của cụ Trần Lâm (Hải Phòng). Cho phép những tờ báo của các tổ chức ôn hòa này
hoạt động độc lập với thỏa thuận là các tờ báo này phản biện các vấn đề một
cách nhẹ nhàng và mang tính xây dựng. Tăng cường việc trao đổi, đối thoại giữa
các nhà lý luận của đảng với các nhà bất đồng chính kiến (hay đối lập) một cách
cởi mở trên các phương tiện thông tin đại chúng. Phi chính trị hóa các chương
trình giáo dục, từ phổ thông đến đại học. Cho phép báo chí tư nhân hoạt động,
không can thiệp vào xã hội dân sự mà chỉ nên hỗ trợ trong bước ban đầu.
Đảng cần phải chấp nhận các nhà đối
lập và bất đồng chính kiến, lắng nghe và hợp tác với họ thay vì bỏ tù họ. Những
thành phần này và các tổ chức chính trị đối lập là tấm đệm để ngăn chặn các
cuộc cách mạng đường phố và sự đổ vỡ khi có chính biến. Không khó khăn gì để
đảng cộng sản nhận ra lực lượng chính trị đối lập nào là yêu nước, là mang tính
xây dựng. Đảng phải chủ động đối thoại và trao đổi với các thành phần này để đi
đến các thỏa hiệp chính trị.
Những người lãnh đạo đảng cộng sản
chưa quen với sự cạnh tranh nên họ hay nghi ngại, nhưng thật ra “cạnh tranh”
trong chính trị cũng không phải là gì quá ghê gớm hay quá khó, tất cả rồi sẽ
quen đi và khi đã quen với sự cạnh tranh, nhất là lại chiến thắng trong các
cuộc cạnh tranh đó thì họ sẽ thấy tự hào và sung sướng thật sự. Cái chính là họ
sẽ có cảm giác thanh thản, tự tin thay vì lo lắng và bất lực như bây giờ. Thật
lòng chúng ta thấy buồn và tội nghiệp cho các vị quan chức của Việt Nam khi
xuất hiện và phát ngôn trước công chúng. Nói đâu sai đấy, và chỉ làm trò cười
cho thiên hạ. Lỗi không hoàn toàn phải tại họ mà tại cơ chế độc đảng. Phải có
sự cọ xát, sự cạnh tranh mới làm cho quan chức Việt Nam khôn ngoan, thông minh
và tự tin hơn.
Để trở thành một chính trị gia thật
sự thì điều đầu tiên phải chịu được đó là “chấp nhận” sự chỉ trích. Có những
chỉ trích đúng, có những chỉ trích sai nhưng nếu không chịu được sự chỉ trích
của thiên hạ thì không thể nào trở thành người lãnh đạo tốt. Không một ai tin
rằng chế độ độc đảng lãnh đạo sẽ trường tồn, nó phải chấm dứt một ngày gần đây.
Không hiểu các vị lãnh đạo Việt Nam có khi nào đặt tự đặt cho mình câu hỏi
chuyện gì sẽ xảy ra khi đó? Con cái họ sẽ như thế nào? Thanh danh của họ sẽ ra
sao? Nếu có câu trả lời thành tâm và nếu còn nghĩ đến hậu sinh thì những người
này phải dứt khoát chọn con đường dân chủ hóa đất nước.
Dưới cơ chế độc đảng như hiện nay
thì không những toàn thể nhân dân mất tự do mà ngay cả những cấp lãnh đạo cao
nhất cũng không có tự do. Chúng ta không thể nào quên được hình ảnh ông Phan
Văn Khải cầm giấy đọc trước mặt tổng thống Bush ở Nhà Trắng. Chúng ta cũng
không quên được câu nói của ông Nguyễn Minh Triết khi trả lời sư ông Nhất Hạnh
rằng, “chúng nó (đảng cộng sản) sẽ đập tui chết” qua lời kể của sư cô
Chân Không trên đài RFA, khi sư ông Nhất Hạnh đề nghị lập bia tưởng nhớ những
người đã chết khi vượt biển tìm tự do.
Trong công việc cũng vậy, sự đấu
đá, kèn cựa tranh giành lẫn nhau diễn ra hàng ngày, hàng giờ giữa các nhân viên
trong cùng cơ quan, trong cùng một công sở. Mỗi người đều phải tìm mọi cách lấy
lòng cấp trên bằng những việc làm đôi khi trái với đạo đức và rồi họ sẽ trút
giận vào nhân viên và cấp dưới. Chưa kể đến việc những kẻ cơ hội và vô học trèo
lên các địa vị lãnh đạo bằng đầu gối. Những kẻ này thật sự là tai họa cho nhân
viên dưới quyền và làm mất uy tín nghiêm trọng cho đảng cầm quyền.
Cũng chính do cơ chế độc quyền lãnh
đạo mà “cái ghế” mới là chính, còn người ngồi trên cái ghế đó chỉ là phụ, là
thứ yếu. Cũng là con người đang “oai phong lẫm liệt” ngồi trên “ghế cao”, nhưng
chỉ cần rời khỏi “cái ghế” đang ngồi thì ngay lập tức “con người đó” không còn
là ai cả, không còn ai nhớ và biết đến ông ta nữa. Người ta chỉ sợ “cái ghế”
chứ không phục “người ngồi trên ghế”. Đây là nỗi nhục, nỗi xấu hổ, niềm cay đắng
cho bất cứ ai đã phải trải qua tình cảnh này. Ví dụ mới nhất là trường hợp ông
cựu bí thư tỉnh ủy Đồng Tháp Lê Minh Châu đăng trên báo Tiền Phong, ngày
05/04/2010.
Để loại bỏ những tai họa này thì
chỉ có một thuốc chữa duy nhất là dân chủ và minh bạch. Minh bạch không thể có
được nếu không có dân chủ và dân chủ thì không thể có được trong các thể chế
độc tài. Như vậy gốc của mọi vấn đề là “dân chủ chính trị” mà thể hiện phải có
của nó là sự đa đảng.
Chỉ khi có đa đảng thì lãnh đạo các
đảng mới “uốn nắn” được đảng viên của mình. Câu thần chú khi đó thật đơn giản:
“Nếu anh hành xử tồi tệ như vậy thì không những anh mất chức mà “đảng ta” cũng
mất quyền lãnh đạo”. Đòi hỏi mỗi con người có tính tự giác là điều vô cũng khó
khăn vì bản tính của con người khi sinh ra là đã có sự tham lam, sự xấu xa. Chỉ
có sự chế tài thật mạnh, như việc “mất ghế” chẳng hạn, mới làm cho quan chức lo
sợ.
Cũng chỉ dưới thể chế đa đảng thì
mỗi quan chức nhà nước mới có thể tránh cho mình những sức ép không đáng có từ
người thân, vợ con, làng xóm, đàn em… Khi có đa đảng thì mọi đảng đều phải tuân
thủ pháp luật và như vậy quan chức không thể bao che, dung túng cho những hành
vi sai lạc của người thân mình. Bộ phim truyền hình nổi tiếng “Chạy án” đã phản
ánh nổi bất hạnh của ông bố Cẩm đầy quyền chức trước vợ con mình. Tình trạng
này sẽ còn tiếp diễn chừng nào Việt Nam chưa có đa đảng, tức là chưa có cạnh
tranh chính trị.
Như vậy, đa đảng đâu chỉ có lợi cho
người dân? Vậy hà cớ gì mà những người cộng sản lại sợ đa đảng? Tại sao họ
không dám cởi trói cho chính bản thân mình và con cháu mình?
Những câu hỏi trên dành cho những
người lãnh đạo đảng cộng sản và cho cả người thân lẫn con cháu của họ. Cái gì
thuận theo tự nhiên sẽ tiếp tục phát triển, cái ngược lại ắt phải đào thải. Đấy
là chân lý tự nhiên của muôn đời.
No comments:
Post a Comment