Fri, 03/15/2013 - 07:30 — tuongnangtien
Sổ tay thượng
dân K’ Tien
“Tôi không đổ lỗi cho các em, vì các em chỉ
là những tờ giấy trắng. Người ta có viết gì lên đó đâu mà hy vọng các em có chữ
nghĩa. Nếu nền giáo dục Việt Nam không thể dạy cho một học sinh lớp sáu người
Jrai biết 15 – 8 bằng bao nhiêu thì đây chỉ là một nền giáo dục tồi. Ôi, một
đất nước chỉ mới đây thôi tự hào là quốc gia đoạt giải Nobel toán học mà dân
chúng thì chẳng biết 4 + 7 bằng bao nhiêu.”
Amai B’Lan
Hơn mười năm trước, báo Nhân Dân (số ra
ngày 9 tháng 12 năm 2000) ái ngại đi tin:“Các dân tộc Ba Na, Cà Dong, Chu
Ru, Cà Tu, Hà Nhì, Xê Đăng, Thổ Chỉ có từ hai đến ba học sinh đạt tiêu chuẩn.
Đáng chú ý, mỗi dân tộc: Cơ Lao, Xtiêng, Giáy, Cơ-ho, Lào, La Chí chỉ có một
học sinh đủ tiêu chuẩn cử tuyển vào học các trường đại học, cao đẳng.”
Mẩu tin ảm đạm (và hiếm hoi) thượng dẫn,
ngó bộ, không tạo ra sự tin tưởng và an vui gì mấy cho những người dân đang
sống trong một quốc gia Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc. Và chắc vì thế, từ
đó đến nay, không thấy những cơ quan truyền thông của nhà nước Việt Nam đề
cập đến tin tức liên quan tới người dân bản địa (“được cử tuyển vào học các
trường đại học”)như trước nữa.
Tuy thế, độc giả vẫn có thể đoán được
cuộc sống, cũng như tình trạng học vấn của học sinh miền núi, qua nhiều
nguồn thông tin khác:
- Ngày 15 tháng 1 năm 2013,vnexpress
đi tin:”Trẻ em vùng cao phong phanh trong giá rét.Có em còn đi chân đất, mặc
mỗi một chiếc áo mỏng tang.”
- Trước đó một hôm, hôm 14 tháng 1 năm
2013, báo Đất Việt
cũng đã buồn bã cho hay: “Không có thức ăn, hết măng ớt, các em
học sinh vùng cao phải dùng bẫy bắt chuột làm thức ăn chống rét.”
Cơm và chuột. Ảnh:baodatviet
Đời sống có những nhu cầu theo theo thứ
tự ưu tiên sắp sẵn: ăn - mặc, ăn - học... Ăn/mặc đều thiếu thốn như thế thì
học/hành ra sao?
Câu trả lời có thể tìm được trong một lớp
học ở thôn Phùm Gi, thuộc Tây Nguyên, qua cuốn bút ký Nước Mắt Của Rừng
(*) của Amai B’Lan – một cô giáo trẻ, đến từ miền xuôi:
Phùm Gi cách buôn Nu khoảng sáu cây số thôi
nhưng có tới hai kiểu đường. Hai cây số đầu là đường nhựa láng o, khoảng bốn
cây số sau thì lởm chởm đá, ổ gà và mịt mù bụi bặm. Buôn nằm cạnh quốc lộ 25,
bên cạnh con đường rách nát y như bản thân mình vậy. Đi ngang qua nhìn vào
buôn, sẽ thấy những ngôi nhà sàn nhỏ bé đứng cạnh nhau, rúm ró, buồn bã và nín
nhịn. Cả buôn có khoảng 70 nóc nhà. Chín mươi chín phần trăm là người Jrai và
một gia đình người Kinh đến bán tạp hóa giữa làng...
Cũng như những buôn khác, Phùm Gi sống bằng
nghề nông. Trước kia họ trồng lúa, còn bây giờ chuyển qua trồng mì vì mì có giá
hơn. Họ cũng trồng thêm lúa, mè, bắp, hột dưa và nuôi bò dê tăng thu nhập.
Nương rẫy Phùm Gi nằm bên kia sông Pa, dưới dãy núi cao ngất, vì đất bên này
bán cho người Kinh hết rồi. Muốn lên rẫy, họ phải vượt sông bằng chiếc ghe nhỏ,
hai tay hai mái chèo bơi đi như vịt, trông rất nguy hiểm.
Rẫy xa, bố mẹ đi làm từ sáng đến chiều mới
về, mấy đứa nhỏ ở nhà tự tìm cái ăn. Nấu cơm được thì ăn, không thì chạy qua
nhà hàng xóm ăn ké. Có bữa tôi thấy tụi nhỏ ăn xoài trừ cơm. Bí quá không kiếm
được cái gì bỏ vào miệng thì nhịn. Ăn uống thất thường, thiếu chất, nên đứa nào
đứa nấy cũng bụng ỏng đít beo, không lớn lên được mà cứ quắt lại.
Người Jrai thương con vô cùng nhưng lại
không biết cách chăm sóc con cái. Họ để quần áo chúng rách rưới, đầu tóc dơ
bẩn, mặt mày lem luốc. Mỗi chiều tắm xong, đám trẻ đứng trên những tảng đá cao
ngóng bố mẹ từ bờ bên kia chèo về như những con chiên lạc không người chăn
dắt...
Tối đến, tôi còn đang ăn dở chén cơm thì
các em tới. Tất cả là 25 em cả trai lẫn gái, một con số khá ấn tượng trong buổi
gặp đầu tiên. Đứa lớn nhất 19 tuổi và nhỏ nhất năm tuổi. Học cao nhất lớp tám
và có tới một nửa chưa biết chữ là gì.
Các em tới, rất vô tư và tự nhiên ngồi
xuống xung quanh tôi, líu lo như một đàn chim.
Các em tới vì biết hôm nay có người đến
buôn của các em và dạy một cái gì đó, chỉ vậy thôi.
Các em tới với đôi mắt to tròn, đen láy và
hàng lông mi cong vút lúc nào cũng mở ra nhìn tôi.
Các em tới, đi chân đất, mặc nguyên bộ quần
áo còn ẩm ướt lúc chiều tắm bên sông Pa.
Các em tới với hai bàn tay trắng, thừa sự
háo hức nhưng đầy vẻ ngại ngùng.
Viết nằm: Ảnh Trần Thị Trung Thu
Chúng tôi ngồi bên nhau, làm quen và phác
họa rất nhanh chương trình học. Một tuần sẽ học năm buổi. Từ thứ hai tới thứ
sáu. Lúc bảy giờ đến chín giờ tối vì ban ngày các em đều bận đi chăn bò. Sau
giờ học sẽ sinh hoạt vòng tròn, tập hát, kể chuyện hay chiếu phim tùy nhu cầu.
Tôi biết trong buôn các em yếu nhất hai môn
toán và tiếng Việt nên chỉ tập trung dạy hai môn đó. Ban ngày tôi rảnh, ai cần
học cứ tới, tôi dạy hết. Bọn trẻ khoái chí, vỗ tay rần rần và hẹn tối mai rủ thêm
bạn tới.
Khi bọn trẻ về hết và chỉ còn lại một mình
trong ngôi nhà trống trải, thì tôi tự hỏi chính mình:“Thế là lớp học của tôi
bắt đầu thật rồi sao?” Bắt đầu mà chẳng có gì cả. Không bàn không ghế. Không
phấn không bảng. Không sách vở bút viết. Đến cả ánh sáng cũng nhờ nhợ như một
vì sao xa. Chúa ơi, Chúa đã dẫn con tới đây thì xin Chúa cũng hãy chỉ bảo cho
con biết con phải làm gì nhé. Và Chúa đã nhận lời.
Ngài chỉ cho tôi biết việc đầu tiên là tôi
hãy quá giang xe về Ia R’siơm vào sáng hôm sau để mua sách vở, bút viết cho bọn
trẻ, sau đó về nhà ama tìm một tấm ván làm bảng. Tôi không quên mang theo ít
thuốc Panadol phòng ốm đau. Anh Wiêng xung phong làm xe ôm chở tôi về lại Phùm
Gi với bao nhiêu thứ lỉnh kỉnh trên người.
Qua tới nơi mới biết còn thiếu một thứ rất
quan trọng, đó là bàn học. Thế là cô trò hì hục vác những tấm ván ở chuồng bò
nhà ami H’hot ra sông Pa cọ rửa, lau khô. Tôi mượn ba cái ghế nhựa nhà ami
H’hot làm trụ mà vẫn không đủ, liền mượn luôn cả cái cối giã gạo của nhà bên
cạnh. Vậy là có những cái bàn ngon lành. Tưởng thế là ổn, ai dè học trò đông
quá, lên tới 35 em, không có đủ bàn, thành thử, khoảng một phần ba lớp học phải
nằm, quỳ hoặc bò ra mà viết. Học trò của tôi viết trên những cái bàn thô kệch
ấy. Những dòng chữ ngoằn ngoèo, đôi khi dơ bẩn, tẩy xóa tùm lum, duy chỉ có đôi
mắt là sáng như sao và sự chăm chỉ đến tê người. Nhìn học trò lăn lóc viết, tôi
như chết lặng.
Ôi! Có nơi đâu đi kiếm con chữ mà khổ sở
đến vậy không hả trời?
Sinh hoạt vòng tròn. Ảnh: Trần Thị Trung Thu
Tôi phát cho mỗi em một cây viết và một
cuốn vở, bắt các em viết tên của mình vào vở, khi học xong tôi thu bút vở lại,
kẻo bọn trẻ mang về xé vở làm diều hết. Bữa sau tới học, tôi lại phát ra. Thế
là bảo toàn được lực lượng. Cứ nhìn gương mặt háo hức nhận vở của bọn nhóc mà
thấy vui lây.
Có nhiều em chưa biết viết, phải nhờ mấy
bạn lớn viết hộ tên. Người Jrai có nhiều cái tên đọc muốn méo miệng mà vẫn
không trúng, tiếng Việt cũng không biết phải viết thế nào. Những em chưa biết
viết không theo kịp anh chị lớp lớn, tôi cho ngồi riêng ra một góc rồi cầm tay
tập viết cho từng đứa. Có cầm tay bọn nhóc, có đặt mũi vào mái tóc cháy nắng và
bộ quần áo khét lẹt, lấm lem bùn đất và sực nức mùi phân bò của bọn nhóc, mới
thấy xót xa cho các em. Còn bọn trẻ thì cứ nắm chặt bút, mím chặt môi viết như sợ
từng chữ bay đi mất.
Học xong, tôi cho sinh hoạt vòng tròn. Từ
trước đến giờ, chưa có ai đến với các em, dạy dỗ các em và cho các em chơi các
trò chơi mà đáng lí tuổi của các em phải được chơi... Qua một ngày vất vả ngược
xuôi, sau dãi dầu mưa nắng, thì giờ đây, các em được tha hồ sống thật với bản
tính hồn nhiên vô tư của tuổi thơ. Các em không còn vẻ lam lũ của những đứa trẻ
chăn bò nữa, mà thay vào đó là những gương mặt linh hoạt, nụ cười rạng rỡ và
ánh mắt lung linh.
Tôi thích đứng một mình nhìn các em ra về
sau khi giải tán, vì lúc đó, men chơi còn chất ngất, khiến đứa này chọc ghẹo
đứa kia, để rồi cả đám đuổi bắt nhau, tiếng cười giòn tan như bắp nổ rộn rã
trên đường làng. Bóng bọn trẻ khuất lấp trong màn đêm rồi đậu xuống dưới một
mái nhà, mang theo vào giấc ngủ nụ cười trên môi. Hôm nay trăng sáng, tha hồ
chơi, gần mười giờ rưỡi các em mới chịu về.
Mấy chục cái miệng thi nhau chúc tôi “pit
hiam” (ngủ ngon) rồi ùa chạy đi trên con đường làng đầy ánh trăng, tiếng cười
trong veo như nước suối cứ trầm bổng rồi tan theo núi rừng vào thinh không. Tối
nào cũng có vài chục người chúc ngủ ngon. Không muốn cũng sẽ ngủ rất ngon, hỡi
những thiên thần Jrai. (Amai
B’lan. Nước Mắt Của Rừng. San Jose: Nhân Ảnh, 2013.)
Trong giấc ngủ, tất nhiên,những thiên
thần Jrai có thể mơ đến một ngàyđược bước chân vào ngưỡng cửa đại học –
một thứ đại học có tầm vóc quốc tế, theo như lời của người đại diện của
hội đồng sáng lập Dự Án Đại Học Tư Thục Trí Việt (Tri Viet
International University Project) bà Tôn Nữ Thị Ninh:
“Gọi là trường quốc tế bởi vì sẽ dạy
bằng tiếng Anh kể từ năm thứ 2, với lập luận rằng thanh niên Việt Nam thời hội
nhập phải có tiếng Anh như là một ngôn ngữ làm việc của mình, ngoài tiếng mẹ
đẻ...”
Tất nhiên, đây là một giấc mơ xa. Cũng
xa vời (và mịt mờ) như cái chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Bác (kính yêu) đã chọn.
Tạm thời, ngày mai, khi vào lớp những các em hãy cứ nhẩn nha học phép toán xem
15 trừ 8 còn bao nhiêu (trướcđã) đểđỡ bị cái nạn hay bị người Kinh thối lộn
tiền – khi đi mua muối!
T.N.T
(*) Nước Mắt Của Rừng.
Bút Ký của Amai B’Lan.
Tựa: Phan Ni Tấn.
Nhân Ảnh Xuất Bản.
Bìa và tranh: Khánh Trường.
Trình Bày: Lê Hân & Tạ Quốc Quang.
Copyright @ 2013 by Trung Thu.
ISBN: 978-0-9811982-9-3.
Ấn phí và bưu phí 15 M.K.
Sách có thể đặt mua theo địa chỉ sau:
Mr. Lê Hân
375 Destino Circle,San Jose, CA 95133
U.S.A or han.le3359@gmail.com
No comments:
Post a Comment