Lộ
trình xây dựng một hiến pháp dân chủ :
*
*
Mai Thái Lĩnh
3-03-2013
Hạ
tuần tháng 1 năm 2013, trước Tết Nguyên đán, đã xảy ra một sự kiện gây chấn
động dư luận. Đó là việc 72 vị nhân sĩ, trí thức đã cùng nhau ký một bản kiến
nghị có tên là “Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp 1992” (đề ngày 19-1-2013)[1]. Điều đáng chú ý là trong danh
sách những người khởi xướng, có ít nhất một nửa là đảng viên cộng sản, trong đó
có những người đã từng giữ chức vụ cao hoặc đã từng làm cố vấn cho các nhà lãnh
đạo cao cấp trong hệ thống chính trị hiện hành. Lướt qua nội dung của kiến nghị
cũng như bản dự thảo Hiến pháp đính kèm (được coi như một tài liệu để tham khảo
và thảo luận), chúng ta dễ dàng nhận thấy những người ký kiến nghị đã bày tỏ
một quan điểm về hiến pháp chẳng những vượt ra khỏi khuôn khổ của hiến pháp
hiện hành (tức Hiến pháp 1992 – bản sửa đổi năm 2001) mà còn vượt xa bản hiến
pháp đầu tiên do Đảng Cộng sản soạn thảo dưới danh nghĩa của tổ chức Việt Minh
(tức Hiến pháp 1946).
Được
công bố trên trang mạng Bauxite Vietnam đầy uy tín, chỉ tính cho đến ngày
28-2-2013, tức là chưa đầy một tháng rưỡi kể từ ngày công bố, đã có hơn 6 ngàn
chữ ký được thu thập để ủng hộ bản kiến nghị này. Đây là một kết quả không thể
xem thường, nhất là trong hoàn cảnh của một chế độ toàn trị nổi tiếng là khắt
khe bậc nhất trên thế giới. Không thể giữ im lặng trước sự kiện này, vào hạ
tuần tháng 2 năm 2013, trong một chuyến thăm và làm việc tại tỉnh Vĩnh Phú,
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu như sau:
“…Vừa
rồi đã có các luồng ý kiến thì cũng có thể quy vào được là suy thoái tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống chứ gì nữa… Xem ai có tư tưởng là muốn bỏ Điều 4
Hiến pháp không, phủ nhận vai trò lãnh đạo của đảng không? Muốn đa nguyên đa
đảng không? Muốn “tam quyền phân lập” không? Hả? Muốn “phi chính trị hóa quân
đội” không? Người ta đang có những quan điểm đấy!… Đưa cả lên phương tiện thông
tin đại chúng đấy. Thì như thế là suy thoái chứ còn gì nữa! Chỉ ở đâu nữa nào?
… Tham gia đi khiếu kiện, biểu tình, ký đơn tập thể … thì nó là cái gì?! … Cho
nên các đồng chí quan tâm xử lý cái này”.
Qua
phát biểu của người đứng đầu đảng cầm quyền, chúng ta có thể thấy rõ sự khác
biệt về quan điểm trong nội bộ những người cộng sản, một khoảng cách chênh
lệch rất xa giữa một bên là quan điểm thủ cựu của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản –
bộ máy quyền lực cao nhất của Đảng, và phía bên kia là quan điểm của những đảng
viên cộng sản có tư tưởng cởi mở, tiến bộ – phản ánh phần nào ý chí, nguyện
vọng của nhân dân.
Nhưng
một sự kiện khác xảy ra sau đó lại làm nổi bật mâu thuẫn trầm trọng hơn giữa ý
chí của Đảng và nguyện vọng của nhân dân: ngay sau khi kênh truyền
hình trung ương VTV1 phát đoạn video này trong chương trình thời sự 19h ngày
25-2-2013, nhà báo Nguyễn Đắc Kiên làm việc tại báo Gia Đình & Xã Hội
đã phản ứng bằng một bài viết đăng trên blog của anh, qua đó anh công khai phản
đối ý kiến của ông Tổng bí thư và tuyên bố ủng hộ đa nguyên, đa đảng. Trong
vòng chưa đầy 24 giờ, anh bị tòa báo đuổi việc.
Điều
đáng chú ý là trong bài viết của mình, nhà báo Nguyễn Đắc Kiên đã đưa ra lời
tuyên bố gồm 5 điểm trong đó điểm đầu tiên thể hiện một lập trường hết sức dứt
khoát về vấn đề hiến pháp: “Tôi không chỉ muốn bỏ Điều 4 trong Hiến pháp hiện
hành, mà tôi muốn tổ chức một Hội nghị lập hiến, lập một Hiến pháp mới để Hiến
pháp đó thực sự thể hiện ý chí của toàn dân Việt Nam, không phải là ý chí của
đảng cộng sản như Hiến pháp hiện hành”[2].
Đây
không phải chỉ là ý kiến riêng của nhà báo trẻ Nguyễn Đắc Kiên mà còn là ý kiến
của rất nhiều người Việt yêu nước, yêu dân chủ. Chính vì thế, chỉ vài ngày sau
đó, vào ngày 28-3-2013, lời tuyên bố của công dân Nguyễn Đắc Kiên đã trở thành Lời
tuyên bố của các công dân tự do với 5 điểm có nội dung tương tự, chỉ khác
nhau một điểm căn bản: thay cho đại từ “tôi” là đại từ “chúng tôi”. Kết thúc
bản tuyên bố là một lời mời gọi: “Xin hãy chung tay để cho LỜI TUYÊN BỐ CÔNG
DÂN TỰ DO này trở thành sợi dây bền vững kết nối hàng triệu triệu trái tim Việt
Nam”. Cùng với bản kiến nghị do 72 nhân sĩ, trí thức đề xướng, lời tuyên bố này
– xuất phát từ sáng kiến của các blogger trẻ, càng thể hiện rõ nguyện vọng thật
sự của toàn thể nhân dân Việt Nam trong vấn đề hiến pháp[3].
Bài
viết này được viết với mục đích cung cấp thêm những nền tảng lý luận và cơ sở
thực tế của vấn đề sử dụng quyền lập hiến, một mặt cốt để làm rõ vấn đề “sửa
đổi hiến pháp hay viết lại hiến pháp”, và đó cũng là cách góp phần tìm kiếm một
giải pháp, một lộ trình phù hợp với hoàn cảnh của đất nước ta trong giai đoạn
đặc biệt quan trọng hiện nay.
Phần I: SỬA ĐỔI
HIẾN PHÁP HAY VIẾT LẠI HIẾN PHÁP?
Trước
tiên, để có thể hiểu rõ sự xung đột về quan điểm xung quanh vấn đề hiến pháp,
chúng ta cần tìm hiểu đôi chút về khái niệm “quyền lập hiến”. Mặc dù ngành luật
học ở nhiều quốc gia trên thế giới đều có bộ môn Luật hiến pháp (droit
constitutionel, constitutional law), nhưng không phải ở đâu giới luật học cũng
quan tâm đến vấn đề “quyền lập hiến”. Trong bài này, tôi sẽ dựa vào những
nghiên cứu luật học của nước Pháp, một quốc gia tuy là cái nôi của cuộc cách
mạng vĩ đại làm rung chuyển toàn bộ thế giới, nhưng lại là một trong những quốc
gia phải trải qua rất nhiều truân chuyên trên con đường ổn định hệ thống chính
trị dân chủ (tính từ cuối thế kỷ 18 đến nay, nước Pháp đã có tổng cộng 17 bản
Hiến pháp).
Hai loại quyền lập
hiến:
Emmanuel-Joseph
Sieyès (một lý thuyết gia của cuộc Cách mạng Pháp) là người đầu tiên nêu ra
khái niệm “quyền lập hiến”. Trong tác phẩm nổi tiếng Đẳng cấp thứ ba là gì?
(Qu’est-ce que le Tiers-État?) công bố năm 1789, ông viết: “Trong
mỗi bộ phận, Hiến pháp không phải là kết quả của quyền hiến định, mà là
kết quả của quyền lập hiến”.
Sự
khác biệt là ở chỗ: quyền lập hiến (pouvoir constituant) là “quyền làm
ra Hiến pháp”, trong khi quyền hiến định (pouvoir constitué) là “quyền
lực được tạo ra bởi Hiến pháp”. Như chúng ta đã biết, do ảnh hưởng chủ yếu của
Montesquieu, người ta thường chia quyền lực Nhà nước thành ba nhánh chính:
quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Ba quyền lực đó là quyền lực
hiến định, chúng được tổ chức và vận hành dựa theo Hiến pháp, trong khuôn khổ
của Hiến pháp. Quyền lập hiến là nguồn gốc của các quyền hiến định, đương nhiên
phải cao hơn các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Tuy
nhiên, quyền lập hiến không phải lúc nào cũng thể hiện giống nhau. Nếu quan sát
kỹ lịch sử của các quốc gia trên thế giới, chúng ta thấy có khi quyền lập hiến
được sử dụng để “làm ra một hiến pháp mới”, có khi chỉ được sử dụng để “sửa
đổi, bổ sung một hiến pháp đã có sẵn”.
Việc
phân biệt hai loại quyền lập hiến này là thành quả nghiên cứu của thế kỷ 20, và
người đầu tiên khám phá ra sự khác biệt này là Raymond Carré de Malberg
(1861-1935) – nhà luật học và hiến pháp học nổi tiếng đã khởi xướng trường phái
thực nghiệm trong luật học (positivisme juridique) tại Pháp. Trong tác phẩm Góp
phần vào lý thuyết tổng quát về Nhà nước (Contribution à la théorie générale de
l’Etat) xuất bản năm 1922, Carré de Malberg phân biệt giữa “quyền lập
hiến trong việc thiết lập hiến pháp đầu tiên của Nhà nước” và “quyền lập
hiến trong một Nhà nước đã hình thành”. Theo ông, vấn đề quyền lập hiến
trong việc thiết lập hiến pháp đầu tiên của Nhà nước không phải là vấn đề thuộc
lĩnh vực pháp lý: “việc hình thành đầu tiên của một Nhà nước, cũng như tổ chức
đầu tiên của nó, chỉ có thể được xem như một sự kiện thuần túy – không thể xếp
vào bất kỳ phạm trù pháp lý nào, vì sự kiện đó không bị chi phối bởi những
nguyên tắc của luật học”.
“Quyền
lập hiến trong việc thiết lập hiến pháp đầu tiên của Nhà nước” về sau được đặt
tên là quyền lập hiến nguyên thủy (pouvoir constituant originaire) và
“quyền lập hiến trong một Nhà nước đã hình thành” được gọi tên là quyền lập
hiến phái sinh (pouvoir constituant dérivé). Nói một cách dễ hiểu hơn,
quyền lập hiến nguyên thủy là quyền làm ra một bản hiến pháp mới, còn quyền lập
hiến phái sinh là quyền sửa đổi một bản hiến pháp đang có hiệu lực.
Nhiều
nhà luật học sau đó (như Georges Burdeau, Roger Bonnard, Guy Héraud, Georges Vedel)
đã góp phần làm rõ các đặc điểm của hai loại quyền lập hiến này:
Quyền
lập hiến nguyên thủy là một quyền lực không có giới hạn, bởi vì khi làm ra một
hiến pháp mới, nó không bị hạn chế bởi bất cứ bản hiến pháp nào có trước nó,
không bị lệ thuộc vào bất cứ quy định pháp lý nào có trước nó. Nó sinh ra từ
một khoảng trống pháp lý (vide juridique), do chỗ không có một hiến pháp hoặc
hiến pháp đã bị hủy bỏ. Còn quyền lập hiến phái sinh là một quyền lực bị hạn
chế, bởi lẽ nó là một quyền lực sinh ra từ quyền lập hiến nguyên thủy, có được
thẩm quyền pháp lý là nhờ vào trật tự pháp lý hiện hành – trước hết là dựa vào
một bản hiến pháp có trước. Những điều kiện để sửa đổi hiến pháp (ví dụ: ai
được quyền sửa đổi hiến pháp, sửa đổi hiến pháp phải dựa theo thủ tục nào,
v.v.) thường đã được quy định bởi chính bản hiến pháp sẵn có.
Các
nhà luật học người Pháp phân biệt hai loại khoảng trống pháp lý:
-
Loại thứ nhất được gọi là khoảng trống pháp lý đã hiện hữu (vide juridique
déjà existant) xuất hiện trong những hoàn cảnh nảy sinh một Nhà nước mới,
một quốc gia mới. Trong tình hình như thế, quyền lập hiến nguyên thủy lấp đầy
khoảng trống pháp lý bằng cách làm ra một hiến pháp mới, thiết lập một nhà nước
mới. Nhà nước mà nó thành lập là một Nhà nước hoàn toàn mới không tồn tại trước
đó; hiến pháp mà nó thiết lập cũng là hiến pháp đầu tiên của Nhà nước. Một
khoảng trống pháp lý như thế có thể xảy ra trong các hoàn cảnh như: chiến
tranh, giải trừ chủ nghĩa thực dân, chiến tranh giành độc lập, sự hợp nhất giữa
các quốc gia độc lập thành một liên bang, sự giải thể của một Nhà nước, v.v.
-
Loại khoảng trống pháp lý thứ hai được gọi là khoảng trống pháp lý được tạo
ra (vide juridique créé), xuất hiện trong hoàn cảnh thay đổi chế độ trong
một Nhà nước đã tồn tại. Trong trường hợp này, đã có sẵn một trật tự pháp lý
hiện hành. Quyền lập hiến nguyên thủy trước hết phải hủy bỏ một hiến pháp đã
tồn tại, tạo ra một khoảng trống pháp lý và sau đó, lấp đầy khoảng trống ấy
bằng cách làm ra một hiến pháp mới. Nói cách khác, quyền lập hiến nguyên thủy
trước hết làm động tác phá hủy, sau đó mới làm động tác tái xây dựng.
Hiểu theo nghĩa đó, người ta có thể nói quyền lập hiến nguyên thủy có hai mặt:
một có tính phủ định (hủy bỏ hiến pháp) và một có tính xây dựng (thiết lập hiến
pháp). Guy Héraud gọi phương diện phủ định của quyền lập hiến nguyên thủy là
quyền giải trừ hiến pháp (pouvoir déconstituant). Trong giả thuyết này, người
ta không tạo ra một Nhà nước mới mà chỉ làm mới lại nền tảng của Nhà nước hay
nói cách khác, thay đổi chế độ trong một Nhà nước đã tồn tại. Các nhà luật học
ghi nhận rằng một khoảng trống pháp lý như thế có thể xảy ra sau một cuộc cách
mạng, một cuộc đảo chính hay một cuộc chiến tranh đã lật đổ chế độ chính trị
hiện hành.
Điều
cần nhấn mạnh là trong khi quyền lập hiến phái sinh rút thẩm quyền pháp lý từ
quyền lập hiến nguyên thủy, từ trật tự pháp lý hiện hành, từ một bản hiến pháp
đã có hiệu lực, thì quyền lập hiến nguyên thủy không cần dựa vào bất cứ cái gì
khác ngoài bản thân nó. Mặt khác, trong khi quyền lập hiến phái sinh (tức là
quyền sửa đổi hiến pháp) là một đối tượng nghiên cứu của luật học thì quyền lập
hiến nguyên thủy (tức là quyền làm ra một bản hiến pháp hoàn toàn mới) lại là
một sự kiện nằm ngoài phạm vi của luật học.
Sửa đổi hiến pháp
hay viết lại hiến pháp mới?
Vận
dụng quan niệm về hai loại quyền lập hiến vào hoàn cảnh hiện nay của nước ta,
chúng ta thấy điều gì?
Trước
hết, cuộc “sửa đổi Hiến pháp 1992” mà Đảng Cộng sản Việt Nam đang tiến hành
hiện nay chỉ gói gọn trong phạm vi “sửa đổi Hiến pháp”, tức là phạm vi của
quyền lập hiến phái sinh.
Trong
“Thông báo Hội nghị lần thứ 5 BCHTW Đảng khoá XI” (tháng 5 năm 2012), Tổng bí
thư Nguyễn Phú Trọng đã nói rõ: “… sau 20 năm thi hành Hiến pháp năm 1992 (có
bổ sung, sửa đổi năm 2001), Đại hội XI của Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển
năm 2011), có nhiều vấn đề mới được đặt ra, một số quy định của Hiến pháp năm
1992 đã bị thực tiễn vượt qua, không còn phù hợp. Việc sửa đổi, bổ sung Hiến
pháp năm 1992 là yêu cầu khách quan, cần thiết để thể chế hoá Cương lĩnh của
Đảng và là công việc đặc biệt quan trọng, nhạy cảm phải có quan điểm toàn diện,
biện chứng, lịch sử cụ thể và thực tiễn.
Ban
Chấp hành Trung ương đã thảo luận, phân tích toàn diện và nhấn mạnh việc nghiên
cứu sửa đổi Hiến pháp phải căn cứ vào Cương lĩnh, Nghị quyết Đại hội XI của
Đảng, tình hình của đất nước; trên cơ sở tổng kết thực tiễn 20 năm thi hành
Hiến pháp năm 1992 và kế thừa những quy định còn phù hợp của các bản Hiến pháp
(1946, 1959, 1980, 1992)”.
Ông
nhấn mạnh : “Chỉ sửa đổi những vấn đề đã rõ, được thực tế chứng minh là đúng,
đã đủ cơ sở và tạo được sự thống nhất cao”[4].
Điều
đó cho thấy việc sửa đổi Hiến pháp 1992 có một số đặc điểm như sau:
-
Vẫn dựa vào quan niệm truyền thống của tất cả các đảng cộng sản xưa nay (Hiến
pháp chỉ là cụ thể hóa, thể chế hóa Cương lĩnh của Đảng Cộng sản cầm quyền);
-
Vẫn dựa vào truyền thống lập hiến của Đảng Cộng sản Việt Nam từ trước đến nay
(các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và 1992);
-
Thủ tục sửa đổi vẫn căn cứ bản hiến pháp hiện hành (Hiến pháp 1992, phiên bản
sửa đổi năm 2001). Điều 147 của bản hiến pháp này ghi rõ: “Chỉ Quốc hội mới có
quyền sửa đổi Hiến pháp. Việc sửa đổi Hiến pháp phải được ít nhất là hai phần
ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành”[5].
Ngược
lại, xét về yêu cầu khách quan của sự phát triển của đất nước và nguyện vọng
chung của nhân dân thì việc sửa đổi Hiến pháp theo tinh thần như trên là hoàn
toàn bất cập. Tất cả những ý kiến trên các trang mạng phi-chính thống hiện nay
đã cho thấy rõ điều đó. Và hàng ngàn chữ ký ủng hộ Kiến nghị sửa đổi Hiến
pháp 1992 của các nhân sĩ, trí thức cũng như sự xuất hiện Lời tuyên bố
của công dân ngày 28-2-2013 càng cho thấy rõ điều đó.
Cách
đây hai năm, trong một bài phỏng vấn của đài VOA, tôi đã nêu nhận định: “Hiến
pháp phải được sửa đổi một cách căn bản chứ không thể chỉ sửa đổi một cách
lặt vặt hay chỉ dừng lại ở một số chi tiết nhỏ nhặt”[6]. Căn cứ vào diễn biến của quá
trình sửa đổi hiến pháp do Đảng Cộng sản tiến hành trong thời gian vừa qua, căn
cứ vào lý thuyết lập hiến của các luật gia nổi tiếng của nước Pháp vừa được
trình bày tóm lược trên đây, và nhất là căn cứ vào nguyện vọng của nhân dân thể
hiện qua các ý kiến cực kỳ phong phú được thể hiện trên mạng Internet, tôi nghĩ
rằng cần phải diễn đạt lại ý kiến nói trên một cách rõ ràng và phù hợp với khoa
học hơn:
“Đã đến lúc cần
phải viết lại một Hiến pháp mới thay vì sửa đổi Hiến pháp cũ”.
Có
một số lý do khiến cho nước ta cần phải viết một bản Hiến pháp mới:
-
Tất cả các bản hiến pháp do Đảng Cộng sản Việt Nam soạn thảo và ban hành từ
trước đến nay đều phạm phải những khuyết điểm nghiêm trọng. Ngay cả những nhân
vật cao cấp nhất như ông Nguyễn Văn An (nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ
tịch Quốc hội) cũng phải thừa nhận: các bản hiến pháp về sau như các Hiến pháp
1959, 1980 và 1992 đều kém hơn so với Hiến pháp 1946. Mà ngay cả bản hiến pháp
đầu tiên (Hiến pháp 1946) thì cũng đã phạm phải những khuyết điểm nghiêm trọng,
như tôi đã phân tích trong bài viết “Những
khuyết điểm nghiêm trọng của Hiến pháp 1946” công bố cách đây nửa năm[7].
-
Tất cả các bản hiến pháp nói trên đều không mở đường cho sự hình thành một chế
độ pháp trị hiện đại (rule of law)[8]. Bất cứ trong giai đoạn nào
(kể cả giai đoạn 1946-1954) cũng đều có những cá nhân hay tổ chức đứng trên
luật pháp, định đoạt luật pháp. Có thể lấy ngay bản Hiến pháp 1946 làm ví dụ.
Luật cải cách ruộng đất năm 1953 là do sự đề xuất của Chủ tịch Chính phủ Hồ Chí
Minh (chức vụ Chủ tịch Chính phủ thực chất là Chủ tịch Nước kiêm Thủ tướng),
bản dự thảo luật là do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng chịu trách nhiệm. Thế nhưng,
vào năm 1956, khi tiến hành kiểm điểm về những sai lầm trong công tác cải cách
ruộng đất, người ta chỉ thấy kiểm điểm về phía Đảng chứ không thấy kiểm điểm
nghiêm túc nào về phía Chính phủ. Vào ngày 30-10-1956, tại cuộc họp của Mặt trận
Tổ quốc Hà Nội, Luật sư Nguyễn Mạnh Tường đã đề nghị thành lập “một ủy ban điều
tra gồm các vị đại biểu Quốc hội, Mặt trận, Đảng Lao động với sự cộng tác của
các vị thẩm phán cao cấp, giàu kinh nghiệm để lập một hồ sơ theo phương pháp
pháp lý để nhận định, trên quá trình đi từ lãnh đạo qua chỉ đạo đến chỗ thực
hiện chính sách, trách nhiệm ở chỗ nào và do những ai phải chịu”[9]. Đề nghị hợp lý này đã hoàn
toàn bị bỏ qua. Việc kiểm điểm và thi hành kỷ luật cũng chỉ làm cho chiếu lệ,
không đúng với nguyên tắc của một Nhà nước tự nhận là “dân chủ cộng hòa”.
Kể
từ bản Hiến pháp 1959 trở về sau, tình trạng Đảng đứng trên pháp luật ngày càng
lộ liễu, thậm chí còn được hợp pháp hóa bằng điều 4 của các Hiến pháp 1980 và
1992, một điều khoản công khai bác bỏ nguyên tắc “thượng tôn pháp luật” (la
primauté du droit) – nguyên tắc căn bản của mọi chế độ pháp trị hiện đại.
-
Nhìn chung, tất cả các bản hiến pháp trong quá khứ đều bị vô hiệu hóa ở một mức
độ nào đó, vì Hiến pháp không phải là văn bản pháp lý cao nhất ở nước ta. Trong
thực tế, bên trên Hiến pháp còn có một văn bản pháp lý cao hơn nữa: đó là
Cương lĩnh của Đảng. Mỗi lần Đảng thay đổi cương lĩnh (tức là một chương
trình hành động trong một thời gian dài), Đảng lại chỉ đạo sửa đổi hiến pháp,
nghĩa là viết lại hiến pháp để phục vụ cho một “giai đoạn cách mạng mới”. Hiến
pháp 1946 ra đời nhằm phục vụ cho một giai đoạn trong đó Đảng Cộng sản khoác
chiếc áo “dân tộc” để giành quyền lãnh đạo cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực
dân. Sau khi đã nắm quyền trên một nửa nước, cảm thấy chiếc áo “dân tộc” không
đủ ấm, Đảng đã tiến hành thay thế hiến pháp cũ bằng một bản hiến pháp mới nhằm
thiết lập chế độ tập trung dân chủ trên toàn miền Bắc, khoác thêm chiếc áo “chủ
nghĩa xã hội” để công khai nhận viện trợ của Liên Xô, Trung Quốc nhằm tiếp tục
cuộc chiến tranh chiếm trọn quyền lực trong cả nước – dưới danh nghĩa “chống
Mỹ, cứu nước”. Năm 1980, sau khi giành được chính quyền trong cả nước, Đảng
công khai mặc chiếc áo “chủ nghĩa xã hội” cho cả nước bằng bản Hiến pháp 1980 –
trong đó có Điều 4 hợp pháp hóa vai trò độc quyền lãnh đạo của Đảng. Khi tình
trạng kinh tế ngày càng suy thoái, hệ thống cộng sản sụp đổ trên phạm vi toàn
thế giới, Đảng đành phải quay trở lại với con đường phục hồi kinh tế thị
trường, từng bước hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu để hòng cứu vãn “sự lãnh
đạo của Đảng”; đó chính là lý do ra đời của bản Hiến pháp 1992.
Điều
đáng nói là trong khi cởi mở về kinh tế để thu nhặt từng đồng đô-la, Đảng vẫn
quyết tâm siết chặt trong lĩnh vực chính trị cũng như trong lĩnh vực văn hóa –
tư tưởng. Đó chính là nguyên nhân sâu xa khiến cho nền giáo dục ngày càng suy
đồi, luân lý đạo đức xuống cấp trầm trọng, nạn tham nhũng có cơ hội phát triển
tràn lan.
Có
thể nói những hạn chế của bản Hiến pháp 1992 cũng như của bản Dự thảo sửa đổi
do Quốc hội hiện hành soạn thảo đều bắt nguồn từ chỗ: Cương lĩnh của Đảng quyết
định Hiến pháp của quốc gia. Một khi cương lĩnh của Đảng chưa thay đổi thì Hiến
pháp cũng không bao giờ có thể thay đổi. Đó chính là hậu quả của chế độ “đảng
trị” – một chế độ mà Đảng đứng trên Nhà nước, Cương lĩnh của Đảng đứng trên
Hiến pháp, kỷ cương của Đảng đứng trên pháp luật.
Chính
vì thế, để có một bản hiến pháp đáp ứng được các yêu cầu khách quan của sự phát
triển của đất nước, vừa đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân vừa phù hợp với
các yêu cầu của thời đại, không thể dừng lại ở việc sửa đổi Hiến pháp mà phải
viết lại hoàn toàn một bản Hiến pháp mới. Và để viết một bản Hiến pháp mới,
không thể sử dụng quyền lập hiến phái sinh (tức quyền sửa đổi hiến pháp) mà
phải sử dụng quyền lập hiến nguyên thủy – tức là quyền viết một bản
hiến pháp mới, không lệ thuộc vào bất cứ bản hiến pháp nào có trước.
Như
trên đã nói, quyền lập hiến nguyên thủy chỉ được thực hiện trong hoàn cảnh có
sự thay đổi về tương quan lực lượng chính trị trong thực tế, ví như sau một
cuộc đảo chính (tức chuyển đổi quyền lực từ bên trên) hay một cuộc cách mạng
(tức là chuyển đổi quyền lực từ bên dưới). Nhưng ở nước ta, cho đến nay, vẫn
chưa xảy ra một cuộc cách mạng hay một cuộc đảo chính nào cả. Vậy làm thế nào
để có thể thực hiện quyền lập hiến nguyên thủy mà không diễn ra những xáo trộn
không cần thiết, những đổ vỡ không đáng có nhằm tạo điều kiện cho việc thực
hiện quyền lập hiến nguyên thủy, thiết lập một bản hiến pháp mới?
Để
trả lời câu hỏi đó, cần vạch ra một lộ trình phù hợp với tình hình hiện tại,
một lộ trình khả thi nhưng phải bảo đảm được quyền làm chủ của nhân dân, không
dựa trên cơ chế “xin-cho”, không khoán trắng tương lai đất nước cho bất kỳ một
cá nhân hay một lực lượng chính trị nào cả. Chúng ta sẽ bàn đến lộ trình ấy
trong phần sau của bài viết.
Đà
Lạt ngày 2 tháng 3 năm 2013
M.T.L.
Tác
giả gửi trực tiếp cho BVN
[1] “Kiến nghị về sửa đổi Hiến
pháp 1992”, Bauxite Vietnam, 28/02/2013: http://www.boxitvn.net/bai/44588
[2] Nguyễn Đắc Kiên, “Vài lời với
TBT ĐCS VN Nguyễn Phú Trọng”, Blog Anh Ba Sàm 26-2-2013: http://anhbasam.wordpress.com/2013/02/26/vai-loi-voi-tbt-dcs-vn-nguyen-phu-trong/
[3] Chỉ tính đến 9h40 ngày
02.03.2013, đã có 1.400 người ký vào Lời tuyên bố của các công dân tự do
(tháng 2 dương lịch chỉ có 28 ngày).
[4] “Thông báo Hội nghị lần thứ 5
BCHTW Đảng khoá XI”, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ, 15/05/2012:
[5] Cần lưu ý: người ký vào bản
Hiến pháp 1992 sửa đổi này chính là ông Nguyễn Văn An, vào năm 2001 là Ủy viên
Bộ chính trị, Chủ tịch Quốc hội.
[6] “Hiến pháp Việt Nam cần được
sửa đổi một cách căn bản” (Phỏng vấn ông Mai Thái Lĩnh về vấn đề sửa đổi hiến
pháp và trưng cầu dân ý), Duy Ái – VOA Thứ Ba, 1 tháng 3 năm 2011:
[7] Mai Thái Lĩnh, Những khuyết
điểm nghiêm trọng của Hiến pháp 1946, Pro&Contra 13-7-2012:
[8] Song song với quan niệm chế
độ pháp trị (rule of law) của các quốc gia theo hệ thống thông luật (common
law) như Anh và Hoa Kỳ, tại các quốc gia châu Âu theo hệ thống dân luật (civil
law), đã hình thành một quan niệm được gọi là Nhà nước pháp quyền (Rechtsstaat
trong tiếng Đức, État de droit trong tiếng Pháp). Ngày nay, hai quan
niệm này ngày càng gần gũi nhau, có thể gọi chung là chế độ pháp trị hiện
đại (rule of law) - để phân biệt với chế độ pháp trị thời thượng cổ và
trung cổ (rule by law).
[9] Trăm hoa đua nở trên đất
bắc, Mặt trận Bảo vệ Tự do Văn hóa, Saigon 1959, trang 311.
Mai Thái Lĩnh
10-3-2013
Trong
phần trước,
chúng ta đã tìm hiểu lý do tại sao đã đến lúc phải viết lại một hiến pháp mới
thay vì sửa đổi bản hiến pháp cũ. Nói theo ngôn ngữ của luật học: đã đến lúc
nhân dân Việt Nam phải sử dụng quyền lập hiến nguyên thủy (pouvoir constituant
originaire) thay vì sử dụng quyền lập hiến phái sinh (pouvoir constituant
dérivé).
Như
các nhà luật học người Pháp đã phân tích, quyền lập hiến nguyên thủy chỉ thực
hiện được trong hoàn cảnh có khoảng trống pháp lý (vide juridique) mà yếu tố
này lại là một sự kiện (fait) nằm ngoài phạm vi của luật học. Khoảng trống pháp
lý này có thể hình thành từ những hoàn cảnh khách quan hoặc từ những tác động
chủ quan, như các cuộc cách mạng hay các cuộc đảo chính. Nhưng đối với một chế
độ cộng sản thì khả năng đảo chính là hầu như không thể xảy ra, còn cách mạng
lại là điều phần lớn người dân Việt Nam – do quá mệt mỏi vì chiến tranh, vì nội
loạn, đều không mong muốn. Như thế, trong hoàn cảnh êm ả nhất, hòa bình nhất –
nghĩa là không có đảo chính, không có cách mạng, khoảng trống này chỉ có thể
được tạo ra bằng một cuộc đấu tranh của quần chúng theo phương thức ôn hòa,
bất bạo động nhằm dẫn đến một sự thay đổi về tương quan lực lượng, tạo điều
kiện cho việc thực hiện quyền lập hiến nguyên thủy. Đảng Cộng sản gọi quá trình
này là “diễn biến hòa bình”, nhưng thay vì ủng hộ nó để có thể từng bước chuyển
giao quyền lực một cách êm thắm như các chế độ quân chủ lập hiến trước kia đã
làm, họ lại coi đó là “nguy cơ”, là “hiểm họa”. Lòng đam mê nắm giữ quyền lực
đã khiến cho các nhà lãnh đạo cộng sản trở nên mù quáng, ngày càng kém sáng
suốt. Gần đây, chẳng những đề phòng diễn biến hòa bình từ bên ngoài, họ còn lớn
tiếng lên án cả hiện tượng “tự diễn biến” trong nội bộ Đảng, coi những người có
quan điểm chính trị khác với quan điểm chính thống là “thoái hóa”, là “biến
chất”,…
Diễn
biến hòa bình từ một chế độ độc tài, chuyên chế sang một chế độ dân chủ là khả
năng có thật, đã từng xảy ra ở nhiều nước trong nhiều thời điểm lịch sử. Như ở
Bắc Âu chẳng hạn, cuộc đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng từ bên dưới kết hợp với
sự diễn biến trong nội bộ của tầng lớp thống trị ở bên trên đã tạo ra tiến
trình dân chủ hóa tương đối êm thắm, giúp thiết lập thành công các chế độ dân
chủ. Tính chất ổn định và vững chắc của các nền dân chủ tại đây cho thấy khả năng
“đoàn kết, thống nhất trong đa dạng”. Nằm sát cạnh các cường quốc lớn như Đức
và Nga, các nước này đã tránh được những bất ổn nội bộ cũng như những sự can
thiệp từ bên ngoài. Ngày nay, với ba vương quốc quân chủ lập hiến (Thụy Điển,
Đan Mạch, Na Uy) và hai nước cộng hòa (Phần Lan, Iceland), khu vực này vẫn luôn
ghi điểm cao trong lĩnh vực nhân quyền và chất lượng cuộc sống, đáng cho chúng
ta nghiên cứu, học hỏi.
Trước
khi phác họa một lộ trình cho việc thiết lập một hiến pháp dân chủ, thiết nghĩ
chúng ta cũng cần giải đáp một vấn đề khá quan trọng:
Hiến pháp dân chủ
là khởi điểm hay là kết quả của quá trình dân chủ hóa?
Tình
hình thực tế hiện nay là nhân dân ta đang sống dưới một chế độ độc tài toàn
trị. Đảng cầm quyền chưa hề tỏ rõ thiện chí mở rộng dân chủ, ban hành một hiến
pháp tiến bộ hơn. Nhưng giả định rằng trong quá trình đấu tranh, đến một lúc
nào đó đảng cầm quyền buộc phải mở rộng dân chủ thì câu hỏi đặt ra là: cuộc cải
cách hiến pháp ấy có thiết lập được ngay một bản hiến pháp thật sự dân chủ hay
không?
Kinh
nghiệm lịch sử cho thấy cuộc đấu tranh để chuyến hóa từ độc tài, chuyên chế
sang dân chủ chỉ có thể giành được “thắng lợi từng phần”, do chỗ tầng lớp thống
trị chỉ chịu lùi từng bước, nhượng bộ từng phần, chứ không bao giờ chịu nhượng
bộ hoàn toàn, “trọn gói” trước những đòi hỏi của nhân dân. Một trong những minh
chứng thực tế là trường hợp của Miến Điện (Burma, nay gọi là Myanmar) mà một số
trí thức trong và ngoài nước đã gọi là “mô hình Miến Điện”. Mặc dù đã đạt những
bước tiến quan trọng về dân chủ do công lao của Tổng thống Thein Sein, cho đến
nay Miến Điện vẫn chưa có một hiến pháp đáng gọi là dân chủ:
Bản
hiến pháp hiện hành của nước này là Hiến pháp 2008 được thông qua bởi một cuộc
trưng cầu dân ý vào ngày 10-5-2008 với kết quả 93,82% phiếu thuận, với tỷ lệ cử
tri tham gia bỏ phiếu (turnout) rất cao: 98,12 %. Mặc dù vậy, “quyền phúc
quyết” vẫn không giúp cho bản hiến pháp này thêm được tính dân chủ. Trong thực
tế, đó vẫn là một bản hiến pháp phi-dân chủ vì những điều khoản nhằm củng cố
quyền hành của tầng lớp thống trị – nhất là giới quân sự: (1) Một phần tư tổng
số ghế trong nghị viện được dành cho các sĩ quan quân đội; (2) Bộ Nội vụ thuộc
quyền kiểm soát của quân đội; (3) Bất kỳ người nào kết hôn với một người không
phải là người Miến Điện sẽ bị cấm giữ chức vụ tổng thống. Nhiều cơ quan truyền
thông quốc tế cho rằng điều khoản này có tác dụng ngăn cản lãnh tụ đối lập Aung
San Suu Kyi ứng cử chức vụ tổng thống, mặc dù chồng bà (là một người Anh) đã
qua đời năm 1999 [1]. Nhìn vào tương quan lực
lượng, chúng ta thấy đảng cầm quyền USDP (Union Solidarity and Development
Party, Đảng Liên minh Đoàn kết và Phát triển) và quân đội vẫn khống chế chính
trường. Trên tổng số 440 ghế tại Hạ viện, Đảng USDP chiếm 212 ghế (48, 18%),
quân đội chiếm 110 ghế (25%), Đảng NLD
(National League for Democracy, Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ) của bà Aung San
Suu Kyi chỉ có 37 ghế (8,41 %). Tại Thượng viện, trên tổng số 224 ghế, USDP
chiếm 124 ghế (55, 37%), quân đội chiếm 56 ghế (25%), Đảng NLD chỉ có 4 ghế (1,78%).
Như
thế, nghị viện vẫn còn là “nghị viện của quân đội” và sự tham gia của đảng đối
lập NLD chỉ mới có tính chất tượng trưng. Vẫn còn một quãng đường chông gai để
Nghị viện Miến Điện trở thành một Nghị viện của Dân và một bản hiến pháp dân
chủ vẫn còn là một mục tiêu đấu tranh của nhân dân Miến Điện. Có thể nói Miến
Điện chỉ có thể đạt được một bản hiến pháp thật sự dân chủ khi các lực lượng
đối lập (nhất là đảng của bà Aung San Suu Kyi) được cùng tham gia soạn thảo
hiến pháp.
Chính vì vậy, chúng ta
cần nhất trí với nhau về một điểm: phải coi hiến pháp dân chủ là mục tiêu cần
đạt được qua một quá trình đấu tranh lâu dài, chứ không thể coi đó là khởi
điểm.
Cần nói rõ điều này để giúp cho người dân có ý thức cảnh giác trước những cuộc
cải cách hiến pháp nửa vời mà đảng cầm quyền đã và đang ra sức tuyên truyền.
Mặt khác, các nhà chiến lược của các phong trào vận động dân chủ cũng phải nhất
trí về một điều: trong khi nhân dân chưa có điều kiện để thực hiện quyền lập
hiến nguyên thủy thì mọi cuộc cải cách hiến pháp chỉ có thể được coi là những
giải pháp tạm thời, những biện pháp vận động mang tính chiến thuật. Không nên
vì quá say sưa với các hình mẫu hiến pháp mà quên đi một thực tế: hiến pháp dân
chủ không phải là một văn bản thuần túy pháp lý mà là kết quả của sự tăng cường
quyền lực của nhân dân thông qua đấu tranh.
Ngoài
ra, các nhà vận động dân chủ trong và ngoài nước cũng cần lưu ý một điểm hết
sức quan trọng: cuộc đấu tranh dân chủ hóa mặc dù dựa vào phương thức ôn hòa,
bất bạo động, nhưng vẫn phải dẫn đến một sự thay đổi về tương quan lực lượng
có tầm mức tương đương với một cuộc cách mạng. Trong chiều hướng đó, để giữ
được tính chất ôn hòa, bất bạo động, cần phải tránh một số khuyết điểm của
phương thức cách mạng (như quá khích, manh động, bạo động) để không gây ra
những xáo trộn xã hội không cần thiết. Mặt khác, để bảo đảm đạt được mục tiêu
cuối cùng, cuộc đấu tranh đó cũng cần phải tránh một số khuyết điểm của phương
thức đảo chính (như thỏa hiệp vô nguyên tắc, bằng lòng với các cải cách nửa vời,
không dựa vào sức mạnh của quần chúng nhân dân bên dưới). Trong lịch sử, nhiều
cuộc “đảo chính cung đình” nhân danh “cách mạng” cuối cùng chỉ dẫn đến việc
phân chia lại quyền lợi giữa các thế lực chính trị bên trên, không quan tâm đến
các quyền tự do căn bản của người dân cũng như sự phát triển của xã hội dân sự.
Làm thế nào để
thiết lập một hiến pháp dân chủ tại nước ta?
Dựa
vào những chỉ dẫn của Phan Châu Trinh – nhà tư tưởng hàng đầu của chủ nghĩa lập
hiến Việt Nam hồi đầu thế kỷ vừa qua (thế kỷ 20), có thể tạm vạch ra một lộ
trình thiết lập hiến pháp dân chủ như sau:
Bước 1 – Đấu tranh
thực thi các quyền tự do căn bản:
Khi
nói đến “các quyền tự do căn bản”, tôi không nhằm nói đến các quyền tự do căn
bản dựa theo các công ước quốc tế – là những quyền được thế giới văn minh công
nhận như những giá trị phổ quát mà bất cứ quốc gia dân chủ nào cũng đều phải
thực hiện. Tôi muốn nói đến “các quyền tự do căn bản” xét theo phương diện đấu
tranh để xây dựng một xã hội dân sự làm tiền đề vững chắc cho một chế độ chính
trị thật sự dân chủ. Nói cách khác, đó là “các quyền căn bản làm nảy sinh các
quyền tự do căn bản khác”.
Trong
một bài viết công bố vào cuối năm 2010 nhằm trình bày “Cương lĩnh chính trị của
Phan Châu Trinh” [2], tôi đã nêu rõ ba quyền tự do
căn bản ấy là “tự do tư tưởng, tự do ngôn luận và báo chí, tự do hội họp và lập
hội”. Phan Châu Trinh diễn đạt điều đó bằng hai câu thơ như sau:
Để
ta được vào vòng chánh trị,
Từ
hội hè, suy nghĩ, nói năng.
Vận
dụng vào hoàn cảnh của thế giới và của đất nước hiện nay, chúng ta có thể sửa
đổi, bổ sung ba quyền tự do căn bản đó thành: (1) tự do tư tưởng và tự do
tôn giáo; (2) tự do ngôn luận, tự do báo chí và internet; (3) tự do hội họp và
lập hội. Ba quyền tự do căn bản ấy chính là đòn bẫy làm nảy sinh và phát
triển xã hội dân sự. Đó cũng chính là tiền đề để giúp nhân dân ta đàng
hoàng “bước vào vòng chính trị”, từ chỗ bị tước đoạt quyền công dân và quyền
làm người tiến lên làm chủ về mặt chính trị.
Sẽ
có người đặt câu hỏi: tại sao rất nhiều quyền công dân và quyền con người đã
được ghi vào hiến pháp của nước ta mà vẫn không được thực hiện? Nếu nhìn lại
lịch sử, chúng ta có thể thấy rõ một điều: ở nơi nào mà nhân dân tự mình đấu
tranh để giành các quyền tự do thì nơi đó, luật pháp và hiến pháp mới có thực
chất. Ngược lại, ở nơi nào mà hiến pháp và pháp luật chỉ do một “đấng minh
quân” hay một “đảng chính trị sáng suốt” ban cho thì các quyền tự do có nguy cơ
trở thành “tự do trên giấy”, thành “bánh vẽ”.
Trong
thực tế của các nền dân chủ tiên phong, các đạo luật ban hành các quyền tự do
của công dân thường ra đời trước khi có hiến pháp và cuộc đấu tranh để đặt nền
móng cho chế độ pháp trị (rule of law) đã được khởi động rất sớm, nghĩa là từ
khi chưa có hiến pháp, chưa có hệ thống chính trị dân chủ hoàn chỉnh.
Nếu
tìm hiểu Hiến pháp Hoa Kỳ (1787), chúng ta sẽ thấy văn bản lập hiến này có
nguồn gốc từ những văn bản pháp lý ra đời từ rất sớm ở Vương quốc Anh. Vào năm
1215, các nam tước (barons, tức là các nhà quý tộc lớp dưới) đã buộc Vua John
phải ký Đại Hiến chương (Magna Carta), từ đó sinh ra khái niệm “Lệnh
định quyền giam giữ” (writ of Habeas corpus) nhằm hạn chế quyền lực tùy tiện
của nhà vua. Bản hiến chương đó cũng là nguồn gốc của khái niệm “Thủ tục pháp
lý thích đáng” (Due process of law) về sau được đưa vào Hiến pháp Hoa Kỳ bằng
hai tu chính án số 5 (năm 1789) và số 14 (năm 1866). Đó là những khái niệm pháp
lý quan trọng làm nên điều mà ngày nay chúng ta thường gọi là “quyền được xét
xử một cách công bằng”. Cùng với Đạo luật về Quyền (Bill of Rights) do
Nghị viện Anh ban hành năm 1689, Magna Carta được coi là nguồn gốc ban
đầu của Hiến pháp Hoa Kỳ cũng như 10 tu chính án đầu tiên – thường được gọi là Đạo
luật về Quyền (Bill of Rights) của Hoa Kỳ.
Tương
tự như thế, tại Thụy Điển, rất lâu trước khi hệ thống đại nghị được thiết lập
hoàn chỉnh, cuộc đấu tranh đòi quyền tự do ngôn luận đã đạt được thắng lợi quan
trọng qua việc ra đời Đạo luật về Tự do Báo chí (Tryckfrihetsförordningen,
The Freedom of the Press Act) vào năm 1766 – một trong những đạo luật đầu
tiên về tự do báo chí trên thế giới.
Nói
cách khác, nếu tôn trọng luật pháp là khởi đầu của sự tôn trọng hiến pháp thì
việc tiến hành đấu tranh giành các quyền tự do căn bản nhằm hình thành xã hội
dân sự chính là sự bảo đảm tốt nhất cho việc thực thi luật pháp và hiến pháp
sau này. Bởi một lẽ dễ hiểu: cái gì ta giành được thì cũng bền vững hơn là
cái mà ta được ban ân.
Bước 2 – Tạo điều
kiện thực thi quyền bầu cử-ứng cử và các quyền chính trị khác:
Chỉ
đến lúc ba quyền tự do căn bản nói trên được thực hiện đến một mức độ nào đó
thì các quyền tự do chính trị như quyền bầu cử-ứng cử và quyền phúc
quyết (một hình thức của trưng cầu dân ý) mới có thể trở thành quyền
thực chất. Nói cách khác, quyền bầu cử-ứng cử và quyền phúc quyết chỉ có thể
thực hiện trên nền tảng của một xã hội dân sự tương đối vững vàng.
Quyền
bầu cử-ứng cử là một quyền tự do chính trị cực kỳ quan trọng vì đó chính là
điều kiện để nhân dân có thể bầu ra một chính quyền đại diện thật sự cho nhân
dân, vừa thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân, vừa bảo vệ được các lợi
ích chính đáng của nhân dân. Một cuộc bầu cử trong hoàn cảnh nhân dân không
được thực thi các quyền tự do căn bản chỉ là một hình thức để lừa bịp, bởi vì
không có cạnh tranh lành mạnh giữa các ứng cử viên, giữa các đảng phái và ngay
cả việc bỏ phiếu, kiểm phiếu công bằng cũng không ai có thể giám sát được. Đó
chính là tình trạng “Đảng cử, dân bầu” mà tất cả các quốc gia theo chế độ cộng
sản đều phạm phải – không trừ một nước nào. Có thể nói quyền bầu cử-ứng cử phải
dựa trên tiền đề là ba quyền tự do căn bản nói trên và ngược lại, ba quyền căn
bản nói trên sẽ được bảo đảm một khi người dân có quyền bầu những người đại
diện của mình vào các cơ quan quyền lực hiến định.
Thực
hiện được quyền bầu cử-ứng cử cũng tương tự như thực hiện quyền phúc quyết
(một hình thức của trưng cầu dân ý), vì trưng cầu dân ý suy cho cùng
cũng là một hình thức bỏ phiếu. Mặc dù là một hình thức của dân chủ trực tiếp
(direct democracy) giúp cho người dân có cơ hội tham gia vào các sinh hoạt
chính trị, trưng cầu dân ý cũng có thể trở thành công cụ trong tay các nhà độc
tài hay các lãnh tụ chính trị giỏi mị dân. Để bảo đảm cho trưng cầu dân ý trở
thành công cụ hữu hiệu trong tay nhân dân, chỉ nên áp dụng hình thức này khi
người dân đã thực hiện được ba quyền tự do căn bản như đã trình bày trong bước
1.
Bước 3 – Hai phương
thức thực hiện quyền lập hiến:
Một
khi các quyền tự do căn bản và quyền bầu cử-ứng cử có khả năng thực thi một
cách đúng đắn, xã hội dân sự đã được xác lập như một đối trọng của chính quyền
thì đó cũng là lúc nhân dân có đủ điều kiện thực hiện quyền lập hiến nhằm thiết
lập một hiến pháp mới. Vào lúc này, dân trí đã được nâng cao một bước và song
song với sự phát triển của xã hội dân sự, chính quyền đã được “dân chủ hóa” ở
một mức độ nhất định. Sự phát triển của xã hội dân sự đã tạo ra cơ hội để làm
nảy sinh một “khoảng trống pháp lý”. Đó chính là thời cơ để nhân dân thực hiện
quyền lập hiến nguyên thủy, hủy bỏ hiến pháp cũ, làm ra một bản hiến pháp mới
thật sự dân chủ.
Nhìn chung, có hai
phương thức để thiết lập hiến pháp mới:
(1)
Nhân dân tiến hành một cuộc bầu cử để bầu ra một Quốc hội Lập hiến (assemblée constituante,
constituent assembly). Quốc hội này chỉ làm một công việc duy nhất là soạn
thảo và thông qua một bản Hiến pháp mới. Do được nhân dân ủy quyền, bản
hiến pháp này không cần đưa ra để trưng cầu dân ý (tức phúc quyết). Mặt khác,
trong thời gian soạn thảo và thông qua hiến pháp mới, cơ quan này có thể đóng
vai trò của một chính phủ tạm quyền.
Vì
được bầu ra với mục đích chủ yếu là làm ra một bản hiến pháp mới, Quốc hội Lập
hiến sẽ giải tán sau khi hoàn thành nhiệm vụ. Sau khi bản hiến pháp mới được
Quốc hội Lập hiến thông qua, các cuộc bầu cử sẽ được tiến hành để bầu ra các cơ
quan nắm giữ các quyền lực hiến định (lập pháp, hành pháp, tư pháp) theo đúng
những điều khoản đã quy định trong hiến pháp.
(2)
Thay vì bầu ra một Quốc hội Lập hiến, do chỗ xã hội dân sự đã hình thành, chính
quyền hiện hành (vào lúc này đã trở thành một chính quyền dân chủ hóa ở một mức
độ nhất định) sẽ đề xuất một phương án thành lập một Ủy ban Lập hiến bao
gồm đại diện của tất cả các xu hướng chính trị (ít nhất là những xu hướng
chính) trong xã hội. Phương án hình thành Ủy ban Lập hiến đương nhiên phải đạt
được sự đồng thuận chung của toàn xã hội thông qua thảo luận, thương thuyết và
đàm phán. Đó chính là thành quả bước đầu của quá trình hòa giải dân tộc và cũng
là tiền đề để xây dựng một thể chế chính trị dân chủ trong tương lai.
Ủy
ban Lập hiến được Quốc hội đương nhiệm chính thức ủy quyền soạn thảo một bản
hiến pháp mới và bản dự thảo này sẽ được đưa ra thảo luận một cách công khai,
rộng rãi, sau đó được đưa ra Quốc hội biểu quyết thông qua. Khác với phương án
trên, bản dự thảo hiến pháp sau khi được Quốc hội hiện hành thông qua, sẽ được
đưa ra trưng cầu dân ý (tức phúc quyết). Do chỗ các quyền tự do căn bản đã được
thực thi, chúng ta có thể tin tưởng vào kết quả của cuộc trưng cầu dân ý –
tương đương với kết quả của một cuộc bầu cử Quốc hội Lập hiến.
Tất
nhiên, trước khi tiến hành bầu Quốc hội Lập hiến hay hình thành Ủy ban Lập hiến
nhằm soạn thảo, thông qua hay phúc quyết hiến pháp mới, xã hội dân sự đã cùng
với chính quyền hiện hành tiến hành nhiều biện pháp hòa giải dân tộc (vd: trả
tự do vô điều kiện cho tất cả các tù chính trị, bãi bỏ tất cả các biện pháp
sách nhiễu đối với những người bất đồng chính kiến, v.v.) Mặt khác, các cải
cách tư pháp cũng đã được tiến hành một bước theo hướng bảo vệ các quyền công
dân và quyền con người, nhằm xây dựng một ngành tòa án độc lập, tạo ra các điều
kiện ban đầu để hình thành một chế độ pháp trị (tức nhà nước pháp quyền) theo
nghĩa hiện đại.
Như
vậy, một bản hiến pháp thật sự dân chủ sẽ là thành quả của một cuộc đấu
tranh giành dân chủ chứ không phải là tiền đề của một cuộc vận động dân
chủ. Hiến pháp không phải là sản phẩm thuần túy của “phòng thí nghiệm lập hiến”
– kết quả trừu tượng của các nhà luật học, mà là kết quả của sự đồng thuận
trong nhân dân, thể hiện qua sự thỏa thuận giữa các lực lượng chính trị và xã
hội – trong đó có sự góp phần quan trọng của các nhà luật học. Chỉ bằng cách
đó, hiến pháp mới có giá trị thực chất và có thể tồn tại lâu dài với thời gian.
Vì là kết quả của sự đồng thuận trong nhân dân, thông qua các cuộc bầu cử hay
phúc quyết mang tính dân chủ, cho dù bản hiến pháp ấy có khuyết điểm này hay
khuyết điểm khác, nhân dân vẫn có thể vẫn có thể khắc phục được một cách dễ
dàng bằng con đường của quyền lập hiến phái sinh, tức là thông qua các thủ tục
sửa đổi hiến pháp đã được ghi rõ trong bản hiến pháp được hình thành bởi “Quốc
hội Lập hiến” hay “Ủy ban Lập hiến + Trưng cầu dân ý”.
Ngoài
ra, còn có một con đường thứ ba: kết hợp cả hai phương thức “Quốc hội Lập hiến”
và “Trưng cầu dân ý”. Giải pháp này trong lịch sử đã từng được áp dụng, nhưng
rất tốn kém và có thể sinh ra hậu quả khó giải quyết, như trường hợp của bản
Hiến pháp 1946 của nước Pháp. Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, vào tháng 10
năm 1945, nhân dân Pháp đã bầu một Quốc hội Lập hiến. Quốc hội này đã soạn thảo
và thông qua một bản dự thảo Hiến pháp đầu tiên (19-4-1946), sau đó đưa ra
trưng cầu dân ý (ngày 5-5-1946) nhưng không đạt được đủ số phiếu cần thiết. Vì
vậy đến tháng 6 năm 1946, nhân dân Pháp lại phải bầu một Quốc hội Lập hiến khác
để soạn thảo và thông qua một bản dự thảo Hiến pháp khác. Chính bản dự thảo
Hiến pháp thứ hai này mới được nhân dân chấp thuận thông qua cuộc trưng cầu dân
ý ngày 13-10-1946 và trở thành hiến pháp chính thức của nền Đệ tứ Cộng hòa
(thường gọi là Hiến pháp 1946).
Như
chúng ta đã biết, mặc dù đã trải qua hai lần phúc quyết, Hiến pháp 1946 vẫn
không thể giải quyết được tình trạng mất cân bằng giữa các cơ quan quyền lực
hiến định. Các chính phủ thay đổi liên tục (21 chính phủ trong vòng 10 năm)[3], trong khi nước Pháp phải
đương đầu với các cuộc chiến tranh giành độc lập từ các thuộc địa (như Việt
Nam, Algérie,…). Cơ quan hành pháp quá lệ thuộc vào cơ quan lập pháp, không đủ
khả năng để giải quyết các vấn đề cực kỳ khó khăn mà nước Pháp phải đương đầu.
Vì vậy, đến năm 1958, người Pháp lại phải thay Hiến pháp 1946 bằng một bản hiến
pháp mới – bản hiến pháp tồn tại được cho đến ngày nay. Trong lần thay đổi hiến
pháp này, chế độ chính trị tại Pháp chuyển từ mô hình đại nghị sang một mô hình
hỗn hợp (lai ghép) được đặt tên là chế độ nửa-tổng thống (semi-presidential
system).
Trong
hoàn cảnh của Việt Nam, thiết tưởng chúng ta chỉ nên áp dụng một trong hai
phương pháp nêu trên là đủ để bảo đảm có được một bản hiến pháp mới phù hợp với
yêu cầu của dân tộc và yêu cầu của thời đại.
*
Tóm
lại, một bản hiến pháp dân chủ là thành quả của một quá trình vận động dân chủ
hóa theo phương thức đấu tranh ôn hòa – bất bạo động, do sự hợp lực của tất cả
các lực lượng yêu nước, yêu dân chủ trong nhân dân. Nó là điểm cuối của quá
trình dân chủ hóa chứ không phải là điểm khởi đầu. Nó là thành quả của đấu
tranh chứ không phải là sự ban ân của một cơ chế “xin-cho”. Nó phản ánh sự thay
đổi về tương quan lực lượng trong xã hội chứ không phải là kết quả của một quy
trình thuần túy pháp lý.
Trái
với suy nghĩ của rất nhiều người, đấu tranh ôn hòa – bất bạo động không có
nghĩa là không cần phải hy sinh, không cần trải qua gian khổ. Ngược lại, lịch
sử đấu tranh ôn hòa – bất bạo động trên thế giới cũng như ở Việt Nam cho thấy
cuộc đấu tranh nào cũng đòi hỏi những hy sinh to lớn, thậm chí những sự “hy
sinh thầm lặng”, không được ai biết đến. Rất nhiều nhà đấu tranh cho dân chủ có
thể không được nhìn thấy ngày chế độ dân chủ toàn thắng, không thể cùng với
nhân dân đứng trên đỉnh vinh quang.
Cuộc
đấu tranh đầy cam go đó đòi hỏi tất cả mọi cá nhân, mọi tổ chức phải biết tôn
trọng lẫn nhau, biết đối thoại trên tinh thần bình đẳng, dân chủ, cùng chung
mục tiêu “tìm kiếm chân lý”, tìm kiếm những giá trị tốt đẹp cho mọi người Việt
không phân biệt chủng tộc, giới tính, tôn giáo, đẳng cấp hay giai cấp. Chúng ta
đấu tranh cho một xã hội dân sự lành mạnh, một chế độ chính trị dân chủ chứ
không phải đấu tranh để đưa một “người hùng” nào đó vào chức vụ Tổng thống, hay
ủng hộ một đảng chính trị nào đó có khả năng chiếm được nhiều ghế nhất trong
Quốc hội. Chúng ta đấu tranh để mọi người dân có thể tham gia vào chính trị,
làm chủ xã hội và làm chủ quyền lực Nhà nước, chứ không phải để thay thế một
chế độ toàn trị này bằng một chế độ chuyên chế kiểu mới nào khác. Hãy nhìn tấm
gương của Phan Châu Trinh: thay vì thành lập một đảng chính trị (điều mà ông
thừa sức làm), ông chủ trương xây dựng một chế độ đa đảng có ít nhất hai đảng
lớn – trong đó đảng đối lập có thể chỉ trích, phê bình hoặc thay thế đảng cầm
quyền. Thay vì tự nhận mình là lãnh tụ hay vận động mọi người đi theo một lãnh
tụ, ông kêu gọi mỗi người đứng lên, cùng nhau chung sức giành quyền làm chủ
theo phương thức “chung tay vỗ nên kêu” [4].
Sẽ
có người hoài nghi: trong hoàn cảnh đất nước đang phải đối phó với tên khổng lồ
phương Bắc, đang cần đến một quyền lực mạnh mang tính tập trung, làm sao có thể
thực hiện “đoàn kết trong đa dạng”?
Xin
hãy nhìn vào tấm gương của các quốc gia Bắc Âu. Đó chỉ là những quốc gia nhỏ bé
(dân số mỗi nước chưa đến 10 triệu người), đã từng phải đương đầu với những
cường quốc hung hãn (như nước Đức thời Quốc-xã hay nước Nga thời Xô-viết), vậy
mà họ vẫn tựa vào chế độ dân chủ để đứng vững vàng trước đầu sóng ngọn gió. Hãy
nhìn tấm gương của Phần Lan, một đất nước sau cuộc nội chiến Trắng-Đỏ đẫm máu
và nước mắt vẫn mạnh dạn chấp nhận thể chế dân chủ đa đảng để đoàn kết toàn
dân, bảo vệ độc lập dân tộc. Thành công của họ và thất bại của ta chẳng phải là
một phép so sánh để đánh giá tính ưu việt của mỗi chế độ chính trị hay sao?
Một
nước Phần Lan nhỏ bé sống bên cạnh một nước Nga khổng lồ hung hãn vẫn giữ vững
được độc lập nhờ vào chế độ dân chủ, trong khi một nước Việt Nam tự hào đã
“đánh thắng được hai đế quốc to là Pháp và Mỹ” nhưng lại run sợ trước ông bạn
“mười sáu chữ vàng” đến mức không dám kỷ niệm những chiến sĩ đã bỏ mình vì
nước, không dám kiện ra Tòa án Quốc tế việc “nước bạn” đã cướp các đảo của ta,
không dám vứt bỏ “tình hữu nghị” trong khi kẻ có dã tâm vẫn tiếp tục dòm ngó
toàn bộ Biển Đông. Phải chăng sự đối chiếu đó là bằng chứng hùng hồn nhất chứng
minh “sức mạnh” của một chế độ chính trị: giữa chế độ dân chủ đa đảng và
chế độ độc tài đảng trị, chế độ chính trị nào giúp cho dân tộc ta mạnh hơn,
giúp đất nước ta phát triển vững bền hơn?
Đà
Lạt, ngày 8-3-2013
M.T.L.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
-
Kemal Gözler, Pouvoir constituant, Editions Ekin Kitabevi, Bursa
[Turquie] 1999: http://www.anayasa.gen.tr/pconstituant.htm
-
GS Nguyễn Văn Bông, Luật Hiến pháp và Chính trị học, in lần thứ hai, Sài
Gòn 1969.
Có
thể tham khảo thêm các bài viết của cùng tác giả:
-
Mai Thái Lĩnh, “Tìm hiểu quan niệm chính trị của Phan Châu Trinh”, loạt bài
đăng trên trang mạng talawas trong tháng 2 và tháng 3 năm 2007, nhân
ngày giỗ của Phan Châu Trinh (24.3.1926-24.3.2007),
-
Mai Thái Lĩnh, “Cương lĩnh chính trị của Phan Châu Trinh”, talawas
2.11.2010: http://www.talawas.org/?p=26516
-
Mai Thái Lĩnh, Những khuyết điểm nghiêm trọng của Hiến pháp 1946, Pro&Contra
13-7-2012: http://www.procontra.asia/?p=743
[1] Wikipedia (english), “Burmese
constitutional referendum”, 2008
[2] Mai Thái Lĩnh, “Cương lĩnh
chính trị của Phan Châu Trinh”, talawas 2.11.2010: http://www.talawas.org/?p=26516
[3] Chỉ tính từ đầu năm 1947 đến
giữa năm 1958, và không kể đến các chính phủ tồn tại quá ngắn (dưới 1 tháng).
[4] Nguyên văn của Phan Châu
Trinh: “ Đông tay vỗ nên bộp” (Santé thi tập, 1915), “Nhiều
tay làm nên bộp” (Đạo đức và luân lý Đông Tây, bài nói chuyện, 1925).
Tác
giả gửi trực tiếp cho BVN
No comments:
Post a Comment