Monday, 25 March 2013

KỊCH BẢN CHÍNH TRỊ NÀO CHO TƯƠNG LAI VIỆT NAM (Lê Diễn Đức)




Lê Diễn Ðức
Monday, March 25, 2013 3:00:07 PM

Hãng tư vấn Business Monitor International (BMI) ở London vừa có bản phúc trình, công bố cho quý hai năm 2013, theo BBC Việt ngữ, đưa ra ba kịch bản chính trị Việt Nam:


Kịch bản một: Chế độ kỹ trị

“Theo kịch bản này, đảng Cộng Sản Việt Nam (ÐCSVN) biến chuyển thành một chế độ kỹ trị, theo đó đảng sẽ chuyển hướng để chính phủ nhắm vào việc duy trì mức tăng trưởng kinh tế cao và đảm bảo phân phối của cải một cách tương đối hợp lý cho toàn bộ dân chúng.

Với hướng đi này, nhiều thanh niên vào đảng nhằm thăng tiến trong sự nghiệp và phục vụ đất nước chứ không phải vì lý tưởng Cộng Sản. Do vậy, các cải cách kinh tế sẽ được tiếp tục, bất chấp những lời chỉ trích từ các thành viên lớn tuổi, bảo thủ trong đảng”.


Kịch bản hai: Từng bước tự do hóa chính trị

“Ðây sẽ là tình huống tốt nhất, với việc ÐCS áp dụng những chuyển biến nêu trong kịch bản một, đồng thời kết hợp với việc dần dần tiến tới tự do hóa chính trị, như mở rộng vai trò của Quốc Hội, chấp nhận một cách dễ dàng hơn những ý kiến khác ở ngay trong cùng đảng, tăng tính cạnh tranh chính trị trong các kỳ bầu cử, và cho truyền thông hoạt động cởi mở hơn.

Theo kịch bản này, Việt Nam sẽ đi từ hệ thống độc đảng sang hệ thống một đảng nắm quyền chi phối tương tự như mô hình ở các nước láng giềng Campuchia, Malaysia và Singapore, nơi chỉ có đảng cầm quyền là có cơ hội thực sự để chiến thắng trong các kỳ bầu cử.

Nếu nhìn xa hơn, thì những gì đã xảy ra ở Nam Hàn, Ðài Loan và Nhật Bản cho thấy mô hình hệ thống một đảng nắm quyền chi phối rốt cuộc cũng sẽ mở đường cho phe đối lập. Tuy nhiên, trong trường hợp Việt Nam thì con đường này có lẽ chỉ xảy ra sau hơn một thập niên nữa”.


Kịch bản ba: Bạo loạn và đàn áp bạo lực

“Là khả năng xấu nhất, với những bước đi sai lầm nghiêm trọng về mặt chính sách, dẫn tới một giai đoạn biến động kinh tế kéo dài, tỷ lệ thất nghiệp cao và mức lạm phát chóng mặt khiến mức độ sung túc bị xói mòn.

Tình hình này sẽ thúc đẩy mạnh việc thay đổi thể chế, nhưng trước các cuộc biểu tình rộng khắp trên đường phố và sự thách thức toàn diện về cơ chế độc đảng lãnh đạo, một bộ phận trong đảng sẽ ủng hộ việc dùng các lực lượng an ninh đàn áp người biểu tình để tiếp tục níu giữ quyền lực. Tuy nhiên, việc đàn áp bạo lực các cuộc biểu tình đường phố như từng xảy ra như tại Bắc Kinh hồi 1989 hay tại Miến Ðiện hồi 2007 sẽ dễ khiến nhiều người thiệt mạng, và dẫn tới việc bị cộng đồng quốc tế áp lệnh trừng phạt”.

Tôi thử làm phép giải phẫu.

Trước hết, kịch bản một sẽ được thực hiện, tuy có rất nhiều khó khăn, vì trong tình trạng kinh tế hiện nay, nợ của doanh nghiệp nhà nước tới 60 tỷ USD, nợ của các công ty bất động sản khoảng 4 tỷ USD, hệ thống ngân hàng phải tái cơ cấu, không dễ dàng “duy trì mức tăng trưởng kinh tế cao và đảm bảo phân phối của cải một cách tương đối hợp lý cho toàn bộ dân chúng”.

Thứ đến, theo tôi, Việt Nam không có khả năng làm một cuộc cách mạnh đường phố, dù có những biến động lớn và xấu về kinh tế, cùng sự bất công, phẫn uất cao độ trong chính sách thu hồi đất đai và sự lộng hành, lạm quyền của công an.

Vòng qua một số nước ta có thể làm phép so sánh.

Ở Ba Lan, ngày 13 Tháng Mười Hai 1981, tình trạng thiết quân luật được ban hành. 70 ngàn binh sĩ quân đội, hàng chục ngàn lính dự bị đặt trong thế sẵn sàng, 30 ngàn viên chức thuộc Bộ Nội Vụ, 1,750 xe tăng và 1,400 xe bọc thép, 500 chiến xa, 9,000 xe ô tô, một số phi đội máy bay trực thăng và máy bay vận tải, đã được huy động cho đợt đàn áp. Liên lạc điện thoại bị vô hiệu hóa, giới nghiêm từ 19 giờ đến 6 giờ sáng, cấm công dân thay đổi nơi cư trú, đình chỉ công dân xuất cảnh... Chỉ riêng trong tuần đầu tiên của thiết quân luật, trong các nhà tù và trại giam đã có khoảng 5 ngàn người. Trong thời kỳ thiết quân luật (12/1981-7/1983), có khoảng 10 ngàn người bị bắt giữ trong 49 trại giam trên cả nước, đa số gồm các nhà lãnh đạo của Công Ðoàn Ðoàn Kết, trí thức liên kết với họ và nhà các hoạt động đối lập dân chủ. Bốn ngàn người trong số này đã bị buộc tội và có án tù, hàng ngàn công nhân bị sa thải, gần 2,900 người tự tử trong năm 1981, hàng trăm ngàn người dưới 35 tuổi đã bỏ chạy khỏi Ba Lan sang các nước phương Tây, không khác gì cuộc vượt biên tị nạn Cộng Sản của người miền Nam Việt Nam sau 1975. Tám năm sau, kể từ thiết quân luật, Ba Lan giành được tự do.

Quy mô đàn áp và hàng ngàn người đồng loạt bị bắt giam trong một thời gian rất ngắn, cho ta thấy rằng, từ hơn hai thập niên này, sự hy sinh cho dân chủ, tự do của người Việt chưa thấm vào đâu so với người Ba Lan. Sự bắt bớ, giam cầm và đàn áp của nhà cầm quyền CSVN đối với những người bất đồng chính kiến cũng chưa nhằm nhò gì so với nhà cầm quyền Cộng Sản Ba Lan trong giai đoạn thiết quân luật, về quy mô cũng như số lượng.

Nhiều người mơ ước về một lộ trình dân chủ cho Việt Nam như Myanmar. Ðiều này quá lãng mạn và siêu thực. Nếu hàng ngàn nhà sư, thanh thiếu niên, sinh viên đại học không bị dìm trong biển máu trong các cuộc biểu tình năm 1988 thì đã không có sự xuất hiện của bà Aung San Suu Kyi và đảng Dân Chủ của bà.

Các nước ở Bắc Phi như Tunisia, Ai Cập, Libya, các cuộc biểu tình quy tụ hàng chục ngàn, hàng trăm ngàn người, có lúc cả triệu người, đã bị đàn áp dã man, nhiều người bị chết, hàng ngàn người bị thương.

Giới trí thức trong nước, những người gánh trách nhiệm tiên phong trong thay đổi xã hội, đã không tạo ra được nền tảng chủ chốt. Mới chỉ có những người bất đồng chính kiến đơn lẻ, thiếu vắng sự nối kết có tổ chức, để rồi từng người kết thúc sự dấn thân của mình trong nhà tù với những bản án nặng nề.

Nếu như trí thức trong nước biết kết hợp với các nhân tố tích cực từ các tầng lớp xã hội khác như công nhân, nông dân, sinh viên đại học, giáo dân, v.v... tuyên bố phát động một phong trào, đúng nghĩa, với mục tiêu tranh đấu cho dân chủ, tự do và bảo vệ chủ quyền dân tộc, tựa như mô hình phong trào “Ðoàn Kết” ở Ba Lan, “Hiến chương 77” tại Tiệp Khắc (cũ), “Otpor” của Nam Tư (cũ) hay “Mồng 6 Tháng Tư” ở Ai Cập... thì kết quả sẽ khác. Tuy nhiên, họ đã không làm được như thế, đa số họ là đảng viên, vẫn chưa thoát ra khỏi cảnh kiến nghị, mong con sói đừng ăn thịt, vẫn là “đối lập trung thành” của đảng, mong muốn đảng thay đổi và tiến bộ hơn là đấu tranh trực diện với đảng và chế độ.

Những cuộc tập hợp, chủ yếu của dân oan trong nước, lên tới hàng triệu lượt, thậm chí là những cuộc biểu tình chống Trung Cộng xâm lược, thường là những cuộc tranh đấu tự phát, nửa vời, với tinh thần xin-cho, chưa cuốn hút đông đảo quần chúng, vẫn tin vào sự giải quyết của cấp trên, ít khi mang tính phản kháng, chống lại đảng và chế độ vốn là nguyên nhân chính.

Một cuộc cách mạng lại ít tổn thất nhất, tối ưu hiện nay cho Việt Nam, chỉ có thể là cuộc cách mạng đường phố song song với một cuộc cách mạng nổ ra ngay từ trong lòng chế độ.

Ðiều kiện tiên quyết cần và đủ cho sự xuất hiện một “Jeltsin Việt Nam” là một cao trào xuống đường làm rung động ý thức xã hội, đủ thuyết phục để những người lính tuân theo lệnh vị chỉ huy rằng, họ cầm súng là đứng về phía nhân dân, nhắm vào những kẻ phản bội.

Nhưng điều này có vẻ ảo tưởng. Chưa có một phong trào xã hội, thì kinh tế, dẫu suy thoái, nhưng sẽ không tới mức dân chúng ào ạt xuống đường, cùng lắm cũng giới hạn ở kêu ca, oán trách.

Nhà cầm quyền sẽ đàn áp biểu tình thô bạo, nếu có, và sẽ dứt điểm từng vụ việc trong từng địa phương, không để lan tỏa.

Tuy nhiên, bối cảnh này có thể thúc đẩy sự thay đổi do có sức ép. ÐCSVN từ kịch bản một, sẽ thay đổi tiệm tiến theo kịch bản hai. Sẽ hình thành đa đảng nhưng ÐCSVN vẫn là đảng chi phối các hoạt động xã hội. Ðược tồn tại lực lượng đối lập, một số sinh hoạt dân chủ được nới lỏng như biểu tình, báo chí tư nhân, nhưng mang tính hình thức. Mô hình Việt Nam sẽ tựa như của nước Nga dưới thời Putin, nhưng nguy hiểm hơn vì lệ thuộc vào Trung Cộng. Các phe nhóm “đại gia” sẽ lũng đoạn chính trị và nắm các ngành kinh tế quốc dân chủ lực. Và như vậy, kịch bản này nếu xảy ra thì có lẽ sau khoảng một thập niên nữa.

Ðây là một bất hạnh cho dân tộc, từ chế độ toàn trị Cộng Sản, chuyển sang chế độ độc đoán, chuyên quyền. Nhưng tình hình này không duy trì lâu dài, do tính cạnh tranh vì đố kị của người Việt, các lực lượng đối lập sẽ lớn mạnh trong vòng một hai thập niên và lộ trình dân chủ sẽ có cơ hội tiến triển.

Kịch bản hai cũng phù hợp với chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ với Việt Nam. Việt Nam phụ thuộc Trung Cộng, nhưng không phải hoàn toàn. Việt Nam vẫn đánh đu với Hoa Kỳ, chủ yếu vì quyền lợi kinh tế, nhưng dựa Mỹ để không bị Trung Cộng hiếp đáp quá đáng. Hoa Kỳ, một mặt không thể bỏ Việt Nam, con bài chiến lược lâu dài về địa chính trị, quân cờ cơ bản trong cuộc chơi với Trung Cộng, nhưng mặt khác, chơi cầm chừng, có khoảng cách, không để Việt Nam suy sụp, ngả hẳn vào lòng Trung Cộng. Các đòi hỏi về nhân quyền được nói tới với mức độ vừa phải, trong khi vẫn hỗ trợ về kinh tế.

Hoa Kỳ theo đuổi chính sách chấp nhận sự thay đổi nội bộ của ÐCSVN, hơn là một cuộc cách mạng mang tính lật đổ.

Trong một tình huống khác, có thể đột biến nếu tình hình tại Trung Cộng thay đổi, nhưng thập niên tới với Tập Cận Bình không cho thấy một bức tranh khả dĩ nào về dân chủ của Trung Cộng.



No comments:

Post a Comment

View My Stats