Hiến pháp là gì ?
Cao Huy Thuần - Giáo sư đại học (Pháp)
Cao Huy Thuần - Giáo sư đại học (Pháp)
09:09-06/03/2013
http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=116&CategoryID=42&News=6171
http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=116&CategoryID=42&News=6171
Trước hết, tôi xin bày tỏ tình cảm đặc biệt
của tôi đối với các trí thức, nhân sĩ, bạn bè đang bàn luận sôi nổi về hiến
pháp ở trong nước và ngoài nước. Trong tình cảm liên đới đó, và ý thức rằng đây
là vấn đề có liên quan đến sự tồn vong của đất nước, tôi xin có đôi lời góp ý
vào quan tâm chung, với tư cách của một người làm nghề dạy học, không biết gì
nhiều hơn là chút kiến thức trường ốc phổ thông. Tôi cố tránh mọi lý thuyết
rườm rà, duy nhất hạn chế vào một câu hỏi thôi, câu hỏi đầu tiên của mọi câu hỏi
khác: hiến pháp là gì?
Tôi biết: trong thế giới ngày nay, hầu như
nước nào cũng có hiến pháp, càng độc tài hiến pháp của họ lại càng hay, càng
đầy mơ ước, càng đậm triết lý, càng rộng mở ra nhiều lĩnh vực "hiện
đại" - xã hội, môi trường, sinh thái... Chính vì vậy mà tôi phải lấy lập
trường trước khi đi vào đề: tôi đứng ở đâu mà nói chuyện, đứng trong thế giới
văn minh hay lạc hậu hằng mấy thế kỷ? Chẳng lẽ tôi đi ngược lại khẩu hiệu của
nước ta là một nước "văn minh"? Bởi vậy, tôi quyết định đứng trong
thế đứng của một người dân trong một nước văn minh để gạt ra khỏi đề tài mọi
chuyện hoa lá cành chẳng có liên quan gì đến việc định nghĩa hiến pháp trong
bước đi đầu tiên của lịch sử đã hình thành ra khái niệm văn minh này. Từ đó,
mỗi nước có thể hiểu theo cách hiểu của họ về hiến pháp, tùy hoàn cảnh lịch sử
riêng biệt. Nhưng đã gọi là "hiến pháp" thì đương nhiên không thể
không biết nguồn gốc của nó, ý nghĩa nguyên thủy của nó, tinh túy của nó. Nhân
loại học văn minh của nhau là chuyện bình thường của mọi xã hội văn minh.
Vậy thì, ý nghĩa nguyên thủy của hiến pháp là gì? Ai cũng
biết câu trả lời: nguồn gốc của nó nằm trong hai Cách Mạng, của nước Pháp và
nước Mỹ.
Trước hết là nước Pháp. Thật ra, danh từ
"constitution" - mà ta dịch là hiến pháp - đã có từ lâu, ngay
dưới thời Trung cổ, nhưng không mang ý nghĩa như sẽ có về sau. Cho đến Cách
Mạng 1789, nước Pháp sống dưới chế độ quân chủ, với ông vua có toàn quyền,
nhưng ngay từ trong lý thuyết, quyền của ông gặp phải một hạn chế: ông phải
tuân theo những "luật căn bản của vương quốc". Các luật này rất hiếm,
và hồi đó chưa có phương thức gì cụ thể để buộc ông phải tuân theo, nhưng trên
thực tế, chế độ quân chủ ở Pháp không đến nỗi "tuyệt đối" như ta
nghĩ, và ngay cả ông vua đã từng tuyên bố "Quốc Gia là Trẫm" - Louis
14 - so với các nhà độc tài ngày nay hãy còn nhẹ ký lắm. Ngoài những "luật
căn bản của vương quốc" mà quan trọng nhất là sự thỏa thuận của dân chúng
về thuế má, quyền hành "tuyệt đối" của ông vua còn gặp phải một vài
giới hạn khác do sự hiện diện của một vài định chế phong kiến nằm trung gian
giữa vua và dân: các hội đoàn, đoàn thể nghề nghiệp, các thành phố... mà tập
tục cổ truyền đã trao cho những đặc quyền, và những đặc quyền ấy được sử dụng
một cách bền bỉ, dai dẳng, đối kháng với quyền của vua. Hơn nữa, các Tòa Án
cũng có một quyền đặc biệt, từ đó mà dần dần phát triển lên thành quyền chính
trị: đó là quyền đăng bạ những sắc dụ của ông vua; sắc dụ chiếu chỉ chỉ được
thi hành sau khi được đăng bạ. Các ông Tòa không do vua bổ nhiệm nên vua không
áp đảo được họ; cái chức vị ấy là họ mua. Đồng tiền ban chức tước, nhưng đồng
tiền cũng ban độc lập mà họ cực lực bảo vệ để trở thành một quyền thực sự. Cuối
cùng, tập tục buộc ông vua phải được sự thỏa thuận của một cơ quan thực sự đại
diện của dân, một Đại Hội đại biểu tập hợp ba giai tầng xã hội: tăng lữ, quý
tộc, bình dân. Dù cho Đại Hội này không được triệu tập từ 1614 đến 1789, trên
lý thuyết, sự thỏa thuận vẫn là nguyên tắc mà quân quyền không chối bỏ.
Vậy thì, trong thời gian tiền Cách Mạng,
nước Pháp ở trong cái thế tranh chấp dai dẳng, tuy chẳng quân bình, giữa ông
vua và các cơ quan đối trọng mà quan trọng nhất là các Tòa Án. Ông vua xác
quyết chủ quyền tuyệt đối của mình; các nhà luật học tiến bộ nhấn mạnh trên sự
thỏa thuận để cai trị. Họ nói: thỏa thuận có nghĩa là ông vua không được đứng
trên luật pháp, và do đó quyền của ông vua không phải tuyệt đối mà là có giới
hạn. Nói một cách khác, nước Pháp ở trong cái thế tranh chấp giữa chủ thuyết
quyền tuyệt đối của vua và chủ thuyết hiến pháp, hiến định. Trong tranh chấp lý
thuyết đó, bên nào cũng viện dẫn "hiến pháp quân chủ", nhưng một bên
nhấn mạnh quân chủ, một bên nhấn mạnh hiến pháp, chính sự dằng co giữa hai
quyền lực, của vua và của Tòa Án, diễn tả bản chất của hiến pháp lúc đó. Ngã
hẳn về phía vua chăng? Vua sẽ thành chuyên chế. Ngã hẳn về phía các Tòa Án
chăng? Ông vua sẽ không hơn gì vua nước Anh, có tiếng mà không có miếng. Trên
thực tế, mặc dầu cố gắng của các nhà luật học, nước Pháp đã không đi vào được
con đường hạn chế quyền lực thực sự như ở Anh hồi thế kỷ 17. Các Tòa Án, cũng
như Đại Hội đại biểu ba thành phần, không đủ sức để vượt qua quyền của vua.
Nhưng đặc tính dằng co vẫn được duy trì kể cả trong lý thuyết, ngay cả về phía
các lý thuyết gia chính thống của quân quyền. Jean Bodin, cực lực thuyết minh
chủ quyền của vua là thế, mà cũng không diễn dịch "hiến pháp quân
chủ" như là độc đoán, độc tài, cũng phân biệt "quân chủ vương
giả" khác với quân chủ "bạo ngược", cũng nói rõ "quyền lực
tuyệt đối" không phải là "quyền lực tùy tiện".
Chính trong bối cảnh chính trị của một nước
Pháp quân chủ, hạn chế trên thực tế nhưng vẫn tuyệt đối trên lý thuyết, mà tác
phẩm "Tinh yếu của luật pháp" ("Esprit des lois") của
Montesquieu ra đời, đánh dấu một bước ngoặt quyết định trong lịch sử của khái
niệm hiến pháp. Từ đây, từ năm 1748, danh từ "hiến pháp" mới thực sự
có ý nghĩa hiện đại. Điểm đầu tiên phải lưu ý là Montesquieu xây dựng một lý thuyết
tự do trong một không khí quyền lực tuyệt đối. Tự do là bà mẹ trong tác phẩm.
Nhưng, như ông nói, tác phẩm không được sinh ra từ một bà mẹ tự do. Đó chính là
điểm đặc sắc tuyệt cú của Montesquieu. Với Montesquieu, khái niệm "hiến
pháp" gắn liền với ý tưởng tự do và phân quyền mà ông suy ra và sáng tạo
thêm từ chế độ chính trị của nước Anh. Chương 11 của tác phẩm ghi rõ trong tiêu
đề: "Về những luật tạo nên tự do trong mối tương quan giữa tự do và hiến
pháp". Tương quan gì? Chỉ có tự do khi hiến pháp hạn chế quyền lực. Không
ai không biết câu viết này, sáng chói như chân lý, ngọn hải đăng của thế kỷ 18:
"Kinh nghiệm muôn thuở cho biết bất cứ ai có quyền lực đều có khuynh hướng
lạm dụng quyền lực; lạm dụng cho đến mức gặp phải giới hạn". Vậy vấn đề là
phải đặt ra giới hạn. Phân quyền nhắm mục đích ấy, bởi vì, lại một chân lý nữa,
"quyền lực ngăn chận quyền lực" để quyền lực không nằm trọn trong một
nắm tay.
Vậy, với Montesquieu, hiến pháp mang một ý
nghĩa chính trị: hiến pháp tổ chức nhiều quyền lực trong nhà nước và tương quan
giữa các quyền lực đó với nhau để quyền lực, một hiện tượng đáng sợ, trở thành
ôn hòa. Một chính thể ôn hòa là một chính thể tốt nhất, như Aristote đã quan
niệm từ thời cổ đại Hy Lạp.
Tác phẩm của Montesquieu làm dấy lên cả một
trào lưu trí thức nâng danh từ "hiến pháp", từ chỗ chưa có ý nghĩa rõ
ràng, lên địa vị vinh quang của khái niệm, đề tài của mọi tranh luận, mục tiêu
của mọi tranh đấu nhắm hạn chế quyền hành. Sau 1750, các Tòa Án ở Pháp tận dụng
quyền phản biện (droit de remontrances) sẵn có để bày tỏ ý kiến về các sắc dụ
chiếu chỉ của vua và để bảo vệ những quyền căn bản mà họ không còn xem như của
vương quốc nữa mà là của cả dân tộc và chính họ là cơ quan nắm giữ. Trong một
phản biện của Tòa Án Rennes năm 1757, quyền của vua và quyền của các Tòa Án
được diễn tả trong ý nghĩa mới đó của "hiến pháp": "Do một quyền
thiêng liêng có sẵn nơi địa vị của Hoàng Thượng, bất khả truyền, bất khả trao
cho ai khác, Hoàng Thượng là nguồn gốc của mọi pháp chế. Nhưng do một hiến pháp
căn bản của nền quân chủ, Tòa Án của Hoàng Thượng là hội đồng cần thiết để luật
được kiểm tra, là cơ quan để luật được ban hành, là người bảo đảm cho sự minh
triết của luật, là nơi đăng bạ để duy trì và thi hành luật, bởi vì từ xưa đến
nay Tòa Án là người cộng sự thiết yếu của Hoàng Thượng, nhờ đó việc cai trị
được văn minh và gìn giữ".
Cùng với quan niệm mới về hiến pháp của
Montesquieu, các Tòa Án nới rộng phạm vi của những "luật căn bản" và
định nghĩa như là "những luật liên quan đến việc tổ chức các quyền trong chế
độ quân chủ". Một tác giả quý tộc - marquis d'Argenson - dám so sánh ví
von thế này: "Dân tộc ở trên các ông vua như Nhà Thờ công giáo ở trên giáo
hoàng". "Luật căn bản", "hiến pháp", "quyền của
Dân Tộc", các yếu tố đó trộn lẫn với nhau trong một luận thuyết nhằm chống
lại luận thuyết quyền lực tập trung của vua. Từ "hiến pháp" càng ngày
càng được dùng trong tranh luận, với ý nghĩa chính trị như đã nói ở trên,
"như là một dụng cụ có khả năng giới hạn vương quyền để bảo vệ một trật tự
siêu việt vương quyền".Tòa Án có mặt từ lâu trong lịch sử nhưng bây giờ
mới cố gắng nâng mình lên trong thử thách để hiện diện như là đối trọng của
vương quyền. Ý niệm đối trọng dần dần đi vào ý nghĩa của hiến pháp.
Tuy vậy, tất cả những tranh luận lý thuyết
và thử thách thực tế trên đây vẫn không làm lung lay được một vương quyền cứng
rắn. Khái niệm hiến pháp thay đổi, nhưng vẫn mang ý nghĩa chính trị, chưa được
diễn dịch cụ thể ra thành ngôn ngữ luật pháp có khả năng tạo nền móng cho những
quyết định pháp lý. Khác với nước Anh mà tập tục chính trị dần dần được thay
đổi để chế độ quân chủ đổi mới trong ôn hòa, ở Pháp, cánh cửa không mở ra được
vì vương quyền khóa chốt. Các Tòa Án nại quyền của Dân Tộc? Ông vua trả lời Ta
đây, và chỉ Ta đây mới có quyền bảo vệ những "luật của lịch sử". Một
bên là hiến pháp trong nghĩa tự do của Montesquieu, một bên là những "luật
căn bản của vương quyền" diễn dịch theo điệp khúc cũ. Để ý nghĩa chính trị
của hiến pháp có được nội dung pháp lý hữu hiệu, phải đợi 1789. Thế thôi, có ai
bao giờ đoán trước được Cách Mạng sẽ đến đâu? Ai đoán trước được ông vua toàn
quyền thế kia - Louis 16 - có ngày mất tiêu cái chỗ đội mũ - đội vương miện?
Với Cách Mạng 1789, một lý thuyết gia lừng
lẫy khác, Sieyès, giải quyết tranh chấp giữa "hiến pháp" và
"những luật căn bản của vương quyền" một cách trọn vẹn và cách mạng.
Ông giải quyết bằng cách từ bỏ luận cứ quyền lịch sử để lập luận trên quyền
thiên nhiên. Từ đây, tranh luận lý thuyết không còn xoay quanh giữa quyền
"tuyệt đối" và quyền "tùy tiện" nữa, mà tập trung trên
"chính thể hiến pháp" và "quyền bính chuyên chế": một bên
có giới hạn do hiến pháp định, một bên vô giới hạn. Từ đây, hiến pháp có thêm
một nội dung luật pháp để cụ thể hóa ý nghĩa chính trị. Biến chuyển này xảy ra
được một phần lớn là nhờ ảnh hưởng của Cách Mạng Mỹ. Mười ba thuộc địa của Anh
ở châu Mỹ nổi dậy giành độc lập, xây dựng một chế độ chính trị riêng, ghi nhận
long trọng trong một văn bản được chấp thuận năm 1787 ở Đại Hội đại biểu
Philadelphia. Đứng về phương diện khái niệm hiến pháp mà nói, họ nổi dậy chống
lại cái gì cụ thể? Chống lại một số luật bất công, nhất là luật thuế má, của
Quốc Hội Anh mà họ cho là trái với các hiến chương thuộc địa. Để chống lại các
luật đó, họ nảy ra cái tư tưởng này: có các quyền không thể sửa đổi được, các quyền
đó phải được ghi rõ trong một thứ luật khác cao hơn, tức là hiến pháp thành
văn, có hiệu lực pháp lý, nghĩa là bắt buộc. Đừng quên rằng trong thời gian ấy,
mẫu quốc của họ là nước Anh, và nước Anh chỉ có một thứ luật thôi là luật do
Quốc Hội làm ra, không có hiến pháp thành văn. Làm luật được thì sửa đổi luật
cũng được. Bởi vậy, cái ý nghĩ phải có một thứ luật cao hơn mọi luật khác, được
ghi chép hẳn hoi thành văn bản, là ý nghĩ cách mạng, đưa khái niệm hiến pháp
vào thời đại mới. Ý nghĩ đó bay ngược qua Đại Tây Dương, hạ cánh xuống Cách
Mạng Pháp, giải quyết rốt ráo tranh chấp giữa "hiến pháp" và
"những luật căn bản của lịch sử". Cả hai khái niệm được trộn lẫn với
nhau thành một trong một văn bản, được soạn thảo và chấp nhận một cách đặc
biệt, văn bản ấy luật hóa một khái niệm trước đây còn mang tính chính trị.
Ngày nay, ta khó thấy ý nghĩ đó là tuyệt
tác vì đã quá quen với cái từ "hiến pháp". Lúc đó, từ "hiến
pháp" hãy còn lẫn lộn với từ "chính phủ", "chính
quyền", hai bên không khác nhau cho đến trước ngày Cách Mạng Mỹ. Một nhân
vật quý tộc Pháp, trong một thư viết cho vua, đã thốt ra một câu tiêu biểu:
"Làm sao người ta có thể đồng thời vừa là bạn của chính quyền vừa là kẻ
thù của hiến pháp được?" Từ đây, gió lốc cách mạng thổi bay từ
"gouvernement" ra khỏi từ "constitution". Yêu vợ không phải
là yêu bồ. Hai vợ không phải đều là vợ cả. Thomas Payne, lý thuyết gia nổi bật
của Cách Mạng Mỹ, nói rõ: "Hiến pháp là một văn bản không phải của chính
quyền mà là của dân chúng tạo ra một chính quyền, và một chính quyền không có
hiến pháp là một chính quyền không có luật". Ông nhắc lại lần nữa:
"Một hiến pháp là một điều có trước chính quyền, và một chính quyền chỉ là
con đẻ của một hiến pháp. Hiến pháp của một nước không phải là văn bản của một
chính quyền mà là của dân chúng tạo ra một chính quyền".
Giữa hai bờ Đại Tây Dương, khái niệm hiện
đại về hiến pháp thành hình nhờ ảnh hưởng qua lại giữa Montesquieu và Cách Mạng
Mỹ. Montesquieu ngại quyền lực. Các thuộc địa ở Mỹ, ngay từ hồi nổi dậy, cũng
đã nhìn quyền lực như thế qua ông vua George III, tuy rằng hồi đó vua đã bắt đầu
mất thực quyền trong chế độ chính trị nước Anh. Cũng từ Montesquieu, lý thuyết
phân quyền được thực hiện tại Mỹ, và áp dụng chặt chẽ hơn cả ở châu Âu vì Quốc
Hội không thể buộc Tổng Thống từ chức, Tổng Thống không thể giải tán Quốc Hội.
Ngược lại, từ Mỹ, việc luật hóa lý thuyết chủ quyền thuộc về toàn dân ảnh hưởng
trên tư tưởng của Sieyès. Chủ quyền đã thuộc về dân thì việc làm ra hiến pháp
không phải là việc của một cơ quan nào mà là việc của toàn dân: từ đó lý thuyết
về một "quyền lập hiến" được chế ra thành luật. Sieyès tóm tắt:
"Hiến pháp bao gồm đồng thời: việc thành lập và tổ chức nội bộ các quyền
lực khác nhau của nhà nước, mối tương quan tất yếu và sự độc lập giữa các quyền
lực đó, và cuối cùng, những cảnh giác chính trị phải cẩn thận xây dựng chung
quanh, để các quyền lực đó lúc nào cũng có ích lợi nhưng không bao giờ trở
thành nguy hiểm. Đó là ý nghĩa chính xác của danh từ hiến pháp; ý nghĩa đó liên
quan đến toàn thể quyền lực của nhà nước và sự phân chia những quyền lực
đó".
Từ đầu, ý tưởng của Montesquieu đã liên hệ
rõ ràng khái niệm hiến pháp với khái niệm quyền lực hạn chế để chống lại quyền
hành tuyệt đối, nghĩa là vô giới hạn và tùy tiện. Đến đây, việc phân quyền được
xây dựng thành những nguyên tắc thành văn, tối thượng, mà mục đích là thiết lập
những giới hạn minh bạch, ai cũng biết, về quyền lực của người cầm quyền.
"Nếu quyền lực không có giới hạn, quyền lực tất yếu trở thành tùy tiện, và
không có gì trực tiếp đối chọi với một hiến pháp bằng bạo quyền", Mounier
đã phát biểu như thế trong diễn văn đọc ngày 7-7-1789 trước Hội Đồng Lập Hiến.
Ông là đại biểu lừng danh của giai cấp bình dân. Tư tưởng đó được viết chắc
nịch như đinh đóng cột trong điều 16 của Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền:
"Bất cứ xã hội nào trong đó các quyền không được bảo đảm và sự phân
quyền không được tôn trọng, xã hội đó không có hiến pháp".
Tác giả bài này muốn nói gì khi nhắc lại
những kiến thức phổ thông trên đây? Duy nhất điều này thôi: lịch sử của khái
niệm hiến pháp bắt đầu từ một khao khát: tự do; khao khát đó sẽ không bao giờ
thực hiện được trước một quyền lực tuyệt đối; để quyền lực không phải là bạo
lực, phải phân quyền; để sự phân quyền được rõ ràng, minh bạch, phải ghi thành
luật, luật đó là tối thượng, là mẹ của mọi thứ luật khác. Nghĩa là: để định
nghĩa hiến pháp là gì, đừng quên rằng bắt đầu quá trình là một ý tưởng chính
trị và kết thúc là một văn bản luật pháp, từ đó mà quyết định cái gì là hợp
pháp, cái gì là bất hợp pháp trong mọi hành động lập pháp và lập quy của các cơ
quan nhà nước. Chỉ một ý đó thôi mà tác giả đã lặp đi lặp lại bao nhiêu lần:
Hiến pháp là một ý tưởng chính trị được luật hóa vào một giai đoạn quan trọng
nào đó của lịch sử để một trật tự chính trị trở thành chính đáng. Điều này bao
gồm hai ý nghĩa: thứ nhất, trật tự chính trị nào cũng mượn danh nghĩa luật để
trở thành một trật tự pháp lý; nhưng thứ hai, không luật pháp nào ban tính
chính đáng cho một trật tự chính trị nếu luật đó không xuất phát từ nguyện vọng
đích thực của nhân dân.
°°°
Hơn một thế kỷ rưỡi sau Cách Mạng, nước Pháp có ông tổng thống De Gaulle làm một hiến pháp mới - hiến pháp hiện tại - để chấm dứt một trật tự chính trị cũ, lập một trật tự chính trị mới, mở đầu Đệ Ngũ Cộng Hòa. Trong một cuộc họp báo quan trọng ngày 31-1-1964, ông định nghĩa hiến pháp trong một câu nổi tiếng: "Hiến pháp là một tinh thần, những định chế, một thực tiễn". Quá đúng. Và bộc lộ ra được những gì tôi vừa trình bày ở trên.
Một thực
tiễn? Tất nhiên, vì hiến pháp phải được áp dụng để trở thành luật nói, nếu không thì là luật câm.
Những định chế? Hiển nhiên, khỏi cần
nói. Tôi chú trọng mấy chữ đầu: "một tinh thần". Vậy tinh thần này là
gì trong bối cảnh lịch sử đã làm hình thành hiến pháp ở Pháp và ở Mỹ? Tự do! Tinh thần này quyết định tất cả.
Quyết định việc thành lập các định chế. Quyết định thực tiễn của pháp luật, cả
luật mẹ lẫn luật con. Bất cứ hiến pháp nào trên thế giới đều có thể được đặt
dưới một câu hỏi: "hiến pháp này
được làm ra để thể hiện cái tinh thần gì vậy?" Dân chúng chỉ cần biết
cái tinh thần ấy một cách tỏ tường và chân thật là đã có thể phát biểu ngay đó
là hiến pháp của mình hay của ai.
Vậy thì dân chúng Việt Nam chờ đợi cái tinh
thần gì được luật hóa trong hiến pháp? Một tinh thần phù hợp với giai đoạn hòa
bình của đất nước, sau nhiều năm chiến tranh đòi hỏi con người phải hy sinh
nhiều thứ, kể cả thứ quý nhất trong đời là tự do. Chiến tranh là tình trạng bất
thường, hòa bình là chấm dứt tình trạng bất thường, là phải trả lại cho con
người cái khao khát bức thiết nhất của con người ở muôn thuở và muôn nơi, là
phải trả lại cho con người Việt Nam cái giá đã mua bằng máu, là phải thực hiện
lời cam kết chói lọi trong Tuyên ngôn độc lập vinh quang: ai cũng biết, đó là
"quyền tự do". "Không có gì quý hơn độc lập, tự do": đó là
tinh thần mà người dân chờ đợi luật hóa trong hiến pháp, một hiến pháp hoàn
toàn mới, phù hợp với giai đoạn mới, giai đoạn hòa bình.
Tinh thần là như vậy, định chế sẽ thế nào?
Tất cả những gì tôi nói trong bài này có thể tóm gọn trong hai chữ: ôn hòa. Quyền lực phải biết ôn hòa.
Chính thể ôn hòa là chính thể tốt nhất. Đó là văn minh mà Âu châu thừa hưởng từ
tư tưởng của Hy Lạp cổ đại. Montesquieu cũng chỉ là tiếp nối tư tưởng Aristote.
Nhưng đó cũng chính là văn minh của Việt Nam, của tư tưởng Việt Nam, không hề
độc đoán.
Đảng Cộng sản đã nhiều lần nêu vấn đề định
nghĩa lại lãnh đạo. Đúng vậy, nhưng thế này thì hợp với mong mỏi hơn: định
nghĩa lại lãnh đạo là thế nào để phù hợp với thời bình, thế nào để thực hiện
lời cam kết "quyền tự do". Đó là cứu cánh của chính trị. Đó là cứu
cánh của quyền lực. Một quyền lực ôn hòa trong thời bình, khác với thời chiến
tranh, khác với thời tranh đấu bí mật trước mùa Thu tháng Tám. Đó là tinh thần
mới phải có trong hoàn cảnh mới của đất nước, cần thực sự đoàn kết toàn dân.
Tinh thần đó sẽ quyết định tất cả mọi điều khác trong hiến pháp. Tinh thần đó,
người dân khao khát chờ đợi từ lâu để được là tác giả của hiến pháp mới.
*
*
Dưới ảnh hưởng đó của tư tưởng luật hóa
hiến pháp đến từ Mỹ, từ ngữ "luật căn bản" của Pháp được ngôn ngữ
luật đưa lên địa vị tối thượng: hiến pháp là luật tối thượng, nghĩa là, rất cụ
thể, cao hơn tất cả các luật khác và làm vô hiệu tất cả luật nào trái lại. Đây
cũng là một sáng tạo tuyệt tác bắt nguồn từ một sự việc bình thường trước Tòa
Án Tối Cao của Mỹ. Ông Marburry, được bổ nhiệm thẩm phán nhưng chờ mãi đến đáo
hạn mà vẫn không nhận được giấy tờ bổ nhiệm. Ông kiện tổng thống Adams (mà
người đại diện là bộ trưởng Madison) đòi gửi công văn bổ nhiệm. Ông Tòa
Marshall xử rằng: kiện là đúng, nhưng đạo luật được viện dẫn ra để kiện là
không hợp với hiến pháp, là vi hiến. Chuyện bình thường ở Mỹ. Nhưng là chuyện
động trời trong lịch sử hiến pháp của Pháp vì Tòa Án dám xía vào lĩnh vực lập
pháp để phán đúng hay sai. Cần nhấn mạnh vụ kiện danh tiếng Marburry chống
Madison này ở đây để hiểu quá trình luật hóa hiến pháp và sức mạnh của tinh
thần trọng pháp. Mười ba thuộc địa ở Mỹ phải nổi dậy để đòi truất bỏ những luật
bất công. Khổng Mạnh ở ta ngày xưa cũng lao xao với sĩ tử rằng nước có thể lật
thuyền... Suy diễn bài học từ ông Tòa Marshall, luật pháp có chức năng và khả
năng giải quyết tranh chấp chính trị một cách hòa bình, khỏi cần gươm dáo, mà
cũng khỏi phải lội nước lật thuyền.
Chú thích:
Một số câu trích dẫn đặt trong ngoặc kép là
lấy từ: Olivier Beaud, L'Histoire du concept de constitution en France. De la
constitution politique à la constitution comme statut juridique de l'Etat, Jus
politicum, Vol. 2, Juin 2010. Có thể đọc trên mạng:
--------------------------------------
Trần Đức Tuấn 1-3-2013
TS Nguyễn Sỹ Phương, CHLB
Đức 8-2-2013
No comments:
Post a Comment