Tuesday 12 March 2013

BỐN DẤU HIỆU CHO THẤY CHÍNH PHỦ VIỆT NAM ĐANG ĐÀN ÁP CUỘC ‘CÁCH MẠNG TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI’ (Dana Wagner - Defend the Defenders)




DANA WAGNER – chuyên viên tư vấn chính sách di dân tại Hà Nội.

Bản dịch của Lê Anh Hùng (Defend the Defenders)
Posted on


Đảng CS đã phản ứng trước sự phát triển của cộng đồng blog chống nhà nước bằng một chiến dịch đàn áp đáng lo ngại.


Ngày 11/3/2013  -  Sau hơn 1 năm tạm giam, 5 blogger độc lập cùng các nhà hoạt động khác xuất hiện trong một phiên toà kéo dài 2 ngày ở Việt Nam để nghe toà đọc phán quyết là họ phải chịu án tù thêm 13 năm nữa. Họ gia nhập số blogger bị tống giam đang không ngừng gia tăng vì “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”, “phá hoại sự thống nhất quốc gia” và “tuyên truyền chống phá nhà nước CHXHCN Việt Nam.”

Giới blogger Việt Nam đã nếm trải tự do internet trong suốt thập niên qua khi khả năng truy cập trực tuyến tăng lên, song truyền thông xã hội lại không phải là kẻ thay đổi cuộc chơi trong một đất nước đầy nghi kỵ. Với một sự pha trộn giữa trạng thái bất an và sức mạnh, Đảng CS đang bịt miệng bất đồng chính kiến ở Việt Nam bằng một chiến lược bao gồm việc thúc đẩy biện pháp “tự kiểm duyệt”, bôi nhọ vị thế ngày càng tăng của các nhà bất đồng chính kiến bị giam cầm, triển khai các dư luận viên ẩn danh ủng hộ Đảng và thực hiện các cuộc thanh trừng lấy le giữa lúc nền kinh tế đang đình đốn.

Khi mà án tù có thể được ban ra từ một ý thích ngẫu hứng thì chỉ những ai với sức mạnh và sự liều lĩnh hiếm có mới dám công khai chỉ trích nhà nước.

Ở đất nước Việt Nam độc đảng, tốc độ và độ rộng kết nối Internet thật đáng kinh ngạc. Số người sử dụng Internet ở đây đứng thứ 18 trên thế giới và Việt Nam là quốc gia có số người dùng Facebook tăng nhanh nhất trên thế giới, theo số liệu của nhà nghiên cứu thị trường We Are Social.

Mức độ thâm nhập chung của Internet là khoảng 34% trong tổng số 90 triệu dân Việt Nam. Mặc dù con số trung bình ở khu vực Đông Nam Á gần với mốc 40% hơn, song tốc độ thay đổi ở Việt Nam lại gây ấn tượng. Số người sử dụng Internet năm 2011 tăng hơn 20% so với năm 2010, và mới đây chính phủ đã loan báo một kế hoạch băng rộng hướng đến mục tiêu bao phủ 85% dân số vào năm 2015. Tốc độ tăng trưởng của Việt Nam về công nghệ thông tin và truyền thông (ICTs), như mô tả trong chỉ số phát triển công nghệ thông tin và truyền thông (ICT Development Index), nằm trong số cao nhất trên thế giới. Trong một báo cáo quốc gia, Liên minh Viễn thông Quốc tế (International Telocommunications Union) cho biết sự phổ biến của điện thoại di động có khả năng truy cập internet chính là động lực tăng trưởng. Mức độ thâm nhập của băng thông rộng di động tăng từ gần 0% năm 2008 lên 13% thuê bao năm 2010.

Một hệ quả của sự phát triển Internet ở Việt Nam là sự lớn mạnh của cộng đồng blog. Theo một số liệu ước tính, số blog độc lập là 2 triệu, với một nhóm nhỏ, song khá đáng kể, hướng vào những chủ đề chính trị - xã hội nhạy cảm. Sự mới mẻ của việc dễ dàng tiếp cận với những quan điểm trái chiều trong một đất nước mà ở đó nhà nước kiểm soát toàn bộ các ấn phẩm đã biến hàng chục blogger độc lập thành những nhà chỉ trích nổi tiếng. Một số người ẩn danh, chẳng hạn như những người đóng góp bài viết cho trang Dân Làm Báo, một blog đạt tới 500.000 page view vào tháng 9/2012. Số khác lại nổi tiếng bởi bút danh của mình, chẳng hạn như Nguyễn Văn Hải, tức Điếu Cày, thành viên sáng lập của Câu lạc bộ Nhà báo Tự do mà nhà nước cấm hoạt động.

Các blogger “mắn tay” tìm kiếm độc giả bằng cách tường thuật những sự kiện và chủ đề mà các cơ quan kiểm duyệt nhà nước ngăn chặn. Điếu Cày, chẳng hạn, nổi tiếng nhờ tường thuật các cuộc phản đối tranh chấp ở Biển Đông. Cựu sỹ quan công an Tạ Phong Tần thì thu hút độc giả nhờ những bài tố cáo tham nhũng, đặc biệt là những bài chống lại công an. Những chủ đề nóng khác bao gồm dân chủ, thu hồi đất đai, nhân quyền và đình công trái phép. Một số blogger, có lẽ gây chú ý hơn, lại thể hiện quan điểm của mình trước hệ thống chính trị lỗi thời. Lê Văn Sơn từng tiên đoán về sự sụp đổ đang đến của chế độ, còn Lê Quốc Quân lại chỉ trích vai trò trung tâm của ĐCS trong nền chính trị Việt Nam.

Thật dễ chấp nhận suy nghĩ rằng Việt Nam đang mở cửa trước áp lực từ cái mà tạp chí Time gọi là “văn hoá phản đối” đang đạt đến độ chín. Tạp chí Economist thậm chí còn gợi ý rằng Đảng CSVN đang đứng trước nguy cơ đánh mất quyền lực đạo đức (moral authority) vốn là nền tảng quyền lực của nó và cảnh báo sự thất vọng của công chúng đang gia tăng, “dù chưa đến mức độ của một cuộc cách mạng”.

Sau khi các cuộc phản đối trong phong trào Mùa Xuân Ả Rập làm rung chuyển Trung Đông và Bắc Phi, những kịch bản thay đổi chóng mặt đã được dự báo cho Iran của cộng đồng Twitter, Trung Quốc của cộng đồng Weibo, và nước Nga của cộng đồng blog. Phong trào phản đối cuộc bầu cử 2009 ở Iran được gọi là cuộc Cách mạng Twitter. Đây là trật tự xã hội mới chăng? Christophe Deloire, thành viên của tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới (RWB), gọi đó là “kỷ nguyên khủng bố” với sự theo dõi rộng khắp của nhà nước và sự truy bức tàn nhẫn kể từ khi các cuộc phản đối bắt đầu nổ ra. Ở tất cả các quốc gia này, cũng như ở Việt Nam, các cuộc trấn áp người bất đồng chính kiến bằng cách sử dụng hình luật, cùng sự gia tăng kiểm duyệt và giám sát của nhà nước, là những hình thức kiểm soát khắc nghiệt trước một kịch bản ngộp thở về cách mạng.

Hà Nội đã thức tỉnh trước sự gia tăng các quan điểm trên không gian mạng trong nước, và phản ứng trước các nhà bất đồng chính kiến đang thể nghiệm là nhanh chóng và quá khắc nghiệt, thậm chí đối với Đảng CS. Dưới đây là bốn dấu hiệu cho thấy xung lực thuộc về ĐCS và cuộc trấn áp bất đồng chính kiến vẫn tiếp tục, tuy xấu xí nhưng lại hữu hiệu.


1. Đảng thay đổi luật lệ

Bất đồng chính kiến lâu nay vẫn bị coi là bất hợp pháp ở Việt Nam, nơi mà chính trị đa đảng cũng trái pháp luật. Rõ ràng, điều này lan sang cả các diễn đàn truyền thông thông tin. Tháng 9/2012, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phê chuẩn công văn số 7169, chỉ thị cho các quan chức không khoan nhượng với các blog bất hợp pháp mà người ta định nghĩa mù mờ. Trước đó, một văn bản khác vạch ra hình phạt cho nhà báo in và báo mạng nào không tuân thủ những đòi hỏi mơ hồ như “cung cấp tin tức trong nước và quốc tế một cách trung thực, phù hợp với lợi ích của đất nước và nhân dân”. Luật cũng cho phép quyền điều tra rộng khắp, tạo ra một lực lượng thanh tra mới của nhà nước. Quyền điều tra những “tuyên truyền viên” khả nghi không còn được giao cho Bộ Thông tin – Truyền thông nữa, mà cho tất cả các tầng nấc của hệ thống uỷ ban nhân dân và lực lượng công an, cùng các cơ quan khác.

Những luật lệ mới cho thấy nỗi ám ảnh ngày càng tăng trong giới lãnh đạo chóp bu của Đảng rằng blog là một phương tiện mới và mạnh mẽ để thể hiện bất đồng chính kiến. Nỗi lo sợ đó đặc biệt cho thấy rõ qua số vụ bắt giữ ngày càng tăng với cáo buộc “âm mưu lật đổ chính quyền”, như Bộ Ngoại giao Mỹ đã chỉ ra trong bản đánh giá tình hình nhân quyền năm 2011.

Tội tuyên truyền chống phá nhà nước có mức án phạt tối đa là 20 năm tù. Ngoài hình phạt khắc nghiệt, những quy định mơ hồ về những gì cấu thành nên một tội thậm chí còn đáng báo động hơn. Một phần trong phương thức của chính phủ là nhằm khiến cho các công dân phải luôn phỏng đoán: một chiến lược thông minh để thúc đẩy hình thức tự kiểm duyệt vốn đã được sử dụng hàng thập kỷ. Trong suốt cuộc thanh trừng tham nhũng cuối thập niên 1990, nhà quan sát Việt Nam Martin Gainsborough đã ghi nhận thái độ nghi hoặc của công chúng trước sự thất sủng dường như ngẫu nhiên, và quan niệm chung rằng những người vi phạm “chẳng làm điều gì khác với bất kỳ ai khác”.
Khi mà án tù có thể được ban ra từ một ý thích ngẫu hứng thì chỉ những ai với sức mạnh và sự liều lĩnh hiếm có mới dám công khai chỉ trích nhà nước.


2. Các phiên toà trình diễn chưa phản tác dụng

Khi các công dân của mình chuyển sang sử dụng internet, Việt Nam rơi vào nhóm 10 nước bị xếp hạng cuối bảng trong Chỉ số Tự do Báo chí Thế giới 2012 (2012 World Press Freedom Index). Việt Nam là một vệt đen xuyên Đông Nam Á trong chỉ số do tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới tổng hợp, đáng chú ý là do việc Đảng đàn áp những blogger cổ suý cho dân chủ.

Trong suốt năm qua Đảng CS, thông qua bộ máy tư pháp được kiểm soát chặt chẽ, đã tổ chức một loạt phiên toà trình diễn dành cho những người suy nghĩ chưa hợp thời. Trong những phòng xử án được so sánh với kỷ nguyên Soviet, bầu không khí thù nghịch được dành cho các blogger và phóng viên độc lập. Án tù chung thân có thể được đưa ra trong một vụ xét xử kéo dài 2 ngày, và các quan toà dễ dàng trao độc quyền kiểm soát bằng chứng cho nhà nước.

Chiến dịch trấn áp đang dành được xung lực lớn đến mức mà Việt Nam dường như đã cầm chắc vị trí đội sổ trong Chỉ số Tự do Báo chí 2013. Hai tháng vừa qua, 5 blogger độc lập đã bị kết án với các cáo buộc liên quan đến an ninh quốc gia, một người khác bị bắt đưa đến trại tâm thần và 22 nhà hoạt động bị tống giam vì tội lật đổ và bị kết án từ 10 năm đến chung thân. Những ngày cuối cùng của năm 2012, luật sư nhân quyền và blogger nổi tiếng Lê Quốc Quân bị bắt và bị truy tố về tội trốn thuế. Tháng 9/2012, ba blogger độc lập và là thành viên sáng lập Câu lạc bộ Nhà báo Tự do bị kết án 12, 10 và 4 năm tù, bất chấp một thực tế là sau khi các vụ bắt giữ diễn ra, cộng đồng quốc tế, kể cả chính phủ Mỹ, đã lên án nhà cầm quyền Việt Nam.

Theo Uỷ ban Bảo vệ Nhà báo (Committee to Protect Journalists), Việt Nam đang gia tăng số nhà báo bị bỏ tù trong vài năm qua; năm 2012, nó bị xếp hạng thấp thứ 6 do việc cầm tù báo chí. Uỷ ban này lưu ý rằng trong số nhà báo bị tù chỉ có một người không viết cho blog hay báo mạng.

Các vụ bắt giữ và phán quyết khắc nghiệt dành cho các nhà báo, kể các các công dân blogger, không phải là những sự kiện tách biệt mà chúng cho thấy sự thay đổi rõ ràng trong chiến lược của chính phủ. Đáng chú ý là sự thay đổi ấy lại diễn ra mà không kéo theo phản ứng của công chúng, điều mà người ta có thể chờ đợi.

Những sự kiện lớn đã xuất hiện, chẳng hạn như vụ tự thiêu của bà mẹ một nhà báo bị tù vào tháng 7/2012 và vụ các bạn học của một sinh viên bị tạm giam gửi thư phản đối tới chủ tịch nước. Cả hai sự kiện đều khiến công luận trên mạng chỉ trích chính phủ kịch liệt, nhưng rồi đều rơi vào sự im lặng đáng chú ý. Năm 2011, sau vụ bắt giữ Hoàng Khương, một nhà báo đã phơi bày nạn tham nhũng cò con trong lực lượng công an, công chúng ngay lập tức tỏ ra bức xúc nhưng rồi nỗi niềm cũng tan biến nhanh chóng như thế.

Tại sao những tia lửa này lại không tiếp tục cháy?

Dường như lường trước được sự đồng cảm của công chung và ý thức được quyền lực thiếu vững chắc của mình, chính phủ Việt nam đã bôi nhọ những người bị xét xử một cách có hệ thống. Một phương thức ở đây là sử dụng những cáo buộc lố bịch, chẳng hạn như những cáo buộc nhằm vào Nguyễn Phương Uyên, một sinh viên 20 tuổi lần đầu bị bắt với tội tuyền truyền chống phá nhà nước và hiện đang bị điều tra tội khủng bố. Theo các bạn học của cô, tội lỗi thực của cô là phân phát truyền đơn phản đối chính sách đối ngoại của Trung Quốc.

Phương thức thứ hai là tước đoạt tư cách của người dân. Sau khi bị bắt, Lê Quốc Quân được giới thiệu với độc giả Wall Street Journal như là “một trong những nhà bất đồng chính kiến nổi tiếng nhất ở Việt Nam”, tác giả của một blog nổi tiếng, luật sư nhân quyền và nhà tư vấn pháp lý, đồng thời là người từng được chính phủ Mỹ trao học bổng sau đại học tại Washington. Trên báo chí nhà nước, Lê Quốc Quân lại trở nên kém nổi bật với vai trò “giám đốc Cty Giải pháp Việt Nam”.


3. Đảng có thể giành được công luận

Một nhân tố lớn trong việc xoa dịu sự giận dữ của công luận là chiến lược truyền thông trực tuyến của Đảng.

Tình trạng ẩn danh trên mạng vừa là mối đe doạ vừa là cơ hội của các chế độ, bất kể đó là chế độ toàn trị hay dân chủ. Thử hỏi, chính đảng nào chưa giao nhiệm vụ cho những người ủng hộ theo dõi các bình luận chống đối trên các bài báo mạng và, trong tình trạng ẩn danh, công kích lại với đường lối của đảng? Nếu không bằng những chỉ thị trực tiếp thì những người ủng hộ cũng nhận được sự tán đồng không nói ra.

Việc sử dụng các dư luận viên của chính phủ đã giành được sự chú ý trong một cuộc hội thảo năm 2011 về truyền thông xã hội trong việc giải quyết xung đột do Viện Hoà bình (Institute of Peace) của Mỹ tổ chức. Các diễn giả trầm ngâm trước sự khó khăn ngày càng tăng khi phân biệt giữa một người ủng hộ đảng phái độc lập và một dư luận viên của chính phủ. Được trang bị bằng vũ khí nặc danh và từng bước nâng cao ngôn ngữ truyền thông xã hội (một hỗn hợp gồm tiếng lóng và phong cách), các bình luận viên của chính phủ đang hoà nhập vào cuộc chơi.

Các vụ bắt giữ và phán quyết khắc nghiệt dành cho các nhà báo, kể các các blogger công dân, không phải là những sự kiện tách biệt, và lại diễn ra mà không kèm theo phản ứng của công chúng.

Tháng Giêng 2013, người đứng đầu bộ máy tuyên truyền và giáo dục của Đảng tiết lộ rằng các blogger ủng hộ Đảng đã được triển khai qua 400 tài khoản online và 20 blog nhằm ca ngợi Đảng và chống lại sự chỉ trích. Số lượng blogger chính thức chưa được biết nhưng ước tính khoảng gần 1.000 người. Không hề tỏ ra xấu hổ hay thận trọng, Hồ Quang Lợi cho BBC biết về thành công của chính sách trong việc chấm dứt những đồn đoán tiêu cực về các chủ đề nhạy cảm và thực sự ngăn được những nỗ lực trực tuyến nhằm tổ chức các cuộc gặp gỡ đại chúng.

Sự thao túng dư luận quả là hữu hiệu và chắc sẽ còn tiếp diễn khi mà Đảng sử dụng không phải công nghệ tinh vi hơn, mà là những dư luận viên đáng tin hơn: Những người có khả năng chuyển tải một nhân cách hiện đại và ‘hoà đồng’ phía sau avatar của mình.

Đảng đang sử dụng những công cụ kiểm soát khác tinh vi hơn cho hình ảnh của nó. Các hacker yêu nước thường xuyên đóng cửa các trang mạng với nội dung chỉ trích và, đối với các trang mạng ngoài Việt Nam, sử dụng các cuộc tấn công DDoS (distributed denial of service). Tổ chức Sáng Kiến Mạng Mở (Open Net Initiative) ghi nhận các cuộc tấn công mạng ngày càng chín chắn nhằm vào các trang mạng bất đồng và các cây bút độc lập. Trong một cuộc tấn công diễn ra trùng với ngày hành động phản đối việc giam giữ blogger Điếu Cày, từ 10.000 đến 20.000 máy tính, phần lớn ở trong nước, đã bị nhiễm malware. Mặc dù mối liên hệ rõ ràng với Hà Nội là khó xác định song mục tiêu của các cuộc tấn công tinh vi lại có thể tố cáo nhà nước.


4. Nền kinh tế đang đình đốn

Việt Nam giành được vị thế một con hổ Châu Á kể từ khi mở cửa nền kinh tế năm 1986, sau những cải cách (Đổi Mới) mở màn cho 2 thập kỷ tăng trưởng ấn tượng. Giai đoạn 2002–2007, Việt Nam luôn đạt tốc độ tăng trưởng hàng năm trên 7%. Tầng lớp trung lưu cũng phát triển, và mặc dù các khu vực đô thị ở Hà Nội và Tp Hồ Chí Minh là những nơi được thụ hưởng nhiều nhất từ các dịch vụ ngày càng mở rộng và từ thị trường việc làm chuyên nghiệp, các thành phố khác vẫn bùng nổ bên ngoài 2 thủ phủ này, đưa một bộ phận người Việt lớn hơn vào nhóm được hưởng lợi.

Sau khi cuộc suy thoái năm 2008 khiến nền kinh tế đình đốn, tốc độ tăng trưởng của Việt Nam đã chững lại, xuống mức khoảng 5% trong năm 2012. Trong khi nhiều nước thu nhập cao sẵn sàng đánh đổi một mức độ độc quyền trong nước để lấy mức tăng trưởng đó thì sự sụt giảm thu nhập gia đình trong số những người Việt Nam không giàu lại gây ra sự tàn phá khủng khiếp. Mức độ lạm phát ngày càng tăng cũng vậy, mức giá cả tiêu dùng tăng bình quân trên 9% mỗi tháng trong năm ngoái.

Tệ hơn dự báo về sự suy thoái kéo dài và mang tính chất chu kỳ, các chuyên gia kinh tế còn nêu bật tác hại dài hạn, tiêu cực hơn. Nguyên nhân của sự suy thoái là nạn tham nhũng tràn lan và sự quản lý yếu kém mang tính chất tội phạm của các đại gia công nghiệp ở Việt Nam – các doanh nghiệp nhà nước. Một loạt vụ gây chấn động dư luận kể từ năm 2011 đã bộc lộ tình trạng quản lý yếu kém trong các DNNN với hàng tỷ USD thất thoát và nợ xấu. Đây là cú đòn nặng nề giáng vào bảng thành tích quản lý kém cỏi của Hà Nội, bởi các DNNN mang lại tới 40% GDP của Việt Nam.

Đáp lại, Hà Nội đã phát động cuộc thanh trừng các ông chủ DNNN bị công luận chỉ trích nặng nề, đáng chú ý là chủ tịch và 4 giám đốc điều hành của hãng vận tải biển lớn nhất Việt Nam, Vinalines, và 9 giám đốc điều hành của hãng chế tạo tàu biển Vinashin. Tất cả đều bị bắt hoặc bị phạt tù trong năm 2012.

Liên quan đến tình trạng hỗn độn của các DNNN là sự sa sút của Việt Nam trong Chỉ số Cảm nhận Tham nhũng (Corruption Perceptions Index), từ vị trí 112 năm 2011 xuống vị trí 123 năm 2012. Thứ hạng thấp có thể là chỉ dấu cho thấy các quan chức chính phủ đang ngày càng thực thi pháp luật một cách tuỳ tiện và tư lợi, hoặc đơn giản là người dân hiện đã ý thức hơn về nạn tham nhũng tràn lan ở Việt Nam.

Đảng CS hiểu rằng các chế độ ổn định bên ngoài có thể sụp đổ khi phải đối mặt với một nền kinh tế trì trệ, và nó sẽ không trao cơ hội nào cho quyền lực thiếu chắc chắn của truyền thông xã hội để khuấy động bất đồng chính kiến. Suy cho cùng, đây là lần suy thoái kinh tế đầu tiên của Việt Nam bị cộng đồng mạng săm soi.

Trước nền móng lỏng lẻo của quyền lực đạo đức và “danh tiếng” quản lý kinh tế của mình, Hà Nội sẽ tiếp tục cảnh giác cao độ với sự chỉ trích nhằm vào chính sách kinh tế của nhà nước hay giới doanh nghiệp tinh hoa. Trong trận chiến giành giật công luận, nó sẽ sử dụng các cuộc thanh trừng hòng trưng diễn quyền kiểm soát.

***

Cuộc trấn áp bất đồng chính kiến ở Việt Nam liên quan đến việc kiểm soát một câu chuyện. Đảng CS là người bảo vệ muôn năm và hiện thân cho sự sống còn của quốc gia Việt Nam, một vòng xung quanh Hà Nội sẽ khẳng định điều đó một cách đầy màu sắc. Quá khứ gần đây của Việt Nam chứa đầy sự kiện nổi bật mà những poster kỷ niệm giăng khắp thành phố có thể được thay thế cứ sau vài tuần.

Bản sắc của Đảng CS, và nói rộng ra là của cả nước, chưa bao giờ miễn nhiễm với chia rẽ, song cuộc chiến giằng co luôn diễn ra ở bên trong, nếu không tính đến mối bất hoà lâu đời với vài sắc dân thiểu số ở Việt Nam. Đảng CS ngày nay phải đối mặt với cuộc chiến nội bộ giữa các thành viên trung thành với thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và những nhân vật ôn hoà như TBT Nguyễn Phú Trọng. Mười năm trước, Đảng là một nhóm thủ cựu, những cựu binh của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, luôn chọc khoáy tầm nhìn của phe cánh Nguyễn Tấn Dũng.

Mối đe doạ mới là bất đồng chính kiến trong công chúng được thúc đẩy nhờ Internet. Điều đó đã được Hà Nội vô hiệu hoá một cách sắc bén trong một động thái trùng hợp với sự suy thoái kinh tế toàn cầu và trở nên tàn nhẫn sau khi phong trào Mùa Xuân Ả Rập đặt ra những tiền lệ cho sự sụp đổ bất ngờ của chế độ. Thông điệp từ những cuộc nổi dậy như thế là cảnh giác. Nguyễn Tấn Dũng cho thấy bài học đó không bị lãng quên trong chính phủ của mình với một lời cảnh báo nhân dịp năm mới rằng “chúng ta thường xuyên bị thách thức bởi những âm mưu hòng gây bất ổn chính trị - xã hội”.

Nói cách khác, cuộc trấn áp sẽ còn tiếp diễn trong cái chính thể mang đầy nỗi bất an này.


Bản dịch của Lê Anh Hùng (Defend the Defenders)

*Source: The Atlantic






No comments:

Post a Comment

View My Stats