Trò chuyện với
Nhà triết học Bùi Văn Nam Sơn
Lê Ngọc Sơn (SVVN Xuân Quý Tỵ)
cập nhật lần cuối 12/02/2013
Sau khi kinh tế xã hội rơi vào vòng khó khăn, chúng ta
cần nhìn lại để biếtđâu là “gót chân Achilles” của chính mình. Sự phát triển và
trưởng thành của một dân tộc luôn từ những cuộc tự vấn.
Qua câu chuyện với nhà báo Lê Ngọc Sơn, nhà triết học Bùi Văn Nam Sơn có những tâm sự đầu năm
với các bạn sinh viên, theo ông, có nhìn lại bản thân mình thì mới sinh tồn được
qua những khó khăn phía trước.
Qua câu chuyện với nhà báo Lê Ngọc Sơn, nhà triết học Bùi Văn Nam Sơn có những tâm sự đầu năm
với các bạn sinh viên, theo ông, có nhìn lại bản thân mình thì mới sinh tồn được
qua những khó khăn phía trước.
CHUYỆN “HẠ TẦNG KIẾN THỨC”
Lê Ngọc Sơn : Thưa ông,
vì sao ông đi dịch những cuốn sách triết học đồ sộ và kinh điển của thế giới?!
Bùi Văn Nam Sơn : Thực ra tôi
già rồi, thời gian của tôi không còn nhiều nữa, tôi chỉ cố gắng làm cái gì
trong khả năng của tôi thôi. Tôi tự đặt ra cho mình nhiệm vụ chính bây giờ là
dịch một số các tác phẩm kinh điển sang tiếng Việt. Vì lẽ, thứ nhất, những
quyển sách dạng này khô khan chẳng ai thèm dịch; thứ hai, nếu không dịch những
quyển này thì không biết bao giờ người ta mới dịch… trong khi đó là những nền
tảng cho các anh em trong chuyên ngành. Nhìn vào thư viện của Việt Nam mình,
chưa thấy có mấy sách kinh điển của nhân loại, tôi thấy buồn lắm. Thành thực mà
nói, không thể đòi một bạn sinh viên đọc tiếng Anh hay các ngoại ngữ khác vèo
vèo như đọc tiếng Việt được. Vả lại, quả là không công bằng! Một người cùng
trang lứa với các bạn sinh viên của ta, như những sinh viên ở Pháp, Mỹ, Đức,
Nhật… thì họ dùng ngôn ngữ mẹ đẻcủa họ, họ đỡ vất vả hơn nhiều lắm. Bây giờ đòi
hỏi những bạn cử nhân mới 23 tuổi ngồi đọc một cuốn sách kinh điển dày cộp bằng
tiếng Anh, thậm chí bằng tiếng Đức… làm sao mà đọc nổi… Đâu phải sinh viên Mỹ
nào cũng đọc được tiếng Đức, hay sinh viên Pháp nào cũng đọc được tiếng Anh
thông thạo… Thế mà họ vẫn thành công, vì họ sử dụng các bản dịch có chất lượng,
và các công trình nghiên cứu của họ vẫn đạt được trình độquốc tế.
Ở Việt Nam, ít ai làm việc dịch thuật, thế nên gánh nặng
đè lên vai những anh em trẻ. Lứa tuổi 18-25 phải gánh cả một gánh nặng, vừa học
kiến thức, vừa học ngoại ngữ. Do trở ngại vềngôn ngữ, mình khó có thể nắm vững
vấn đề và tra cứu đến nơi đến chốn.Điều đó không phải lỗi của thế hệ trẻ, đó là
lỗi của thế hệ đi trước, như chúng tôi, không kịp chuẩn bị tư liệu nền cho các
bạn. Thật là quá cực, quá tội cho các bạn! Còn việc chúng ta phải nỗ lực học
ngoại ngữlại là chuyện khác! Khi tiếng Anh đã trở thành một lingua franca trong
khoa học, việc đọc, viết, nói thành thạo tiếng Anh trong các ngành khoa học tự
nhiên và kỹ thuật là một yêu cầu hiển nhiên. Trong các ngành khoa học xã
hội-nhân văn, còn cần thêm nhiều ngoại ngữ lẫn cổ ngữ khác nữa, nhưng vấn đề
nói ở đây là không thể đòi hỏi những gì bất khả thi và quá sức…
Lê Ngọc Sơn : Thời sinh
viên của ông ắt hẳn thấm thía nỗi vất vả này lắm?
Bùi Văn Nam Sơn : Đúng. Thời
sinh viên, tôi cũng đã rất “đau khổ” vì thiếu sách tiếng Việt. Năm 21 tuổi, tôi
sang Đức học, sau khi học xong cử nhân ngành Triết ở Sài Gòn, lúc đó tự thấy
vốn liếng chữ nghĩa cũng kha khá rồi... Khi sang đó thì từ bậc cử nhân cho đến
tiến sĩ, từ người mới vào trường đến người sắp ra trường đều có thể học chung
một lớp. Lớp của tôi có mấy ông bạn người Nhật Bản, người Hàn Quốc… Lúc đó các
bạn Hàn Quốc cũng khổ sở, vật vã như mình, vì nước họ có rất ít những bản dịch
ra tiếng Hàn, và cũng như tôi, chưa thể đọc tiếng Đức thành thạo được. Trong
khi đó mấy chàng Nhật Bản còn trẻ măng, mới 19 tuổi, vừa học xong tú tài, lại
tỏ ra am hiểu và tự tin lắm ! Tôi kinh ngạc, thì các bạn ấy mới mở túi cho xem
một đống sách toàn tiếng Nhật : những bản dịch Hegel, Kant, Heidegger…, sách
tham khảo, từ điển. Mình mất cảnăm vật lộn với một cuốn sách, họ chỉ cần vài
tháng là đọc xong. Thời gian mình đầu tư cho chuyện đọc đã quá mất sức rồi, làm
sao có thể suy nghĩ hay tìm tòi thêm được cái gì mới nữa. Khoảng cách về điều
kiện nghiên cứu giữa mình với người Nhật thật rõ rệt !
Riêng trong lĩnh vực triết học, sách vởmênh mông, còn số
dịch giả thì đếm trên đầu ngón tay… Lẽ ra cần cả một thế hệ chuẩn bị nền móng,
cho các bạn trẻ sau này đỡ cực hơn. Tất nhiên, ý nghĩa của việc dịch thuật
không phải chỉ có thế. Nó còn góp phần xây dựng ngôn ngữ khoa học cho một đất
nước, đem ánh sáng khai minh đến cho số đông để cải hóa xã hội, như nhiều bài
viết mới đây của quý Thầy Nguyễn Xuân Xanh, Nguyễn Văn Tuấn, Trần Văn Thọ… đã
nhấn mạnh.
Lê Ngọc Sơn : Vậy cho
đến nay, so với các nước trong khu vực, chúng ta đang thế nào, thưa ông?
Bùi Văn Nam Sơn : Cách đây
chừng 5-7 năm, chính ông bạn người Hàn Quốc ngày xưa học chung với tôi, về dạy
ở Đại học Seoul, viết thư kểcho tôi nghe : ông và thế hệ trước đó, từ những năm
1970 trở đi đã bắt tay vào dịch sách vở cho Hàn Quốc. Hầu hết những tác phẩm
kinh điển quan trọng từ tiếng Đức đã được dịch sang tiếng Hàn, hết toàn tập
nàyđến toàn tập khác, mà mỗi toàn tập của một tác giả thì có đến 40-50 tập. Tôi
rất kinh ngạc về sức làm việc của họ. 40 năm thôi, nhưng với trách nhiệm với
đất nước và đàn em, họ quyết tâm làm được việc lớn nhưthế. Vậy thì ngày hôm
nay, làm sao sinh viên của ta có thể “đấu” lạiđược một sinh viên Hàn Quốc,
trong khi cách đây 40 năm, anh sinh viên này cũng vất vả y như mình. Khoảng
cách đó thật khủng khiếp !
Việc học hành nghiêm chỉnh, tiếp thu có hệ thống đã là
thách đố ghê gớm, và cái đó cần nhiều thế hệ mới vượt qua được, ít nhất cũng là
30-40 năm như Hàn Quốc. Chúng ta đừng vội nói gì cao xa, sách vở đàng hoàng là
nền móng cơ bản nhất của nền học vấn và của nền đại học.
Lê Ngọc Sơn : Vì sao
chúng ta không làm được như những nước ở gần mình như Nhật, như Hàn? Và ông có
thấy được cuộc đua tranh trên thế giới về mặt tri thức đang diễn ra rất quyết
liệt?
Bùi Văn Nam Sơn : Chúng ta
thiếu tính tổ chức, thiếu khả năng làm việc tập thể và một kế hoạch trường kì
của cả một tầng lớp, của cả một thế hệ. Mỗi thế hệ phải thấy trách nhiệm lịch
sử của mình, thấy tình trạng khách quan đặt ra cho mình gánh nặng nào, và họ
phải giải quyết một cách thông minh nhất, ít tốn sức nhất, với sự bền bỉ và
quyết tâm. Thế hệ sau thừa hưởng và nối tiếp thành quả của những người đi
trước, thì nền học thuật cứ thế đi lên thôi.
Tôi được cho biết rằng ở Nhật, những tạp chí khoa học
chuyên ngành trên thế giới hầu như lập tức được dịch sang tiếng Nhật, vì họ có
nhu cầu cạnh tranh. Nếu không theo kịp thông tin mới, làm sao có thể cạnh tranh
trên thị trường thế giới, làm sao bắt kịp trình độ quốc tế để đi dự hội thảo
khoa học?
Trở lại tình cảnh của ta, cơ sở hạ tầng về kiến thức là
phần rất chểnh mảng. Cái cơ bản nhất thì lại bị xem nhẹ… Bây giờ cứ hô hào sinh
viên sáng tạo đi, có công trình đột phá đi, hãy phản biện đi… Nhưng phải biết
người ta đã viết gì, nghĩ gì, ta mới phản biện và có ý kiến riêng được chứ !
SỬA SOẠN TINH THẦN, CHUẨN BỊ YÊN CƯƠNG
Lê Ngọc Sơn : Trong quan
niệm của ông, một bạn sinh viên phải thế nào ?
Bùi Văn Nam Sơn : Theo tôi,
thời gian được học đại học là quãng thời gian đẹp nhất, quý nhất của một đời
người. Khi ta đang ở trong quãng thời gian đó, thường không thấy quý đâu, nhưng
sau này nhìn lại mới thấy đây là thời gian quý nhất, “sướng” nhất. Được trở
thành sinh viên là một bước ngoặt. Chữ “sinh viên” khác về chất với chữ “học
sinh”.Ngay bản thân chữ “sinh viên” đã cho thấy sự khác biệt ấy : Sinh viên
trong tiếng Anh và tiếng Đức là “student”,trong tiếng Pháp là “étudiant”,liên
quan đến 3 động từ : to study, studieren, étudier ít nhiều đều mang hàm
nghĩa là “nghiên cứu”.Sinh viên là phải nghiên cứu, chứ không chỉ thụ động tiếp
thu kiến thức... Trong tiếng Việt, “sinh viên” có chữ “viên”, nghĩa là đã có
một vị trí nào đó... Do vậy, cần ý thức được điều này để cả người dạy lẫn người
học ở bậc đại học nhận thức được trách nhiệm của chính mình. Dạy và học ở đại
học không chỉ là truyền thụ và tiếp thu kiến thức mà chủyếu là gợi hứng cho
nghiên cứu.
Ngay cả ở trình độ tốt nghiệp trung học phổ thông cũng có
vấn đề. Những năm 1970 về trước, mang tấm bằng tú tài của Việt Nam sang Tây Âu
là được chấp nhận hầu như tương đương, còn những bằng tú tài của Thái Lan,
Malaysia, Indonesia… thì buộc phải học lại một năm, tức chỉ bằng đầu lớp 12 bên
đó. Bây giờ thì như thế nào? Chúng ta phải nghiêm túc tự vấn về mình...
Lê Ngọc Sơn : Ở các nước
phát triển, khoa học trú ngụ ở đại học, tại sao ở các đại học ở ta thì chưa
thấy gì, thưa ông?
Bùi Văn Nam Sơn : Theo tôi là
do không phân biệt rạch ròi giữa đại học và trung học. Trường đại học dứt khoát
không phải là trường phổthông cấp 4. Nó khác về chất trong hệ thống giáo dục
quốc gia. Đại học cũng không phải là trường dạy nghề, trường dạy nghề lẽ ra cần
có một hệthống khác, cũng cao cấp và sáng giá không kém gì đại học. Ở Đức, sau
khi đỗ tú tài, ta có hai con đường để lựa chọn, một là các trường kỹthuật,
trường dạy nghề chuyên nghiệp dành riêng cho những kỹ sư thực hành, rất hay và
thiết thực, ra trường dễ kiếm việc làm và lương cao. Hoặc hướng thứ hai là
nghiên cứu : cũng có thể là khoa học - kỹ thuật nhưng nặng về lý thuyết. Do có
hai hướng rõ ràng như vậy, dựa vào việc phân định khách quan về nhiệm vụ, nên
khi vào đâu, ta sẽ biết làm cái gì, biết rõ tính chất của trường mình. Việc
“liên thông” giữa hai loại trường này lại là chuyện khác nữa !
Do đó, đại học đương nhiên mang tính chất nghiên cứu, dù
ở năm thứ nhất cũng là nghiên cứu, ở bậc tiến sĩ,hay sau tiến sĩ cũng là nghiên
cứu. Từ sinh viên đến giáo sư đều làm nghiên cứu. Không khí của đại học là
nghiên cứu. Thành ra, cái mà tađang nhầm lẫn ở đây là nhẫm lẫn tính chất của
đại học, dẫn đến hệ quảrất trầm trọng là biến đại học thành trường dạy nghề, và
biến trường dạy nghề thành ra cái gì đó rất là yếu kém và yếu thế. Đã đi học
đểnghiên cứu thì phải toát ra tinh thần nghiên cứu, tức là toàn bộ giáo sư và
sinh viên là một cộng đồng nghiên cứu, người đi trước hướng dẫn, dìu dắt người
đi sau, không ngừng hình thành những chuyên ngành mới, những trường phái mới… Nghiên
cứu có nhiều cấp độ, cấp thấp / cấp cao, dễ / khó… Cũng tránh hướng suy nghĩ
rằng, nghiên cứu là cái gì đó cao xa lắm, thực ra đâu phải vậy : ngay năm thứ
nhất, bạn cũng đã phải có tư duy nghiên cứu rồi, tự tìm tòi phương hướng và
phương tiện nghiên cứu của mình với sự giúp đỡ của người đi trước.
Vì thế, hình thức Sêmina ngày càng chiếm ưu thế. Sêmina
là lao động tập thể của sinh viên lẫn giáo sư, của thầy và trò, cùng nhau tìm
tòi tài liệu, tổng kết, nhận định, đánh giá những gì đã có, đó là những hình
thức ban đầu của nghiên cứu ngay từnăm thứ nhất.
Lê Ngọc Sơn : Theo ông,
sinh viên phải chuẩn bị những gì cho một tương lai đầy thử thách trước mặt?
Bùi Văn Nam Sơn : Người Pháp có
câu ngạn ngữ : “muốn đi xa phải chăm sóc yên cương”(“Qui veut aller loin,
ménage sa monture”/Racine), nghĩa là, phải biết dưỡng sức và chuẩn bị phương
tiện. Đi mười dặm thì đơn giản, nhưng đi trăm dặm, nghìn dặm, vạn dặm… thì lại
khác. Công việc học cũng vậy thôi, nếu chỉ nghĩ lấy cái bằng ra để kiếm việc
làm, nuôi sống bản thân thì khá đơn giản, nhưng nếu muốn tiến xa trong chuyên
ngành của mình thì phải chuẩn bị cho 30, 40 năm sau về cả ý thức lẫn sức lực.
Chắc bạn biết rằng trên 30 tuổi rất khó học ngoại ngữ, do
nguyên nhân sinh lý thôi, trên 30 tuổi thì các nơ-ron thần kinh già đi, giảm
thiểu khả năng tiếp thu. Vậy thì phải luyện rèn ngoại ngữ trước 30 tuổi. Người
làm nghiên cứu cần trang bị cho mình nhiều ngoại ngữ. Đối với các ngành khoa
học tự nhiên và kỹ thuật, cần phải có hai ngoại ngữ thông dụng. Đối với người
làm nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học xã hội - nhân văn, thì càng nhiều càng
tốt, cả cổ ngữnữa. Đó là vốn liếng tối thiểu để nghiên cứu.
Lê Ngọc Sơn : Cần tạo
cảm hứng ham hiểu biết của anh chị em sinh viên như thế nào, thưa ông?
Bùi Văn Nam Sơn : Theo quan sát
của tôi, hiện nay, anh chị em sinh viên đang chịu nhiều áp lực thi cử quá mức.
Cần tạo một khoảng hở đểanh chị em sinh viên vui chơi, và có… chơi nhiều thì
mới thấy việc học là thú vị, không học thì tiếc, và thế là lao vào học. Học
trong sự say mê. Hãy tạo không gian tự do để anh chị em cảm thấy hứng thú
nghiên cứu, chứ suốt ngày bị áp lực thi cử, hay sợ tương lai của mình phụthuộc
vào thi cử…thì những việc đó làm hao tổn năng lượng của anh em trẻ một cách quá
đáng ! Thể lực và thể thao đại học cũng là hiện tượng rất đáng lo ngại, chưa
nói đến những hình thức tiêu cực phản giáo dục…
Lê Ngọc Sơn : Chúng ta
nên bắtđầu lại thế nào để xây dựng lại tinh thần đại học một cách tử tế?
Bùi Văn Nam Sơn : Hình như ta
đang có cao vọng là phấn đấu đứng vào hàng ngũ những đại học tiên tiến trên thế
giới. Tôi nghĩ là khó vô cùng ! Với những gì hiện có, tôi e chuyện đó là ảo
tưởng. Nhiều thập kỷ nữa chưa chắc mình đã vào được hàng ngũ những đại học
trung bình ở khu vực, chứ đừng nói đại học đẳng cấp quốc tế. Và để có cơ may làm
được điều đó thì việc trước tiên là phải thay đổi tính chất của đại học hiện
nay.
Điều đáng lo là chúng ta không lo những chuyện bình
thường, coi nhẹ những chuyện bình thường. Chuyện lẽ ra ai cũng phải làm, nước
nào cũng phải làm thì mình lại xem thường, mình chỉmuốn làm những gì khác
thường, phi thường. Làm sao làm những chuyện khác thường, phi thường khi cái
bình thường, ta chưa làm được ? Hãy là cái gì bình thường trước đã. Những đại
học, học viện trên thế giới người ta là cái gì thì mình là đúng cái đó đi đã:
đầu tư cho sách vở đầy đủ, đầu tư cho con người, không gian học thuật, v.v...
ĐI XA CẦN CÓ BẠN ĐƯỜNG VÀ TẬP HIỂU NHỮNG ĐIỀU KHÁC BIỆT
Lê Ngọc Sơn : Như vậy,
sẽ phải bình tĩnh để nhìn lại năng lực tự thân và hướng đi của mình?
Bùi Văn Nam Sơn : Vâng. Một nền
giáo dục lạc hậu thì đuổi mãi chắc rồi cũng bắt kịp, nhưng lạc hướng thì chịu
thua. Chúng ta thường mong làm những điều phi thường, nhưng đôi khi thực chất
nó lại là nghịch thường. Những cách làm của mình hiện nay là trái với bình
thường, không giống ai và không có ai làm như thế cả. Trên thế giới, nền giáo
dục quốc gia được định hình từ lâu lắm rồi. Những định chế khoa học cũng đãđịnh
hình từ xa xưa với hơn 700 năm kinh nghiệm. Họ làm gì, ta làm nấy cho giống đại
học cái đã, rồi phát triển dần lên.
Lê Ngọc Sơn : Phía trước
là cảchặng đường dài, theo ông, các bạn sinh viên nên làm gì?
Bùi Văn Nam Sơn : Theo tôi các
bạn trẻ cần hình thành ý thức tự học và xác định tinh thần đi xa phải có bạn
đường. Thứ nhất,sinh viên cần có tinh thần tự học trọn đời, nghiên cứu trọn
đời. Ngay cả khi đã “bỏnghề”, nhưng nếu còn tha thiết với nó, ta vẫn tìm sách
mà đọc, cố gắng hết sức trong thời gian eo hẹp để làm giàu tri thức cho mình,
nâng chất lượng cuộc sống mình lên. Đó là tinh thần tự học. Thứ hai, đã có tinh
thần tự học, thì hoàn cảnh nào đi nữa vẫn có thể tham gia làm việc từng nhóm
với nhau. Bạn có thể sinh hoạt với nhau trong một nhóm bạn hữu tâm giao, có thể
theo đuổi một công việc tình nguyện, không ăn lương, thậm chí không dính đến bộ
máy hay tổ chức nào cả. Chúng ta cần những nhóm người nhiệt huyết, không lệ
thuộc vào đồng lương nhà nước, cơ quan… Cái có sức sống nhất chính là những
nhóm nghiên cứu độc lập, tự nguyện, vô vị lợi, chủ yếu là vì lòng say mê, tình
tri kỉ… được hình thành ngay thời sinh viên. Cho nên tình bạn trong đại học
không chỉ là vui chơi, chính tình bạn có tính tự nguyện này là mầm mống cho
những hoạt động khoa học bền bỉ. Trong lịch sử khoa học, có những nhóm nghiên
cứu kết bạn với nhau từ hồi sinh viên cực kì khăng khít, đã tạo ra những công
trình phi thường.
Lê Ngọc Sơn : Theo ông,
làm saođể người trẻ kiên trì trên con đường nghiên cứu?
Bùi Văn Nam Sơn : Đã là sinh
viên đúng nghĩa thì ta phải ham chuyên môn của mình ngay từ khi bước chân vào
trường đại học. Bước vào giảngđường, thư viện hay phòng thí nghiệm, ta cảm thấy
linh thiêng, hào hứng, thì mới có hi vọng thành tựu. Ít ra là cũng ham đọc
sách, chứ cầm cuốn sách mà đọc vài trang là lăn ra ngủ thì không thể nào đi xa
đượcđâu. Phải mê sách vở, mê nghiên cứu, mê chữ nghĩa,... thì mới có triển
vọng. Dần dần thành thói quen, trong đó có thói quen tập đọc, tập chịuđựng :
cái khó nhất trong học tập, nghiên cứu là chịu đọc những cái mà mình không
thích. Đọc một cách nghiêm chỉnh, không thành kiến những gì không giống mình.
Nghiên cứu là để hiểu vấn đề và hiểu người khác một cách nghiêm chỉnh, trung
thực. Đừng vì ghét quan điểm của tác giả nàođó, rồi chưa đọc kỹ về họ đã bác bỏ
hay xuyên tạc họ. Cố tình hạ thấp họ để nghĩ mình thắng họ, thì thực chất họ
cũng chẳng thấp hơn được. Phải hiểu một cách chân thực, phản bác họ bằng luận
cứ. Và để làm đượcđiều đó thì, như đã nói, phải chịu khó đọc những cái mình
không thích, học những môn mình không ưa. Tập thói quen này khó lắm đó, nhưng
hoàn toàn có thể làm được.
Dù có nhiều khó khăn đón chờ phía trước, nhưng xin hãy cứ
kiên trì, rồi mùa hoa trái sẽ tới!
Lê Ngọc Sơn : Xin cảm ơn
ông !
Lê Ngọc Sơn (Thực hiện)
Rải băng: Tạ Thương
(Bài đăng trên báo SVVN số Xuân Quý Tỵ2013)
No comments:
Post a Comment