Hà Huy Toàn
Tác
giả gửi tới Dân Luận
19/05/2017
Đảng Cộng sản Việt nam là một đảng phái chính trị được
thành lập tại Hồng Kông vào ngày 06 Tháng Giêng 1930 theo Quốc
tế Cộng sản chỉ đạo Nguyễn Ái Quốc, tức Hồ Chí
Minh (1890 – 1969), hợp nhất ba tổ chức cộng sản tại Đông
dương vào lúc đó: Đông dương Cộng sản Đảng, An nam
Cộng sản Đảng và Đông dương Cộng sản Liên đoàn. Cả ba tổ
chức đó đều nhân danh cộng sản nhưng lại kình chống
nhau kịch liệt khiến Quốc tế Cộng sản phải chỉ đạo Hồ Chí Minh hợp nhất
ba tổ chức đó thành Đảng Cộng sản Việt nam [1].
Cuộc họp thành lập được tiến hành trên sân vận động,
các đại biểu giả vờ làm khán giả xem đá bóng để họp. Có ba người
đến họp: Trịnh Đình Cửu, đại biểu cho Đông dương Cộng sản Đảng; Nguyễn
Thiệu và Châu Văn Liêm, đại biểu cho An nam Cộng sản
Đảng [2]. Đông dương Cộng sản Liên đoàn không có đại biểu đến dự cuộc
họp này mà chỉ xin gia nhập Đảng Cộng sản Việt nam vào ngày 24 Tháng Hai 1930
[3].
Về ngày
thành lập, Đảng Cộng sản Việt nam được thành lập vào ngày 06
Tháng Giêng 1930 nhưng đến Đại hội 3 được tiến hành tại Hà nội
vào năm 1960, Đảng Cộng sản Việt nam đột ngột thay đổi ngày thành lập từ ngày
06 Tháng Giêng 1930 thành ngày 03 Tháng Hai 1930 theo
“các đồng chí Liên – Xô, tức Liên bang Soviet đã
sụp đổ vào đúng Lễ Giáng sinh 1991, cho biết ngày đó mới
đúng theo tài liệu lưu trữ”. Chỉ có một đại biểu duy nhất, cụ
thể là Lê Minh, phát biểu ý kiến bác bỏ đối với việc thay đổi ngày
thành lập nhưng Hồ Chí Minh đã gạt phăng không cho Đại hội 3 thảo luận về ý kiến
đó [4]. Tuy nhiên, sách giáo khoa về Lịch sử Việt nam đã
xác nhận rằng Đảng Cộng sản Việt nam được thành lập vào ngày 06 Tháng Giêng
1930 rồi thay đổi ngày thành lập thành ngày 03 Tháng Hai 1930 mà không giải
thích tại sao [5].
Về nguồn
gốc, như trên đã cho thấy Đảng Cộng sản Việt nam xuất
thân từ bên ngoài Việt nam, tức là có nguồn gốc ngoại lai.
Lúc đầu, Đảng Cộng sản Việt nam được nuôi dưỡng bởi Cộng sản Nga. Về
sau, Đảng Cộng sản Việt nam được nuôi dưỡng bởi Cộng sản Tàu. Đảng
Cộng sản Việt nam cũng có lúc được đỡ đầu bởi Cộng sản Pháp. Từ khi
bùng nổ xung đột giữa Cộng sản Nga với Cộng sản Tàu, Đảng Cộng sản Việt
nam luôn luôn bị ngả nghiêng giữa Cộng sản Tàu với Cộng sản Nga. Chính vì
xuất thân từ bên ngoài Việt nam đồng thời được nuôi dưỡng bởi các thế lực ngoại
bang được kể ra trên đây nên Đảng Cộng sản Việt nam dù muốn ưu tiên mang lại lợi
ích cho dân tộc Việt nam cũng không thể làm được như vậy mà chỉ có thể phải
quan tâm bảo đảm lợi ích cho các thế lực kia dù không muốn làm như vậy. Hoặc
nhiều lắm Đảng Cộng sản Việt nam cũng chỉ tìm kiếm lợi ích cho chính mình mà
thôi. Suốt từ ngày được thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt nam thường xuyên
phải thực hiện chủ trương đường lối được hoạch định tại Moskva hoặc Bắc
kinh. Chưa kịp thoát khỏi bị chi phối bởi Cộng sản Nga vào năm 1991,
Đảng Cộng sản Việt nam lại dễ dàng bị chi phối bởi Cộng sản Tàu từ Hội
nghị Bí mật tại Thành đô vào năm 1990. Đảng
Cộng sản Việt nam rất ít khi hoạt động nhằm bảo đảm lợi ích cho dân tộc Việt
nam. Chỉ khi bị o ép quá đáng bởi các thế lực ngoại bang được kể ra trên đây hoặc
khi bị đe doạ tan rã từ bên trong như hiện nay, Đảng Cộng sản Việt nam mới có
thể nghĩ đến việc bảo đảm lợi ích cho dân tộc Việt nam để có thể sống
còn. Nhưng ngay cả khi bị lâm vào tình trạng nguy khốn như hiện nay, Đảng Cộng
sản Việt nam cũng vẫn giáo dục bộ máy bạo lực “chỉ biết còn Đảng còn mình!”.
Vậy tại sao Đảng Cộng sản Việt nam lại có thể lớn mạnh trong
xã hội Việt nam từ năm 1930 đến những năm gần đây? Câu hỏi này sẽ được giải đáp
ngay sau đây.
Về tư
tưởng, Đảng Cộng sản Việt nam kế thừa tư tưởng
chuyên chế tại Việt nam với Nho giáo giữ địa
vị thống trị từ Vương triều Hậu Lê đến cuối
thế kỷ XIX [6]. Ngay từ khi giành được địa vị thống trị tại Việt nam,
Nho giáo đã xé nát xã hội Việt nam bằng những cuộc nội chiến tàn khốc,
như Nội chiến Lê - Mạc, Nội chiến Lê - Trịnh, Nội
chiến Mạc - Trịnh, Nội chiến Trịnh - Nguyễn, v. v..
Cuối cùng, cũng chính Nho giáo đã làm cho Việt nam suy yếu cùng cực để rồi phải
làm thuộc địa cho Thực dân Pháp từ cuối thế kỷ XIX đến đầu
thế kỷ XX. Ngay sau khi thống nhất được đất nước, Vương triều Nguyễn dựa
trên Nho giáo đã thực hiện chính sách truy bức hết sức tàn khốc đối
với Công giáo Việt nam để Thực dân Pháp dựa vào chính sách đó
mà đánh chiếm Việt nam làm thuộc địa từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX [7].
Vương triều Nguyễn có công thống nhất đất nước sau nhiều cuộc nội chiến tương
tàn như đã được trình bày ở trên nhưng lại có tội làm mất nước cho Thực dân
Pháp rồi lại vu oan giáng hoạ cho Công giáo Việt nam bán nước.
Công giáo từ Tây phương (Hà lan, Bồ đào nha, Tây ban nha, v.
v.) đến Việt nam từ thế kỷ XVI tạo ra Công
giáo Việt nam. Công giáo Việt nam mới hình thành nhưng đã tạo ra nhiều
thành tựu văn hoá cho Việt nam, bao gồm chữ viết, báo
chí, âm nhạc, tư tưởng, v. v., trong đó
thành tựu quan trọng nhất phải thuộc về chữ viết, tức là Chữ
Quốc ngữ. Chữ Quốc ngữ làm cho người Việt nam dễ dàng tiếp nhận mọi tri thức
về mọi lĩnh vực để Việt nam có thể thoát khỏi Nho giáo, cũng tức
là thoát khỏi nước Tàu về văn hoá. Đó chính là nguyên nhân sâu xa
nhất làm cho Công giáo Việt nam bị vu oan giáng hoạ đồng thời bị
truy bức dã man bởi các chính quyền phong kiến vốn dựa
trên Nho giáo tại Việt nam trước kia. Công giáo Việt nam có công lớn nhất đối với
Dân tộc Việt nam nhưng lại bị ngược đãi tàn tệ nhất bởi các chính quyền chuyên
chế tại Việt nam. Công giáo Việt nam khai thông văn hoá cho Việt nam nhưng lại
bị vu oan bán nước cho Thực dân Pháp. Thực dân Pháp chỉ lợi dụng Vương triều
Nguyễn truy bức Công giáo Việt nam để đánh chiếm Việt nam làm thuộc địa từ cuối
thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX. Thực dân Pháp đến Việt nam không mang
theo Công giáo mà chỉ mang theo Tư tưởng Khai sáng với chủ
nghĩa cá nhân làm căn bản cho nó vốn cũng bắt nguồn từ
cả Triết học Hy lạp lẫn Giáo lý Chúa giáo (Christianity,
bao gồm: Công giáo, Chính giáo và Tin lành, v.
v.) [8]. Tư tưởng Khai sáng đi theo Thực dân Pháp đến Việt nam tạo ra được tầng
lớp trí thức với một số gương mặt sáng láng, như Petrus
Trương Vĩnh Ký, Phan Châu Trinh, Nguyễn Văn Vĩnh, Tản
đà Nguyễn Khắc Hiếu, Phạm Quỳnh, Trương Tử Anh, Nam
Cao, v. v.. Trước đó Việt nam đã từng có Nguyễn Trường
Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Phạm Phú Thứ, v. v.,
nhưng những nhân vật đó vẫn chưa thoát khỏi tư tưởng phong kiến. Tư tưởng phong
kiến vốn xấu độc đã trở thành truyền thống lâu đời tại
Việt nam lại được củng cố mạnh mẽ bởi Chủ nghĩa Marx – Lenin bắt đầu xâm nhập
Việt nam từ đầu thế kỷ XX làm cho Tư tưởng Khai sáng không thể vượt qua được tư
tưởng chuyên chế. Vừa mới bắt đầu toả sáng vào nửa đầu thế kỷ XX, Tư tưởng Khai
sáng đã bị dập tắt hoàn toàn bởi Đảng Cộng sản Việt nam vào nửa sau thế kỷ đó.
Đảng Cộng sản Việt nam lấy Chủ nghĩa Marx – Lenin làm kim
chỉ nam cho mọi hoạt động [9]. Vì Chủ nghĩa Marx –
Lenin sai lầm về mặt khoa học đồng thời phản động về mặt chính trị nên Đảng Cộng
sản Việt nam cũng không thể tránh khỏi sai lầm về mặt khoa học đồng thời phản động
về mặt chính trị. Nhưng chỉ vì Chủ nghĩa Marx – Lenin rất tương đồng với Nho
giáo vốn làm nền tảng tư tưởng cho chế độ
chuyên chế tại Việt nam từ Vương triều Hậu Lê đến cuối
Vương triều Nguyễn nên Đảng Cộng sản Việt nam đã thu phục được đa số
dân chúng Việt nam đi theo họ để họ phát triển thành một Đảng Độc tài lớn
thứ hai trên thế giới, chỉ sau Đảng Cộng sản Tàu [10]. Đảng Cộng sản Việt
nam xuất thân từ bên ngoài Việt nam lấy Chủ nghĩa Marx – Lenin làm kim chỉ nam
cho mọi hoạt động nhưng lại kế thừa Nho giáo tại Việt nam với bản chất cố hữu rất
tương đồng với Chủ nghĩa Marx – Lenin khiến Đảng Cộng sản Việt nam lớn mạnh như
ngày nay đồng thời bị trói buộc chặt chẽ vào Đảng Cộng sản Tàu về văn hoá – tư
tưởng. Đảng Cộng sản Tàu cũng dựa trên cả Nho giáo lẫn Chủ nghĩa Marx – Lenin
không chỉ kìm kẹp Việt nam bằng ách độc tài mà còn nô dịch cả nước Tàu bằng
chính sách ngu dân để dân chúng Tàu suy sụp thảm hại về văn hoá – tư tưởng. Nếu
không hiểu đúng về cả Nho giáo lẫn Chủ nghĩa Marx – Lenin thì
không thể hiểu được sự thể này [11].
Về tổ
chức, Đảng Cộng sản Việt nam được tổ chức theo nguyên
tắc tập quyền vốn quen được gọi là tập trung dân chủ, tức
là mọi quyền hành đều được tập trung vào một số ít đảng viên lãnh đạo ở cấp
cao nhất được gọi là Bộ Chính trị. Bộ Chính trị được bầu
chọn bởi Ban Chấp hành Trung ương hoạt động theo nhiệm
kỳ bằng 5 năm. Ban Chấp hành Trung ương lại được bầu chọn
bởi Đại hội Đại biểu Toàn quốc cứ 5 năm lại được tiến hành một
lần. Chính vì được tổ chức theo nguyên tắc tập quyền nên ngay từ đầu Đảng
Cộng sản Việt nam đã trở thành một Đảng Độc tài chỉ giỏi về những
công việc liên quan tự nhiên với chế độ độc tài, như bạo
hành, cướp bóc và dối trá, v. v..
Chính họ cũng không giấu giếm đặc tính đó mà còn tuyên bố công khai về
cả mục tiêu lẫn phương pháp cho mọi
hoạt động. Không chỉ riêng Đảng Cộng sản Việt nam mà bất cứ đảng phái nào
được tổ chức theo nguyên tắc tập quyền như trên cũng đều trở thành Đảng
Độc tài. Tuy nhiên, Đảng Cộng sản Việt nam cũng như tất cả các Đảng Cộng sản
nắm độc quyền lãnh đạo ở tất cả các nước khác lại làm hình mẫu điển
hình nhất cho Đảng Độc tài. Đảng Cộng sản Việt nam cũng tiến
hành bầu cử khi thay đổi cán bộ lãnh đạo nhưng chỉ bầu cử theo
nguyên tắc áp đặt, theo đó các ứng viên không được cạnh tranh tự do mà phải
được chỉ định trước bởi cấp trên khiến ứng viên nào sẽ làm cán bộ lãnh
đạo đều đã được biết trước. Chính vì các ứng viên không được cạnh tranh tự do
mà phải được chỉ định trước bởi cấp trên nên việc bầu cử ở cấp cao nhất không
thể tránh khỏi đấu đá khốc liệt dẫn đến chết người. Càng về
sau, hiện tượng này càng lan rộng đến các đơn vị nhỏ hơn trong Đảng Cộng sản Việt
nam khiến bất cứ đảng viên nào có lương tri cũng muốn thay đổi chế độ chính trị
hoặc ít nhất cũng muốn ly khai Đảng Cộng sản Việt nam theo bản năng sinh
tồn, tức là bản năng ham sống hoặc bản năng sợ chết.
Nguyên tắc tập quyền làm cho bất cứ ai chống lại cũng chết nhưng ủng hộ cũng chết.
Cả Nguyễn Khắc Viện (1913 – 1997) lẫn Trần Đức Thảo (1917
– 1993), v. v., đều đã chứng thực rõ ràng như vậy. Nhiều nạn nhân
khác cũng đã chứng thực rõ ràng như vậy.
Về đường
lối, bao gồm cả mục tiêu lẫn phương
pháp. Đảng Cộng sản Việt nam chủ trương cướp chính quyền bằng bạo
lực để thiết lập nền độc tài vô sản thường được gọi
là chuyên chính vô sản rồi dùng chuyên chính vô sản để cải
tạo xã hội theo hình mẫu không tưởng được đề ra bởi Chủ
nghĩa Marx – Lenin. Cái hình mẫu đó thường được gọi
là chủ nghĩa cộng sản hoặc xã hội cộng sản, trong
đó không có thị trường, không có tiền tệ, không
có giai cấp, không có nhà nước, không có pháp luật, không
có nhà tù, không có cảnh sát, không có quân đội, mọi
tài sản đều được sở hữu chung bởi tất cả mọi người, tất cả mọi người
cùng làm việc chung để hưởng thụ chung, tất cả mọi người đều hưởng
thụ chung để được hạnh phúc chung như sống trên Thiên đàng. Cái hình mẫu
đó không hề cho biết mảy may một chút sự thật nào về bản
tính vị kỷ vốn có ở mọi cá nhân sống vào mọi lúc đòi
hỏi xã hội phải có pháp luật đồng thời phải có nhà nước
pháp quyền (tam quyền phân lập, đa nguyên bình đẳng, bầu cử tự do) để điều
hành xã hội bằng pháp luật. Vì không cho thấy một sự thật đơn giản như vậy
nên cái hình mẫu đó chẳng khác gì truyện cổ tích dành cho trẻ
con. Tuy nhiên, cái hình mẫu đó lại mê hoặc được rất nhiều người tại các
xứ sở lạc hậu nhất trên thế giới. Phải thế nào về thần
kinh mới có thể bị mê hoặc bởi cái hình mẫu không tưởng như vậy chứ?
Về thành
tựu, Đảng Cộng sản Việt nam chỉ sau 15 năm kể từ ngày
thành lập đã thực hiện thành công cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 nhằm cướp chính
quyền trên cả nước từ Chính phủ Trần Trọng Kim. Chính phủ Trần Trọng
Kim đã tiếp nhận chủ quyền độc lập cho Việt nam từ Chính quyền Fascist tại Nhật
bản vào ngày 11 Tháng Ba 1945. Nhưng chẳng được bao lâu, Chính phủ Trần Trọng
Kim đã bị lật đổ bất ngờ bởi Đảng Cộng sản Việt nam vào
ngày 19 Tháng Tám 1945. Lợi dụng Quân đội Cộng hoà từ Mỹ đập tan Quân đội
Fascist tại Nhật bản bằng hai quả bom nguyên tử, Đảng Cộng sản Việt nam đã cướp
được chính quyền từ Chính phủ Trần Trọng Kim bằng cuộc Cách mạng Tháng Tám
1945. Ngay sau khi cướp được chính quyền trên cả nước bằng cuộc cách mạng đó, Đảng
Cộng sản Việt nam đã ra tay tiêu diệt tất cả các đảng phái quốc gia, trong đó
có cả những tài năng xuất chúng về cả văn hoá lẫn chính
trị [12]. Do bị chống đối dữ dội bởi các thành phần tinh anh nhất (kể
cả các đảng phái quốc gia còn sống sót) tại Việt nam vào cuối năm 1946 nên Đảng
Cộng sản Việt nam dễ dàng bị đánh bật lên Việt Bắc bởi Quân đội Pháp.
Tuy nhiên, Đảng Cộng sản Việt nam được hỗ trợ đắc lực bởi cả Cộng
sản Nga lẫn Cộng sản Tàu (do địa lý chính trị nên Cộng sản Tàu
hỗ trợ nhiều hơn cho Đảng Cộng sản Việt nam) đã chiến đấu lâu dài nhằm
cướp lại chính quyền. Sau Chiến thắng Điện biên Phủ vào ngày
07 Tháng Năm 1954, Đảng Cộng sản Việt nam cướp được chính quyền tại miền Bắc.
Hiệp định Geneve được ký kết vào ngày 20 Tháng Bảy 1954 chia cắt Việt
nam tại Vĩ tuyến 17 đồng thời công nhận quyền cai trị cho Đảng Cộng sản
Việt nam tại miền Bắc, cũng tức là bắt buộc Quân đội Pháp phải rời khỏi đây.
Theo Hiệp định Geneve 1954, Việt nam bị chia cắt thành hai lãnh thổ khác nhau về
chế độ chính trị: miền Bắc theo chính thể độc tài đối lập với miền Nam theo
chính thể cộng hoà. Hiệp định đó xác nhận thắng lợi bước đầu hết sức quan trọng
cho Đảng Cộng sản Việt nam. Không dừng lại ở đó mà thừa thắng xông lên,
Đảng Cộng sản Việt nam được hỗ trợ đắc lực bởi cả Cộng sản Nga lẫn Cộng sản Tàu
(do địa lý chính trị nên Cộng sản Tàu hỗ trợ ít hơn cho Đảng Cộng
sản Việt nam để biến Việt nam thành vùng đệm an toàn cho chính Cộng sản Tàu) lại
tiếp tục chiến đấu lâu dài nhằm cướp chính quyền tại miền Nam. Mỹ cùng một số
nước đồng minh can thiệp quân sự nhằm trợ giúp miền Nam nhưng do phạm sai lầm về
chiến lược nên họ đã thất bại thảm hại rồi buộc phải rời bỏ miền Nam sau Hiệp định
Paris được ký kết vào ngày 27 Tháng Giêng 1973. Sau cuộc chiến đấu trường kỳ đầy
quyết tâm kéo dài hơn 20 năm, Đảng Cộng sản Việt nam đã cướp được chính quyền tại
miền Nam, cũng tức là đã tiêu diệt được nền cộng hoà non trẻ tại
đây. Thủ đô cho nền cộng hoà non trẻ tại đây, tức là Sài gòn, sụp đổ
vào ngày 30 Tháng Tư 1975 đã đánh dấu một thắng lợi lớn nhất cho Đảng Cộng sản
Việt nam. Đảng Cộng sản Việt nam đã giành được độc quyền cai trị trên cả nước.
Về hệ
luỵ, do chủ trương cướp chính quyền bằng bạo lực nên
Đảng Cộng sản Việt nam đã gây ra Nội chiến Tương tàn suốt từ năm
1945 đến năm 1975 với quá nhiều chết
chóc, đau thương, thù hận, mất mát, đổ
vỡ, v. v., cho cả dân tộc Việt nam, bao gồm mọi
thành phần xã hội, cả phe ta lẫn phe địch, v. v., bắt
đầu từ Cách mạng Tháng Tám 1945 qua Hiệp định Geneve
1954 đến Thống nhất Đất nước 1975 rồi đến thực
trạng bi thảm đang diễn biến trầm trọng như hiện nay [13]. Nói về việc
thống nhất đất nước vào ngày 30 Tháng Tư 1975, Đảng Cộng sản Việt nam thường kể
công cho mình đã thống nhất được đất nước. Tuy nhiên, nếu nhìn lại nguyên nhân
dẫn đến việc chia cắt đất nước bằng Hiệp định Geneve 1954 thì những trí óc lành
mạnh sẽ nhận thấy ngay Đảng Cộng sản Việt nam chỉ hành động luẩn quẩn: chia
cắt đất nước bằng bạo lực rồi lại thống nhất đất nước bằng bạo lực, chẳng
khác gì “đánh bùn sang ao”, nhằm cướp được chính quyền trên cả nước. Đám
đông u mê vẫn ca tụng Đảng Cộng sản Việt nam phải tài giỏi lắm mới đạt được
thành tựu kinh hoàng như vậy. Sau khi cướp được chính quyền trên cả nước, Đảng
Cộng sản Việt nam tiến hành cải tạo xã hội bằng chuyên
chính vô sản. Do cải tạo xã hội bằng chuyên chính vô sản nên Đảng Cộng sản
Việt nam đã đạt được những thành tích kinh hoàng qua các
chính sách sai lầm [14]. Để nắm giữ được chính quyền bằng bạo lực trên
cả nước, Đảng Cộng sản Việt nam tự xác lập địa vị độc tôn cho mình bằng Điều
luật 4 trong Hiến pháp 1980. Điều luật này đã được bảo tồn
qua nhiều lần sửa đổi sau đó.
Bằng Điều
luật 4, Hiến pháp 1980 / 1992 / 2013 quy định Đảng Cộng
sản Việt nam nắm giữ toàn bộ quyền lực nhà nước, bao gồm cả ba quyền
lực khác nhau: lập pháp, hành pháp và tư
pháp, đồng thời áp đặt cho cả dân tộc Việt nam phải suy nghĩ theo Chủ
nghĩa Marx – Lenin để hành động theo
cái hệ tư tưởng đó, tức là dân chúng Việt nam phải phục tùng Đảng
Cộng sản Việt nam về mọi mặt. Điều luật này đã gây ra nhiều hậu quả
tai ác cho cả dân tộc Việt nam.
Về kinh
tế, lúc đầu Đảng Cộng sản Việt nam áp đặt mô
hình không tưởng từ Chủ nghĩa Marx – Lenin vào sinh
hoạt kinh tế bằng chính sách bao cấp. Chính sách này đã thất
bại nhanh chóng vào khoảng giữa thập niên 1980 khiến Đảng Cộng sản Việt nam phải
vội vã chuyển sang chính sách đổi mới. Gọi là đổi mới để
che giấu sự ngu dốt nhưng thật ra chỉ quay lại cái cũ muôn thuở, tức
là chấp nhận kinh tế thị trường để tránh sụp đổ.
Kinh tế thị trường đã cứu giúp Đảng Cộng sản Việt nam sống sót từ năm 1986 đến
nay. Tuy nhiên, kinh tế thị trường dựa trên chế độ độc tài lại dẫn đến những hậu
quả tai ác còn đáng sợ hơn cả những hậu quả tất yếu được sinh ra từ chính sách
bao cấp. Chính chế độ độc tài với đặc tính tham nhũng đã gây
ra thảm hoạ kinh tế: 1/ Ngân sách thâm thủng; 2/ Nợ nần chồng chất; 3/ Thất
nghiệp gia tăng; 4/ Tài nguyên cạn kiệt; 5/ Môi trường ô nhiễm; vân vân [15].
Thảm hoạ đó không chỉ được gây ra bởi nền độc tài cộng sản mà còn phải được gây
ra bởi mọi nền độc tài nói chung. Chế độ độc tài dù sống bằng kinh tế nào cũng
dẫn đến những tai hoạ như nhau.
Về chính
trị, Đảng Cộng sản Việt nam bị phân hoá sâu sắc dẫn đến
đấu đá nội bộ ngày càng khốc liệt. Trên thực tế, do dựa trên Chủ nghĩa Marx –
Lenin vốn đầy mâu thuẫn đối kháng giữa mục đích với phương
pháp được thể hiện qua các quan niệm trái ngược nhau nên
Đảng Cộng sản Việt nam đã bị phân hoá ngay từ ngày thành lập [16]. Nhưng chỉ từ
khi cướp được chính quyền tại miền Bắc trở về sau, do nắm độc quyền cai
trị nên Đảng Cộng sản Việt nam không thể tránh khỏi tranh giành quyền
lợi từ bên trong dẫn đến đấu đá nội bộ để các thế lực ngoại bang can thiệp lèo
lái Việt nam đi theo họ. Chính Vụ án Xét lại chống Đảng đã mở
màn cho đấu đá nội bộ với mức độ khốc liệt từ đấy về sau [17].
Hiện nay Đảng Cộng sản Việt nam có ba mâu thuẫn cơ bản: 1/ Mâu
thuẫn đối kháng giữa các đảng viên lãnh đạo vốn chỉ chiếm một
số ít với các đảng viên tay sai vốn phải chiếm đa
số, mâu thuẫn này thể hiện qua sự đối kháng nhau về địa vị chính trị giữa
các đảng viên lãnh đạo với các đảng viên tay sai, theo đó các đảng viên lãnh đạo
dùng các đảng viên tay sai làm phương tiện chính trị để cai
trị tất cả các thành phần khác trong nhân dân hoặc các đảng viên tay
sai chỉ làm phương tiện chính trị cho các đảng viên lãnh đạo cai trị tất cả các
thành phần khác trong nhân dân; 2/ Mâu thuẫn đối kháng giữa đảng viên
lãnh đạo với đảng viên lãnh đạo, mâu thuẫn này vừa thể hiện
qua sự tranh giành quyền lợi giữa các đảng viên lãnh đạo vừa
thể hiện qua sự đùn đẩy trách nhiệm giữa các đảng viên đó,
theo đó người nọ vừa tranh giành quyền lợi với người kia vừa đùn đẩy trách nhiệm
cho người kia; 3/ Mâu thuẫn đối kháng giữa đảng viên tay sai với đảng viên tay
sai, mâu thuẫn này vừa thể hiện qua sự đùn đẩy nghĩa vụ giữa
các đảng viên tay sai vừa thể hiện qua sự tranh giành cơ hội giữa
các đảng viên đó, theo đó người nọ vừa đùn đẩy nghĩa vụ tay sai cho
người kia vừa tranh giành cơ hội thăng tiến với người kia.
Chính các mâu thuẫn đó làm cho các đảng viên lãnh đạo trong Đảng Cộng sản Việt
nam bị phân hoá thành hai phe nhóm đối địch nhau được gọi là các nhóm lợi
ích. Bất cứ nền độc tài nào cũng có các mâu thuẫn đối kháng như vậy [18].
Theo Hiến pháp 1980 / 1992 / 2013 tác động bằng Điều luật 4, mâu
thuẫn đối kháng trong Đảng Cộng sản Việt nam phát tác cho cả xã hội Việt nam
thành mâu thuẫn đối kháng giữa Đảng Cộng sản Việt nam với dân chúng Việt nam để
xã hội Việt nam cũng bị phân hoá thành các lực lượng đối kháng nhau dẫn đến bất
ổn cho xã hội Việt nam.
Về văn
hoá – tư tưởng, do lấy Chủ
nghĩa Marx – Lenin làm kim chỉ nam cho mọi
hoạt động nên Đảng Cộng sản Việt nam bị suy thoái trầm trọng về văn
hoá – tư tưởng. Chủ nghĩa Marx – Lenin làm cho Đảng Cộng sản
Việt nam nhìn nhận sai lạc về đời sống xã hội,
không chỉ đánh giá sai lạc về tình hình thế giới mà
còn đánh giá sai lạc về tình hình Việt nam. Ví dụ: thế
giới hiện nay đang quá độ từ chế độ độc tài lên chế độ dân chủ nhưng Đảng
Cộng sản Việt nam lại xác quyết hàm hồ rằng: thế giới
ngày nay đang quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Khi được yêu
cầu định nghĩa cho khái niệm về cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ
nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt nam không thể thoả mãn được yêu cầu đó
mà đã bế tắc hoàn toàn về lý luận hoặc chỉ biết viện dẫn vài
ba câu thần chú được tạo tác tư biện bởi cả Karl Marx lẫn Friedrich
Engels. Việt nam hiện nay đang sống đau khổ dưới ách độc tài nhưng
Đảng Cộng sản Việt nam lại lớn tiếng tố cáo người khác bịa đặt như vậy. Đảng Cộng
sản Việt nam còn tin rằng Việt nam tương lai sẽ sống hạnh phúc trên
thiên đường cộng sản. Cứ xem Đảng Cộng sản Việt nam viết gì trong các
văn kiện chính trị sẽ biết ngay. Do Đảng Cộng sản Việt nam độc
quyền cai trị nên tư tưởng sai lầm trong Đảng Cộng sản Việt nam lan
tràn khắp xã hội Việt nam thông qua sự tuyên truyền dối trá qua nhiều
kênh thông tin với vai trò quan trọng nhất thuộc về cả báo
chí mị dân lẫn trường học chuyên chế. Tư tưởng sai lầm
không chỉ chi phối cách nghĩ cho mọi thành viên trong Đảng Cộng
sản Việt nam mà còn chi phối cách nghĩ cho đại đa số dân chúng Việt nam.
Về tính
cách, Hiến pháp 1980 / 1992 / 2013 với Điều luật
4 làm cho mâu thuẫn đối kháng trong Đảng Cộng sản Việt nam giữa các đảng
viên lãnh đạo vốn chỉ chiếm một số ít với các đảng viên tay sai vốn phải chiếm
đa số đang phát huy tác dụng tai ác ngày càng trầm trọng. Các đảng
viên lãnh đạo được hưởng hết mọi đặc quyền đặc lợi nhưng các đảng viên tay sai
lại phải bị chịu đựng hết mọi gánh nặng nghĩa vụ: họ bị áp bức nặng nề nhất, họ
đóng góp đảng phí chỉ để chầu rìa, họ đóng góp đảng phí chỉ để ca tụng lãnh tụ,
họ đóng góp đảng phí chỉ để làm tay sai, họ đóng góp đảng phí chỉ để bị bịt miệng,
họ đóng góp đảng phí chỉ để tự trói chặt mình vào ách nô lệ, họ đóng góp đảng
phí không phải để hưởng quyền lợi mà chỉ để chịu thua thiệt, họ đóng góp đảng
phí chỉ để không được nói thật mà phải nói dối, nếu trung thành thì họ chỉ được
ăn bánh vẽ nhưng nếu không trung thành thì họ sẽ bị trừng phạt vớ vẩn bởi các đảng
viên lãnh đạo. Tại sao các đảng viên tay sai không biết nhục nhã mà lại chấp nhận
cái ách nô lệ như thế hoặc thậm chí còn đắc chí tự hào về cái ách nô lệ như thế?
Họ phải thế nào về cả tư tưởng lẫn tâm
lý mới không biết nhục nhã mà lại chấp nhận cái ách nô lệ như thế hoặc
thậm chí còn đắc chí tự hào về cái ách nô lệ như thế! Do chấp nhận cái ách nô lệ
như thế nên họ không hề vô can với thảm hoạ xã hội mà
vừa làm tác nhân thụ động cho thảm hoạ đó vừa làm nạn
nhân chủ động cho thảm hoạ đó. Chính các đảng viên tay sai chấp nhận tự
làm hại mình để các đảng viên lãnh đạo mới có thể gây ra thảm hoạ xã hội bằng các
quyết định chính trị. Các đảng viên tay sai không trực tiếp làm hại
dân chúng bằng các quyết định chính trị nhưng gián
tiếp làm hại dân chúng bằng cả tư tưởng nô lệ lẫn tâm
lý nô lệ sau khi đã tự đặt mình vào ách nô lệ để không chỉ tự làm hại
mình mà còn làm hại dân chúng. Tư tưởng nô lệ cùng với tâm lý nô lệ làm cho các
đảng viên tay sai tự đặt mình vào ách nô lệ để mình bị sai khiến bởi các đảng
viên lãnh đạo. Các đảng viên lãnh đạo dùng các đảng viên tay sai làm phương
tiện đắc dụng nhất để cai trị dân chúng theo cơ chế độc tài.
Cơ chế đó không chỉ bảo tồn tâm lý nô lệ cho tất cả các đảng
viên tay sai mà còn gây ra tâm lý nô lệ cho mọi thành phần
khác trong xã hội độc tài. Sống theo chế độ độc tài dựa trên tư
tưởng nô lệ, đa số dân chúng tại Việt nam bị nô dịch nặng nề bởi chính cái
tư tưởng đó. Nhiều nô dân vẫn mong muốn gia nhập Đảng Cộng sản Việt nam để
làm đảng viên tay sai với hy vọng hão huyền rằng:
mình sẽ được làm đảng viên lãnh đạo mà không hiểu được rằng: chỉ
một số ít đảng viên tay sai mới có thể được làm đảng viên lãnh đạo làm cho đa số
đảng viên tay sai phải mãi mãi làm đảng viên tay sai. Nếu không hy vọng hão
huyền như vậy thì chỉ chứng tỏ họ lại càng mê muội hơn nữa. Nhiều đảng viên tay
sai vẫn mang nặng tâm lý vong thân y hệt như AQ đã
được tạo tác tài tình bởi Lỗ Tấn [19]. AQ sẵn sàng phục tùng kẻ
mạnh nhưng cũng sẵn sàng hiếp đáp kẻ yếu để rồi cuối cùng bị giết chóc bởi
chính cái mâu thuẫn đó. Nhưng thật đáng tiếc, nhiều nô dân cũng như đảng viên
tay sai hầu như không hiểu gì về AQ. Nếu hiểu được AQ thì họ sẽ khác. Họ cần phải
được khai sáng bởi tư tưởng khoa học về thực tại xã hội.
Ngược lại, nếu không được khai sáng bởi tư tưởng khoa học về thực tại xã hội mà
vẫn tiếp tục bị nô dịch nặng nề bởi tư tưởng nô lệ thì một khi trở thành đảng
viên lãnh đạo, họ cũng dễ dàng gây ra tội ác tày trời như các nhà độc tài tiền
bối. Tất cả đều bị lôi cuốn vào vòng xoáy ác nghiệt để gây ra tội ác triền
miên. Chính vì gây ra quá nhiều tội ác kinh hoàng cho dân tộc Việt nam nên nhiều
đảng viên lãnh đạo rất lo sợ bị lật đổ. Vì lo sợ bị lật đổ
nên họ sẵn sàng tiêu diệt ngay mọi tổ chức đối lập bằng bạo lực đẫm máu.
Họ chỉ có thể chấp nhận thay đổi chính trị khi có lực lượng chính trị
mang tinh thần khoan dung để không chỉ khoan dung đối với
họ mà còn phải cung cấp giải pháp cho họ.
Về nguy
cơ, do hội nhập kinh tế với thế
giới văn minh dựa trên chế độ dân chủ nên Đảng Cộng sản
Việt nam đang bị tấn công dữ dội về cả tư tưởng lẫn tổ
chức bởi nhiều thế lực chống phá ở cả bên
trong lẫn bên ngoài. Bên ngoài, tư tưởng khai sáng tràn
vào Việt nam đang tạo ra tầng lớp trí thức sống độc lập với Đảng
Cộng sản Việt nam về cả kinh tế lẫn tư tưởng vốn
sẽ làm tiền đề quan trọng nhất cho xã hội dân chủ trong
tương lai. Bằng cuộc sống độc lập như vậy, tầng lớp này không chỉ thúc
đẩy sự thay đổi nhận thức trong xã hội mà còn đang thúc đẩy sự
chuyển biến tư tưởng bên trong Đảng Cộng sản Việt nam làm cho Đảng Cộng
sản Việt nam ngày càng suy sụp. Bên trong, tình trạng tham nhũng song song với
đấu đá nội bộ nhằm tranh giành quyền lực độc đoán làm cho Đảng Cộng sản Việt
nam đang phải đối mặt với nguy cơ tan rã. Trước nguy cơ đó, Đảng Cộng
sản Việt nam không thể tránh khỏi bị phân hoá sâu sắc về cả tư tưởng lẫn chính
trị. Những thành phần bảo thủ sẽ kiên định Chủ nghĩa Marx – Lenin để bảo tồn chế
độ độc tài bằng bạo lực. Ngược lại, những thành phần cấp tiến sẽ từ bỏ Chủ
nghĩa Marx – Lenin để thoát khỏi chế độ độc tài bằng nhiều cách khác nhau.
Về thách
thức, Đảng Cộng sản Việt nam vẫn kiên định lấy Chủ nghĩa
Marx – Lenin làm hệ tư tưởng chính thức bằng Điều luật 4 trong Hiến
pháp 2013 để bảo tồn chế độ độc tài bằng bạo lực. Chủ nghĩa Marx –
Lenin vốn tôn thờ bạo lực luôn luôn kích động dân chúng tiêu diệt chính quyền bằng bạo
lực nhân danh bạo lực cách mạng nhưng Đảng Cộng sản
Việt nam cũng như Đảng Cộng sản Tàu lại tỏ ra dại dột cùng cực khi cố ý nhồi
nhét Chủ nghĩa Marx – Lenin cho dân chúng tại cả nước Tàu lẫn Việt nam: một mặt
họ rất lo sợ dân chúng bạo động nhằm trả thù họ khiến họ đàn
áp dân chúng bằng bạo lực đẫm máu nhưng mặt khác họ lại xúi giục dân
chúng bạo động bằng Chủ nghĩa Marx – Lenin vốn chỉ kích động dân chúng tiêu diệt
chính quyền bằng bạo lực nhân danh bạo lực cách mạng.
Chính cái vòng luẩn quẩn đó đã làm cho Đảng Cộng sản Việt nam lâm vào bế
tắc cùng cực về cả tư tưởng lẫn chính trị.
Chỉ có một lối thoát duy nhất cho Đảng Cộng sản Việt
nam: chủ động cải cách giáo dục, tức là thay thế nền giáo dục
nhồi sọ bằng nền giáo dục khai phóng, để dân chúng không nghĩ đến lật đổ
chính quyền bằng bạo lực mà chỉ nghĩ đến đòi hỏi dân chủ bằng phương
pháp ôn hoà, bất bạo động. Trên cơ sở đó, Đảng Cộng sản Việt
nam chủ động cải cách chính trị để hạ cánh an toàn.
Như thế sẽ tránh được đổ vỡ tang thương cho đất nước.
Về triển
vọng, hội nhập kinh tế với thế giới văn minh dựa trên chế
độ dân chủ có thể sẽ khuyến khích Đảng Cộng sản Việt nam cải cách chính trị. Đặc
biệt, khủng hoảng trầm trọng tại nước Tàu hiện nay có thể sẽ thúc đẩy Đảng Cộng
sản Việt nam thoát Tàu về cả tư tưởng lẫn chính trị. Chưa kể tư tưởng khai sáng
đang xâm nhập sâu rộng vào Đảng Cộng sản Việt nam có thể sẽ thúc đẩy tất cả các
xu thế đó? Tuy nhiên, nhiều người không tin vào triển vọng này!
Kết
luận: Đảng Cộng sản Việt nam vốn dĩ theo đuổi mục
đích tốt (giải phóng dân tộc Việt nam) bằng phương pháp xấu (cả bạo
lực cách mạng lẫn chuyên chính vô sản) dẫn đến nhiều
thảm hoạ kinh hoàng cho dân tộc Việt nam, như Nội chiến Tương
tàn từ năm 1945 đến năm 1975, tình trạng đói khổ từ năm 1976 đến
năm 1986 với chính sách bao cấp đầy bệnh hoạn, khủng hoảng toàn diện
đang diễn biến trầm trọng với tổn thất to lớn nhất thuộc về sự suy thoái đạo đức, v.
v.. Đảng Cộng sản Việt nam chưa tạo ra được thành quả tốt đẹp cho dân tộc
Việt nam. Kinh tế thị trường đầy bệnh hoạn không chỉ hiện hữu muộn mằn tại Việt
nam mà còn hiện hữu sớm sủa ở nhiều nước khác, kể cả các nước độc tài. Đảng Cộng
sản Việt nam không thể dựa vào kinh tế đó để kể công với dân tộc Việt nam. Kết
quả đó trái ngược hoàn toàn với mục đích tốt được xác định cho Đảng Cộng sản Việt
nam. Mục đích tốt đã bị huỷ diệt triệt để bởi phương pháp xấu khiến Đảng Cộng sản
Việt nam đang lúng túng cùng cực trước ngã ba đường lịch sử.
Tôi viết tiểu luận này nhằm tưởng niệm Hồ Chí Minh vốn
được công nhận đã khai sinh cho Đảng Cộng sản Việt nam đồng thời tưởng niệm tất
cả các nạn nhân cho chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới!
HÀ
HUY TOÀN
____________________________
[1] Nguyễn Minh Cần: Đảng Cộng sản Việt nam
qua những biến động trong phong trào cộng sản quốc tế. Nhà xuất bản Tuổi
Xanh, USA 2001. Sách giáo khoa về Lịch sử Việt nam tuy cũng
xác nhận Quốc tế Cộng sản đã chỉ đạo Hồ Chí Minh hợp nhất ba tổ chức cộng
sản thành Đảng Cộng sản Việt nam nhưng lại nói Nguyễn Ái Quốc có quyền
quyết định đối với mọi vấn đề liên quan với phong trào cách mạng ở
Đông dương (Bộ Giáo dục và Đào tạo: Lịch sử 12. Nhà xuất bản Giáo dục,
Hà nội 2008. Từ trang 87 đến trang 89). Một vấn đề nghiêm trọng được đặt ra
ngay ở đây: Ai đã trao quyền quyết định cho Nguyễn Ái Quốc?
[2] Trần Văn Giàu: Giai cấp công nhân Việt
nam. Hà nội 1958, trang 487. Xem thêm tài liệu khác được
trích dẫn ở chú thích 1. Sách giáo khoa về Lịch sử Việt nam nói
có thêm Nguyễn Đức Cảnh đại biểu cho Đông dương Cộng sản Đảng
đến dự cuộc họp này (Bộ Giáo dục và Đào tạo: Lịch sử 12. Nhà xuất bản
Giáo dục, Hà nội 2008. Từ trang 87 đến trang 89). Tôi không biết thông tin đó
đúng hay sai nhưng tôi thấy sách đó mô tả cuộc họp này không bệ rạc nhếch nhác
như Trần Văn Giàu kể lại mà còn tỏ ra rất hoành tráng đàng hoàng. Theo Nguyễn
Minh Cần, việc giả vờ làm khán giả xem đá bóng để họp cũng như nhiều việc
khác sau đó đã cho thấy cả tính chất âm mưu lẫn tính
chất lưu manh ở Đảng Cộng sản Việt nam ngay từ khi được thành lập.
Nguyễn Minh Cần còn chứng minh được các tính chất đó cũng có ở tất cả các Đảng
Cộng sản nắm độc quyền cai trị ở các nước khác.
[3] Bộ Giáo dục và Đào tạo: Lịch sử 12.
Nhà xuất bản Giáo dục, Hà nội 2008. Từ trang 87 đến trang 89. Xem thêm tài liệu
khác được trích dẫn ở chú thích 1.
[4] Nguyễn Minh Cần: Sách đã dẫn ở chú
thích 1.
[5] Bộ Giáo dục và Đào tạo: Lịch sử 12.
Nhà xuất bản Giáo dục, Hà nội 2008. Từ trang 87 đến trang 89.
[6] Hà Huy Toàn: Nho giáo - Một
hệ tư tưởng nguy hiểm. Dân Luận, cả phần 1 được đăng tải
vào ngày 10 Tháng Tám 2015 (https://www.danluan.org/tin-tuc/20150810/ha-huy-toan-nho-giao-mot-he-tu-tuong-nguy-hiem-1)
lẫn phần 2 được đăng tải vào ngày 12 Tháng Tám 2015 (https://www.danluan.org/tin-tuc/20150810/ha-huy-toan-nho-giao-mot-he-tu-tuong-nguy-hiem-2).
[7] Nguyễn Gia Kiểng: Tổ quốc Ăn năn.
Thông Luận, Paris 2004.
[8] Friedrich August von Hayek: The Road To
Serfdom (Con đường Dẫn đến Nô lệ). Phạm Nguyên Trường chuyển dịch từ
Anh văn sang Việt ngữ với một tiêu đề khác: Đường về Nô lệ. Nhà xuất
bản Tri thức, Hà nội 2008. F. A. Hayek đã cho biết: “… Hiện nay chỉ cần nói rằng
chủ nghĩa cá nhân, có nguồn gốc từ Chúa giáo cùng với cả Triết
học Cổ xưa, vào Thời đại Phục hưng đã được thể hiện trọn vẹn
rồi đặt nền móng cho cái được gọi là nền Văn minh Tây phương. Nó có
đặc điểm chủ yếu là tôn trọng cá nhân như nó vốn là, nghĩa là trong sinh hoạt,
dù đó có đặc thù đến đâu, mỗi người hoàn toàn có quyền giữ quan điểm riêng cũng
như sở thích riêng và niềm tin rằng mỗi người cần phải phát triển những năng
khiếu đã được ban cho bởi Tạo hoá” (trang 71).
[9] Hà Huy Toàn: Chủ nghĩa Marx. Dân Luận,
ngày 15 Tháng Tám 2015 (https://www.danluan.org/tin-tuc/20150814/ha-huy-toan-chu-nghia-marx).
Nhân tiện đây tôi xin lưu ý rằng: những người cộng sản trên khắp thế giới thường
gán ghép công lao to lớn cho Karl Marx (1818 – 1883) đã xác lập quan
niệm duy vật về lịch sử, theo đó nhân loại cần phải ăn, mặc, ở, đi
lại, giải trí, v. v., tức là phải sử dụng
tư liệu tiêu dùng, mới có thể sống được. Thật ra, quan niệm
đó đã được đưa ra lần đầu tiên bởi Thomas Robert
Malthus (1766 – 1834) khi tuyên bố rõ ràng rằng: “Thứ
nhất, thực phẩm cần thiết cho sự sống của nhân loại. Thứ
hai, tình dục cũng cần thiết cho sự sống của nhân loại, và
mãi mãi sẽ không thay đổi” (Xem Thomas Robert Malthus: An Essay on
the Principle of Population. J. Johnson, in St. Paul’s Church-yard. London
1798. Có thể xem tác phẩm đó bằng Anh văn trên Internet (http://www.econlib.org/library/Malthus/malPop.html).
Tác phẩm đó được xuất bản lại với quy mô đồ sộ vào
năm 1826 nhưng vẫn giữ nguyên các nguyên tắc cơ bản được đề xuất ban đầu
theo ấn bản 1798. Độc giả có thể xem thêm Robert B. Downs: Books
That Changed The World. New American Library, 1956. Hoài Châu cùng Từ Huệ
chuyển dịch từ Anh văn sang Việt ngữ: Những tác phẩm làm biến đổi thế
giới. Nhà xuất bản Văn đàn, Sài gòn 1970. 400 trang. Tác phẩm thứ bốn (Thomas
Robert Malthus với Nguyên tắc Dân số) từ trang 89 đến trang 109. Vũ Đình
Phòng cùng Lê Huy Hòa đã xào nấu cẩu thả ấn phẩm đó thành “Những
luận thuyết nổi tiếng thế giới” được xuất bản bằng Việt ngữ bởi Nhà
xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà nội 1999. 520 trang. Luận thuyết thứ bốn (Thomas
Robert Malthus với Nguyên tắc Dân số) từ trang 89 đến trang 109. Ngoài ra,
độc giả cũng rất nên xem thêm lý thuyết kinh tế được tạo tác
công phu bởi Thomas Robert Malthus: Principles of Political Economy,
1820 (https://en.wikipedia.org/wiki/Principles_of_Political_Economy_(Malthus]).
Xem thông tin về Thomas Robert Malthus tại Bách khoa
Toàn thư Mở bằng Anh văn (https://en.wikipedia.org/wiki/Thomas_Robert_Malthus)
hoặc Pháp ngữ (https://fr.wikipedia.org/wiki/Thomas_Malthus)
hoặc Việt ngữ (https://vi.wikipedia.org/wiki/Thomas_Malthus), v.
v.). Trước Thomas Robert Malthus, Adam Smith (1723 – 1790)
cũng đã xác lập được những nền tảng đầu tiên cho quan niệm đó
(Xem Adam Smith: An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of
Nations (Nghiên cứu về Bản chất và Nguồn gốc của Của cải của các Quốc
gia). W. Strahan and T. Candell, London 1776. Đỗ Trọng Hợp chuyển dịch từ
Anh văn sang Việt ngữ: Của cải của các Dân tộc. Nhà xuất bản Giáo dục,
Hà nội 1997. 912 trang. Có thể xem tác phẩm này bằng Anh văn trên
Internet (http://www.ifaarchive.com/pdf/smith_-_an_inquiry_into_the_nature_and_causes_of_the_wealth_of_nations%5B1%5D.pdf).
Độc giả có thể xem thêm Robert B. Downs: Books That Changed The World.
New American Library, 1956. Hoài Châu cùng Từ Huệ chuyển dịch từ Anh văn sang
Việt ngữ: Những tác phẩm làm biến đổi thế giới. Nhà xuất bản Văn
đàn, Sài gòn 1970. 400 trang. Tác phẩm thứ ba (Adam Smith với Quốc phú luận)
từ trang 65 đến trang 88). Do hiểu sai hoặc không hiểu
đúng về lịch sử tư tưởng nên những người cộng sản ở
đâu cũng ngu dốt như nhau.
[10] Hà Huy Toàn: Sự tương đồng giữa Nho
giáo với Chủ nghĩa Marx. Dân Luận, ngày 05 Tháng Mười một 2015 (https://www.danluan.org/tin-tuc/20151104/ha-huy-toan-su-tuong-dong-giua-nho-giao-va-chu-nghia-marx).
[11] Độc giả nên tham khảo thêm Lê Minh với những
tác phẩm đặc sắc sau đây: 1/ 中国人为什么这么愚蠢?- 黎 鸣. Bản dịch Việt ngữ: Vì sao người Tàu ngu thế? Nghiên cứu Quốc
tế, ngày 28 Tháng Tám 2016 (http://nghiencuuquocte.org/2016/08/28/vi-sao-nguoi-trung-quoc-ngu/).
2/ 中国人应该感谢撒切尔夫人 — 中国人再过一百年,也不会有“新思想? 黎 鸣. Bản dịch Việt ngữ: Một
trăm năm nữa Trung quốc cũng chưa có tư tưởng gì mới? Nghiên cứu Quốc tế,
ngày 05 Tháng Bảy 2016 (http://nghiencuuquocte.org/2016/07/05/100-nam-nua-trung-quoc-cung-khong-co-tu-tuong-gi-moi/).
Tác phẩm này đã đúng đắn khi đổ hết tội lỗi cho Nho giáo nhưng
lại sai lầm khi biện minh cho Đạo giáo. Lưu Á Châu đã đi xa hơn khi
phê phán cả Nho giáo lẫn Đạo giáo. Hãy xem Lưu Á Châu phê phán Văn hóa
Tàu: Tướng Trung quốc bàn về niềm tin và đạo đức. Nguyễn Hải Hoành
giới thiệu và lược dịch. Tuần Việt nam ngày 15 Tháng Tám 2010 (http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2010-08-15-niem-tin-va-dao-duc); Tướng
Lưu Á Châu bàn về văn hoá Trung quốc. Nguyễn Hải Hoành lược dịch. Tuần Việt
nam ngày 31 Tháng Tám 2010 (http://tuanvietnam.net/2010-08-30-tuong-luu-a-chau-ban-ve-van-hoa-trung-quoc);
Vũ Hồng Ngự: Đọc Lưu Á châu để hiểu thêm một số vấn đề về Trung quốc (kỳ
1), Hồn Việt ngày 01 Tháng Ba 2016 (http://honvietquochoc.com.vn/bai-viet/2443-doc-luu-a-chau-de-hieu-them-mot-vai-van-de-ve-trung-quoc-ky-1-cuoc-chien-viet-nam-1979.aspx);
Vũ Hồng Ngự: Đọc Lưu Á châu để hiểu thêm một số vấn đề về Trung quốc (kỳ
cuối), Hồn Việt ngày 01 Tháng Ba 2016 (http://honvietquochoc.com.vn/Chuyen-bon-phuong/Doc-Luu-A-Chau-de-hieu-them-mot-vai-van-de-ve-TQ-2.aspx); vân
vân. Đối phó với làn sóng dân chủ đang dâng cao, Cộng sản Tàu ra sức khôi
phục Nho giáo. Xem Nguyễn Hải Hoành: Tại sao Tập Cận Bình muốn phục hồi
Khổng Tử? Nghiên cứu Quôc tế, ngày 25 Tháng Tư 2016 (http://nghiencuuquocte.org/2016/04/25/tai-sao-tap-can-binh-muon-phuc-hoi-khong-tu/).
[12] Hà Huy Toàn: Chính trị học cho Việt nam?
Dân Luận, ngày 06 Tháng Hai 2017 (https://www.danluan.org/tin-tuc/20170206/chinh-tri-hoc-cho-viet-nam).
[13] Phạm Đình Trọng: Bi kịch Việt nam.
Dân Luận, ngày 07 Tháng Hai 2012 (https://www.danluan.org/tin-tuc/20120207/pham-dinh-trong-bi-kich-viet-nam).
[14] Nguyễn Đình Cống: Đại Bi kịch Việt nam.
Ba Sàm, ngày 24 Tháng Mười 2016 (https://anhbasam.wordpress.com/2016/10/24/10-548-dai-bi-kich-viet-nam/).
[15] Có thể xem Nguyễn Vũ Bình: So sánh nền
kinh tế thị trường và nền kinh tế Việt nam. Đài Á châu Tự do Vệt ngữ, ngày
15 Tháng Hai 2016 (http://www.rfavietnam.com/node/3049).
[16] Nguyễn Minh Cần: Sách đã dẫn. Xem
thêm chú thích 9.
[17] Xem thông tin về Vụ án Xét lại Chống Đảng tại Bách
khoa Toàn thư Mở bằng Việt ngữ (https://vi.wikipedia.org/wiki/Vụ_án_Xét_lại_Chống_Đảng).
Truy cập ngày 10 Tháng Tư 2017.
[18] Triết lý chính trị của tôi dựa trên một
tiên đề cơ bản cho rằng: nhân loại bao gồm các cá nhân vừa giống
nhau vừa khác nhau, khác nhau về cả thể chất lẫn tinh
thần nhưng giống nhau về bản năng sinh tồn, tức là bản
năng ham sống hoặc bản năng sợ chết, bản năng này làm
nên bản tính vị kỷ ở mọi cá nhân sống vào mọi
lúc. Bản tính vị kỷ vừa tồn tại xuyên không gian vừa tồn
tại vượt thời gian, tức là tồn tại cố định hoặc tồn
tại bất biến, cũng giống như vận tốc cho ánh sáng trong chân không thuộc
về Hệ thức Einstein được xác lập bởi Albert Einstein (1879
– 1955) vốn phát biểu rằng: bất cứ một vật thể nào cũng có năng lượng bằng
khối lượng nhân với vận tốc cho ánh sáng trong chân không rồi lại nhân với vận
tốc cho ánh sáng trong chân không, tức là E = m.c2.
Trong đó: E = năng lượng, m = khối lượng, c = vận
tốc cho ánh sáng trong chân không, c luôn luôn bằng 299.792.458 m/s,
tức là c tồn tại cố định hoặc tồn tại bất biến. Hệ
thức Einstein đã đập tan chủ nghĩa duy vật biện chứng được xác
lập bởi cả Karl Marx (1818 – 1883) lẫn Friedrich
Engels (1820 – 1895) vốn phát biểu rằng: mọi sự vật đều luôn
luôn biến đổi hoặc không có sự vật nào mà không biến đổi.
Do không thừa nhận bất cứ cái gì có thể tồn tại cố định hoặc tốn
tại bất biến mà chỉ tuyệt đối hoá sự biến đổi như vậy
nên chủ nghĩa duy vật biện chứng được áp dụng vào đời sống xã hội đã dẫn đến nền
độc tài cộng sản vốn chỉ gây ra đổ vỡ tang thương như
mọi người đều đã biết. Chủ nghĩa duy vật biện chứng đối lập hẳn với triết lý
chính trị của tôi vốn sẽ dẫn đến chính thể cộng hoà hoặc chế
độ dân chủ nhờ phát hiện được bản tính vị kỷ luôn
luôn tồn tại cố định hoặc tồn tại bất biến đòi
hỏi xã hội phải được tổ chức theo chính thể cộng hoà hoặc chế
độ dân chủ để tránh đổ vỡ tang thương. Cũng chính nhờ vậy
mà triết lý chính trị của tôi đã giải thích được chính xác bằng khoa học nguyên
nhân dẫn đến đấu đá nội bộ ngày càng khốc liệt trong chế độ độc tài, đó
là sự tập trung quền lực vào một số ít người lãnh đạo tối cao bằng luật
lệ mù quáng hoặc luật lệ bất công. Cái luật lệ này lại dựa
trên một hệ tư tưởng sai lầm về đời sống xã hội. Sự tập trung quyền
lực vào một số ít người lãnh đạo tối cao bằng luật lệ bất công làm cho bản tính
vị kỷ chỉ thúc đẩy người ta triệt hạ lẫn nhau: quan chức vừa triệt hạ dân chúng
vừa triệt hạ lẫn nhau làm cho dân chúng cũng triệt hạ lẫn nhau. Muốn thoát khỏi
tai hoạ đó, cần phải thay thế chế độ độc tài bằng chế độ dân chủ. Triết lý
chính trị của tôi đã kết luận như vậy.
[19] Tôi xin mở ngoặc về Lỗ Tấn (1881
– 1936). Tác gia này đã hiểu biết đúng đắn về Nho giáo. Sự hiểu biết
đó đã thể hiện rõ ràng qua việc phê phán nghiêm khắc đối với cái hệ tư tưởng
kia. Nhưng Lỗ Tấn lại hiểu biết sai lạc về chủ nghĩa cộng sản khiến
ông đã tin theo hệ tư tưởng đó để phò tá Mao Trạch Đông (1893
– 1976). Về sau Nam Cao (1915 – 1941) đã lặp lại Lỗ Tấn tại Việt
nam. Tuy nhiên, Chí Phèo lại tỏ ra hơn hẳn AQ.
Chí Phèo không bất công, không nịnh trên nạt dưới, không
cậy mạnh hiếp yếu, v. v., như AQ, mà rất
bình đẳng, dám chửi tất cả, thách thức tất cả, v.
v., hơn hẳn AQ! Sự thể này cho thấy văn chương của Nam
Cao đã bước đầu trở thành “Thuốc” với công hiệu cứu
sinh vốn phải có ở thuốc làm cho Chí Phèo bước đầu
thoát khỏi số phận vong thân. Cả Chí Phèo lẫn AQ đều phải chết như mọi người
đều phải chết nhưng Chí Phèo chết bởi chính mình khác hẳn AQ
chết bởi kẻ khác. AQ không có khả năng tự chủ nhưng
Chí Phèo đã có khả năng đó. Vấn đề tư tưởng được đặt ra ở đây không phải là tự
sát mà là tự chủ. Tôi không nói về tự sát mà chỉ nói về tự chủ. Vốn xác
tín vào Chúa giáo (Christianity), Nam Cao chắc chắn
không chấp nhận việc tự sát mà chỉ mượn việc “tự sát” để
nói về việc tự chủ. Tại sao Chí Phèo không bất công, không
nịnh trên nạt dưới, không cậy mạnh hiếp yếu, v. v., như
AQ, mà rất bình đẳng, dám chửi tất cả, thách
thức tất cả, v. v., hơn hẳn AQ? Có lẽ Chí Phèo cảm
thấy mình chỉ làm nạn nhân cho mọi người xung quanh (cả cha
mẹ, cả hàng xóm, cả quan chức, và cả làng
nước) vốn bị nô dịch nặng nề bởi Nho giáo (儒 教) khiến Chí Phèo hành xử triệt để như
vậy. Tại sao Chí Phèo chửi cả cha mẹ? Nam Cao đã trả lời ngay từ đầu
rằng: cha mẹ từ bỏ Chí Phèo ngay từ khi sinh ra Chí Phèo trong
cái lò gạch bỏ không khiến Chí Phèo lớn lên hận đời mà chửi cả
cha mẹ. Tuy Nam Cao không chỉ ra nguyên nhân nào dẫn đến thảm
kịch đó nhưng độc giả thông thái có thể hiểu được ngay
chính Nho giáo đã làm cho cha mẹ hãm hại con cái, chồng
ngược đãi vợ, vua chúa áp bức dân chúng, để rồi tất cả
đều bị vong thân (bị mất mình: không chỉ bị mất nước mà còn bị mất tất
cả). Vậy Chí Phèo chính là một đòn đánh chí tử nhằm vào Nho
giáo. Về điểm này, Nam Cao không chỉ vượt qua Lỗ Tấn mà
còn đã đi trước cả Theodor Ludwig Wiesengrund Adorno (1903
– 1969) vốn xác quyết chính xác rằng bất cứ cộng đồng nào muốn vươn
lên trưởng thành cũng phải “giết cha” theo ý nghĩa tinh
thần, tức là phải chống lại cái ách chuyên chế về cả chính
trị lẫn tư tưởng.
Bài viết chuẩn không cần chỉnh.
ReplyDelete