Fri,
02/19/2016 - 13:22 — songchi
Bài
báo thứ nhất “Đánh bom khách sạn
Caravelle ghi dấu lịch sử” đăng ngày 15.2 trên báo Tuổi Trẻ. Đọc
xong tự hỏi: Không hiểu sao đến giờ này mà họ còn tự hào về những chuyện như thế
này?
Đánh
bom một khách sạn ngay giữa trung tâm thành phố, mặc dù viện cớ là“nơi quan
chức Mỹ và Việt Nam cộng hòa thường lui tới hội họp” nhưng cũng có rất
nhiều nhà báo nước ngoài, dân thường…rõ ràng là coi thường sinh mạng con người,
mà mục đích chỉ là “để đối phương không đắc chí”, nhưng thật ra là đánh ai?
“Có
điều việc nổ bom hôm đó đã không như dự kiến bởi hầu hết các nhà báo ở khách sạn
Caravelle thay vì đi ăn trưa và sẽ lãnh trọn sức nổ của trái bom, thì họ lại bận
rộn theo dõi và tường thuật vụ sinh viên đòi Nguyễn Khánh phải từ chức!”
Đánh
bom cả những nhà báo quốc tế, những người chỉ làm công việc của họ là đưa tin về
những gì đang diễn ra? Như vậy mục đích thật sự là lấy tiếng, đồng thời gây tâm
lý hoang mang xáo trộn trong người dân và phá hoại cuộc sống bình thường ở các
đô thị miền Nam, bất chấp sinh mạng những người vô tội, không liên can.
Ai
sống ở miền Nam thời hai miền Nam Bắc đánh nhau hẳn còn nhớ, những vụ đánh bom,
ám sát…thường xuyên xảy ra tại Sài Gòn và các đô thị miền Nam, tại những nơi
đông người như khách sạn, rạp hát, nhà hàng… Điển hình là vụ đánh bom Câu lạc bộ
Gôn Sài Gòn năm 1960, vụ rạp hát Kinh Đô bị đánh bom năm 1964, khách sạn
Caravelle bị đặt bom năm 1964, nhà hàng nổi Mỹ Cảnh trên sông Sài Gòn bị đặt
bom năm 1965, vụ trường tiểu học Cai Lậy (Tiền Giang) bị trúng đạn pháo kích
năm 1973…
Một
số vụ ám sát như Nguyễn Văn Trỗi đặt bom trên cầu Công Lý, dự định ám sát Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ McNamara năm 1963, ám sát ký giả Từ Chung của tờ Chính
Luận năm 1965, ám sát Nguyễn Xuân Chữ, Bộ trưởng Bộ Chiến tranh tâm lý năm
1966, ám sát Trần Văn Văn, Chủ tịch Quốc hội Sài Gòn năm 1966, ám sát giáo sư
Nguyễn Văn Bông là Viện trưởng Học viện Quốc gia Hành chánh năm 1971... Ở nông
thôn thì đặt mìn, giật sập cầu, phá đường…biết bao nhiêu dân thường phải chết
oan.
Những
việc làm này có khác gì với những hành động khủng bố của các tổ chức Hồi giáo cực
đoan bây giờ? Đừng viện lý do thời chiến tranh. Chiến tranh, hai bên nã súng,
ném bom vào nhau ngoài chiến trường là chuyện khác, còn đặt bom, gài mìn, pháo
kích vào những chỗ đông người giết hại cả dân thường là khủng bố. Nhưng nếu người
miền Nam nói thì người dân miền Bắc hoặc các thế hệ sinh sau đẻ muộn lại không
tin, chỉ khi báo chí chính thức hả hê kể lại chiến công như thế này “Những
trận đánh nổi danh 'Biệt động Sài Gòn' (báo CAND), “Tôi ám sát
người sắp làm thủ tướng Sài Gòn” (Dân Việt) hay bây giờ là bài
này, “Đánh bom khách sạn Caravelle ghi dấu lịch sử” (Tuổi Trẻ)
v.v… thì khỏi còn tranh cãi chuyện có thật hay không nữa!
Bài
báo thứ hai “Có một hòa thượng…
biệt động Sài Gòn” được báo Tiền Phong đăng lại ngày 19.2 theo nguồn
báo An Ninh Thế Giới. Thật ra những loại bài viết ca tụng chiến công “cách mạng”,
ca tụng những con người “cách mạng” này lúc nào cũng đầy dẫy trên những tờ báo
đậm đặc tính đảng như báo Nhân Dân, Quân đội Nhân dân, Công an Nhân dân, Công
An TP.HCM, An Ninh Thế Giới…Không sao kể xiết. Chỉ là nhân tiện đọc và có những
suy nghĩ về hai bài báo này mà thôi.
Bài “Có
một hòa thượng… biệt động Sài Gòn” viết về nhân vật Hòa thượng Thích
Viên Hảo, từng là trụ trì tại chùa Tam Bảo ở đường Dương Công Trừng, quận 10,
SG, rồi trụ trì Chùa Thiện Hạnh, nằm trong con hẻm nhỏ trên đường Đinh Tiên
Hoàng, quận 1, SG cho đến ngày viên tịch 15.7.2005.
Theo
bài báo, Hòa thượng Thích Viên Hảo là người tu hành, nhưng lại tham gia “cách mạng”,
tham gia biệt động thành, một tổ chức của Việt Cộng trước đây chuyên hoạt động
ngầm trong lòng chế độ VNCH từ dò la, do thám tin tức tình báo cho tới đặt bom,
gài mìn, ám sát…các nhân vật có liên quan đến Mỹ và chính quyền VNCH nhưng thường
cũng gây ra cái chết cho bao nhiêu dân thường vô tội như vừa nói trên. Nhân vật
trong bài báo “đi đó đây hành phật sự, gặp các phật tử, đến các chùa… tụng
kinh, niệm Phật và thuyết pháp nhưng đó chỉ là vỏ bọc bên ngoài. Thực chất ông
đã trở thành chiến sĩ hoạt động cách mạng, có nhiệm vụ dò la địch tình, giao nhận
tin tức tình báo…”, còn ngôi chùa Tam Bảo thì “đã trở thành nơi đi
về, hội họp bí mật của đội biệt động thành trong một thời gian dài.”
Trong
vụ Mậu Thân 1968, vị sư này ”vận chuyển vũ khí, đạn dược về cho cơ sở nội
thành tập kết chuẩn bị cho cuộc tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân. Rất nhiều lần,
nhà sư dùng xe gắn máy đi Củ Chi chở chất nổ, súng K54, súng và đạn cối 81 ly”…
Đã
đi tu, thấm nhuần tư tưởng triết lý của Phật giáo, thế nhưng Hòa thượng Thích
Viên Hảo đã phạm luôn những giới luật hết sức nghiêm trọng của đạo Phật. Một là
gian dối, khi dùng vỏ bọc tu hành để đi hoạt động tình báo, biến những hoạt động
giảng giải Phật pháp thành chuyện khác, biến ngôi chùa thành nơi trú ẩn của biệt
động thành… Hai là sát sanh, nhà sư tất thừa biết đạo Phật ngăn cấm sát sanh dù
chỉ là một con kiến con muỗi, thế nhưng lại chở vũ khí, lên sơ đồ các trận đánh
để giết người, cho dù lúc đó ông ta tin rằng đó là kẻ thù, là địch. Không chỉ
thế, cả đời nhà sư hoạt động chính trị, được “thưởng nhiều huân chương cao quý
của đảng cộng sản” cho đến tận ngày qua đời.
Bài
báo này, cũng như bài báo trên Tuổi Trẻ nói trên và rất nhiều bài báo khác nữa,
đã tự mình tố cáo những việc làm của đảng cộng sản VN trước đây, đó là đánh phá
chế độ VNCH từ trong lòng phá ra, và không từ bất cứ một biện pháp nào từ đặt
bom, gài mìn, ám sát, chuẩn bị cho vụ tấn công Tết Mậu Thân 1968, với âm mưu sẽ
tổ chức tấn công bất ngờ vào dịp Tết là dịp mà trong nhiều năm hai bên đã có thỏa
thuận không chính thức ngừng bắn 3 ngày Tết để đồng bào vui Xuân. Bài báo vẫn
tiếp tục ca ngợi những “chiến công” trong cuộc chiến với Mỹ và với miền Nam VN,
vẫn gọi địch, chúng…với giọng điệu căm thù.
Trong
suốt thời gian chiến tranh và hơn 40 năm qua, năm nào đảng và nhà nước cộng sản
VN cũng tổ chức kỷ niệm, ăn mừng tưng bừng, trọng thể những dịp có liên quan đến
cuộc chiến, nhất là ngày 30.4. Báo chí truyền thông vẫn được huy động thường
xuyên để nhắc nhớ đến chiến thắng của đảng, đến tội ác của “địch”, những cuốn
sách, bộ phim về đề tài này vẫn tiếp tục ra đời…như muốn người dân đừng quên.
Một
tỷ lệ khác biệt rất lớn cả về quy mô, số lượng và chất lượng tuyên truyền nếu
so với việc nhắc nhở đến cuộc chiến tranh biên giới 1979, 1984, hải chiến Hoàng
Sa 1974, Trường Sa 1988… với Trung Cộng. Trong khi trên thực tế chế độ VNCH đã
“chết” từ lâu không còn là một mối đe đọa nữa, quan hệ Việt-Mỹ đã trở thành
bình thường từ nhiều năm qua, thậm chí nhà nước VN còn đang phải trông cậy ở Mỹ
rất nhiều để đối phó với mối nguy bị xâm phạm chủ quyền, độc lập toàn vẹn lãnh
thổ lãnh hải từ phía Trung Cộng. Ngược lại, Trung Cộng trước đây và hiện nay vẫn
luôn và đang là mối đe dọa lớn nhất, kẻ thù thường trực và thâm độc nhất của
VN.
Nếu
VN lại phải có một cuộc chiến tranh nào xảy ra trong tương lai thì chắc chắn sẽ
là cuộc chiến tranh với Trung Quốc chứ không phải với Mỹ, càng không phải với
VNCH đã chết. Vậy nhưng nhà nước cộng sản VN lại sử dụng rất ít công sức, nguồn
lực cho sự tuyên truyền về những hành động của Trung Quốc trong quá khứ vả hiện
tại. Cuộc chiến tranh biên giới 1979 trong rất nhiều năm không hề được nhắc tới
một cách công khai, năm nay tuy báo chí đã nhắc tới nhưng vẫn không phải là nhiều,
những hành động biểu tình tưởng niệm cuộc chiến này, tưởng niệm việc mất Hoàng
Sa Trường Sa hay phản đối những hành động hung hăng, xâm phạm chủ quyền, quân sự
hóa biển Đông của Trung Quốc của người dân đều bị ngăn cấm, đàn áp, nhiều người
còn bị bỏ tù, bị trù dập, xách nhiễu…
Liệu
có thể xem đó là những hành động khôn ngoan về mặt ngoại giao, bảo vệ chủ quyền
của đảng và nhà nước cộng sản VN?
Và
đối với mấy triệu người Việt rời nước ra đi vì lý do không chấp nhận chế độ cộng
sản, liệu họ có tin tưởng nổi vào những lời nói ngon nói ngọt “xóa bỏ hận thù,
hòa hợp hòa giải” của nhà cầm quyền khi báo chí nhà nước vẫn cứ ngùn ngụt căm
thù chế độ VNCH như thế?
Còn
đối với người dân trong nước, thời buổi bây giờ không phải như trước đây vài chục
năm, mười năm, khi người dân hầu hết còn bị bịt mắt bịt tai tin vào những luận
điệu tuyên truyền một chiều, bóp méo sự thật của đảng và nhà nước cộng sản. Khi
báo chí nhà nước hồ hởi kể lại những hành động khủng bố thời xưa, hay tự thừa
nhận những huyền thoại một thời từ Lê Văn Tám, Nguyễn Văn Bé, Nguyễn Văn Trỗi…là
không có thật hoặc có những chi tiết không đúng, hoặc được tô vẽ quá nhiều…thì
chính là nhà nước này đã tự vả vào mặt mình, củng cố những điều mà người dân đã
không còn tin từ lâu.
Trên
bình diện quốc tế, chẳng có một quốc gia văn minh nào chấp nhận một nhà nước từng
giành chiến thắng bằng mọi giá, mọi thủ đoạn, bất chấp sinh mạng con người cũng
như áp dụng chính sách ngu dân, dối trá để giành và giữ quyền lực cả.
Cuối
cùng, có lẽ đã đến lúc nhà nước này nên dành công sức tố cáo Trung Cộng-kẻ thù
hiện tại và tương lai thay vì cứ say sưa hoài với quá khứ vàng…mã của đảng.
--------------------
XEM
THÊM :
Thời đại ngày nay,
đánh bom vào đám đông bất kể vì lí do gì được xem là khủng bố. Và, đúng như thế,
vì ngay cả chính phủ Việt Nam vẫn thường hay lên án vụ khủng bố đám bom, kể cả
vụ đánh bom ở khách sạn Marriott (Jakarta) gần đây. Ấy thế mà mới 2 hôm trước,
báo Tuổi Trẻ có đi một bài ca tụng một vụ đánh bom vào khách sạn Caravelle trước
đây (1)!
Vụ
đánh bom này được thực hiện với một mục đích … lãng xẹt. Chỉ vì chính quyền
VNCH lúc đó huênh hoang tuyên bố rằng “Sài Gòn sạch bóng Việt Cộng”, nên mấy
người này chủ trương “phản biện” bằng 37 kg chất nổ TNT! Đúng là một cách phản
biện nguy hiểm và có phần [xin lỗi các bạn] stupid. Bài báo cho biết hơn 50 năm
trước, ngày 25/8/1964, ba người biệt động là Bảy Bê (Nguyễn Thanh Xuân), Minh
Nguyệt (Trần Thị Minh Nguyệt) và Năm Bắc thực hiện vụ đánh bom vào khách sạn nổi
tiếng Caravelle. Một trong 3 người từng là nhân viên của khách sạn. Họ đặt 37
kg TNT vào tầng 5 của khách sạn, làm cho “kiếng bể văng tung tóe ở vài ngã tư
đông đúc của thành phố” (1). Thời đó, khách sạn Caravelle là nơi lui tới của
các phóng viên quốc tế và những nhân vật quan trọng trong chính quyền. Nhưng vụ
đánh bom chẳng gây cái chết cho ai, vì hôm đó mấy nhà báo bận đi công tác. Có
thể nói là vụ khủng bố không thành công, nhưng cũng gây tác hại đáng kể cho
khách sạn.
Những
vụ đánh bom khủng bố như thế này đáng lẽ nên cho đi vào … kỉ niệm. Thời đại
ngày nay, ngay cả chính phủ Việt Nam còn lên án khủng bố đánh bom ở khách sạn
Marriott bên Nam Dương (2), tức là đã hành xử văn minh hơn rồi. Ấy vậy mà cùng
năm chính phủ Việt Nam lên án vụ đánh bom ở Jarkarta thì báo Pháp Luật Việt Nam
đi có một bài về vụ đánh bom khách sạn Caravelle (3), với thông tin và câu chữ
gần như y chang bài trên Tuổi Trẻ. Rõ ràng là có người tỏ ra rất tự hào về hành
động khủng bố! Nhưng sự tự hào của họ, nói theo tiếng Anh, là rất ư
“senseless”, vì họ hình như không có cái thấu cảm [cho nỗi đau của nạn nhân của
họ].
Những
bài như thế này chỉ có hiệu quả nhắc người ta nhớ đến những vụ đánh bom khủng bố
kinh hoàng khác. Như vụ đánh bom ở khách sạn Brinks trên đường Hai Bà Trưng (gần
Nhà hát Lớn hiện nay) đúng vào ngày Noel 24/12/1964. Sáu tháng sau, ngày
25/6/1965, một vụ đánh bom đình đám khác tại nhà hàng nổi Mỹ Cảnh, và vụ này
làm cho hơn 40 người thiệt mạng và 81 người bị thương. Sau đó là vụ đánh bom
tòa nhà Tương trợ Đại học Quốc tế ở góc đường Hồng Thập Tự (tức Nguyễn Thị Minh
Khai) vào ngày 3/5/1968. Vài năm sau (10/11/1971) một đặc công cộng sản ném lựu
đạn vào xe của Bộ trưởng Bộ giáo dục lúc dó là Bác sĩ Lê Minh Trí làm cho ông
và người tài xế chết. Nhưng vụ nổi tiếng nhất có lẽ là vụ đánh bom giết chết
Giáo sư Nguyễn Văn Bông ngày 10/11/1971, chỉ vì ông này sắp đắc cử và tiến đến
một thể chế dân chủ.
Còn
những vụ đánh bom lẻ tẻ hay đặt bom chận xe đò ở các tỉnh lẻ thì nhiều vô kể mà
danh sách dài phải chiếm một entry trong wikipedia (4), kéo dài từ đầu thập
niên 1960 đến giữa thập niên 1970. Thật ra, có thể nói rằng ở Việt Nam khủng bố
vẫn còn tiếp tục cho đến ngày nay, nhưng hình thức thì ít bạo động hơn và cũng
phong phú hơn.
Cứ
mỗi lần về Việt Nam, và đi lại trên những đường phố quen thuộc, tôi thỉnh thoảng
cứ nghĩ mình đang đi trên những dấu ấn lịch sử. Biết bao nhiêu người đã bị ngã
xuống trên những con đường đó. Mỗi lần đi ngang qua chỗ Hoà thượng Thích Quảng
Đức tự thiêu, tôi hay có thói quen hỏi anh tài xế taxi, nhưng đa số đều không
biết hoà thượng là ai và cái bức tượng đó có ý nghĩa gì. Còn hỏi về những cái
chết của Gs Nguyễn Văn Bông thì hầu như chẳng ai biết, ngoại trừ những người xồn
xồn gốc Sài Gòn. Ngày nay mà hỏi về vụ đánh bom nhà hàng Mỹ Cảnh thì chắc chẳng
mấy ai còn nhớ. Nhưng những vụ đó là những chứng từ cho một cuộc chiến huynh đệ
tương tàn, vì chỉ có người mình giết người mình.
Ở
nước ta có một nghịch lí: những sự kiện đáng được bạch hóa (như chiến tranh với
Tàu) nhưng lại không được; ngược lại có những sự kiện không cần bạch hóa (vì rất
dễ làm đau lòng nhiều người) lại được nói đi nói lại như là một cách xưng tụng!
Có những điều nên để cho đi vào quên lãng chứ không nên nhắc đi nhắc lại như là
một kì tích. Khơi lại sự việc ám hại người chỉ làm đau lòng thân nhân của người
kém may mắn. Người chết đã về bên kia thế giới, và kẻ chủ mưu giết người cũng
chắc qua tuổi lục tuần và gần đất xa trời, và chắc họ cũng nhận ra họ chỉ là
phương tiện cho những người dấu mặt đạt mục tiêu của họ. Một khi sát hại được
dùng như là một phương tiện để đạt được mục tiêu, thì mục tiêu đó chẳng có gì
là cao cả.
____
No comments:
Post a Comment