Monday, 29 February 2016

TÁM MƯỜI NĂM LÀM NHÂN CHỨNG CHO MỘT GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ VIỆT NAM - Phần 2/2 (TRẦN BÌNH NAM)





Trần Bình Nam

(Phần 2/2)

Kết thúc chiến tranh

Khi cọng sản đánh Ban Mê Thuột mở màn cuộc tấn công 1975 tôi đang ở Nha Trang. Tôi linh tính đây có thể là cú đấm cuối cùng.      

Năm ngày trước khi cọng sản chiếm Nha Trang, tôi vào Sàigòn tham khảo ý kiến về tình hình với tướng Minh. Ông ta rất lạc quan, mặc dù lúc đó cọng sản đã chiếm Vùng I Chiến thuật gồm Huế và Đà nẵng và một bộ phận của Sư đoàn 10 Bắc việt do tướng Vũ Lăng chỉ huy đang đe dọa đèo Phượng Hoàng trên quốc lộ 21, do một lữ đoàn Dù từ Đà Nẵng rút về bảo vệ. Quốc lộ 21 là con đường chính từ Ban Mê Thuột về Nha Trang qua thị trấn Ninh Hòa.

Vào cuối tháng Ba, quân đội cọng sản áp đảo quân Dù, chiếm đèo Phượng Hoàng tiến về Ninh hòa, từ đó theo cải lộ tuyến do quân đội Nam Hàn xây cất tiến về Nam qua ngả Cam Ranh, không vào thành phố Nha Trang. Chính quyền Nha Trang tan rã và một đơn vị quân đội Bắc Việt đã được gởi đến để ổn định tình hình.

Đế tránh tình hình rối loạn ở Nha Trang, gia đình tôi chuẩn bị di tản vào Sàigòn. Nhưng cuối cùng tôi quyết định ở lại. Những ngày cuối dân chúng Nha Trang không ngớt đến văn phòng tôi hỏi về tình hình với sự lo âu và phi trường dân sự Nha Trang không còn an toàn nữa.
Ngày 1 tháng 4 là một ngày hỗn loạn tại Nha Trang. Chính quyền đã bỏ chạy, thành phố bỏ ngỏ. Nhà tù dân sự và quân lao không còn ai canh gác. Tù nhân tràn ngập đường phố. Để tránh điều rủi ro trong hỗn loạn tôi và hai dân biểu Nguyễn Công Hoan và Trần Văn Thung thuê thuyền ra tránh nạn tại đảo Vĩnh Nguyên, không xa ngoài bờbiển Nha Trang
Thung là dân biểu tỉnh Khánh Hòa. Nguyễn Công Hoan là dân biểu tỉnh Phú Yên. Cả hai đều cùng tôi ở trong khối Dân Tộc Xã hội. Hai ngày sau tôi trở về Nha Trang và nằm im trong nhà chờ đợi, mặc cho rủi may của số phận.  Cộng quân đã kiểm soát Nha Trang và thành phố im lặng một cách đáng sợ. Các đơn vị cọng sản đặt súng phòng không nhiều nơi trong thành phố. Có tin Không quân VNCH từ căn cứ Không quân Phan Rang bay ra tấn công đánh sập các cây cầu trên quốc lộ 1 dẫn vào Nam. Thành phố đầy rác rưởi, và tòa lãnh sựHoa Kỳ bị phá tung.

Qua đài BBC chương trình Việt ngữ tôi theo dõi cuộc tiến quân của cọng sản. Ngày 20/4 các sư đoàn của tướng Văn Tiến Dũng uy hiếp tuyến phòng thủ Sài gòn tại Long Khánh do Sư đoàn 23 của Chuẩn tướng Lê Minh Đảo trấn giữ. Trong khi đó đại sứ Martin ngày đêm làm việc với bộ trưởng ngoại giao Kissinger để tìm một giải pháp chính trị. Về phần tướng Dương Văn Minh, ông và các phụ tá cũng đang vận dụng ảnh hưởng tìm kiếm một giải pháp chấm dứt chiến tranh. Nhìn lại có lẽ các nỗ lực của đại sứ Martin chỉ nhằm đáng lạc hướng, câu giờ, tránh hỗn loạn để có thể rút toàn bộ nhân sự  còn lại tại tòa đại sứ Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam một cách an toàn.

Khi tiếng súng im trên toàn quốc, tôi theo lệnh của chính quyền cọng sản đăng ký tên họ chức vụ tại đồn công an Phường và được lệnh vềnhà đợi lệnh. Giữa tháng Năm, khoảng nửa đêm, đại úy công an Nguyễn Văn Linh (TBN: trùng tên với TBT Nguyễn Văn Linh), trưởng ty công an thị xã Nha Trang cùng với hai công an vũ trang và vài du kích địa phương đến nhà vây bắt tôi ở địa chỉ số 2 đường Trần VănƠn. Ông Linh mang tôi về Ty Công an lúc đó đóng tại nhà cũ của ông Tuấn, giám đốc chi nhánh Nha Trang của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam nằm trên đường Duy Tân (nay là đường Trần Phú). Sau đó công an đưa tôi về giam tại trung tâm thẩm vấn cũng nằm trên đường Duy Tân. Mấy tuẫn lễ sau tôi được chuyển lên trại Lam Sơn, thuộc quận Ninh Hòa, tại đó đang có lớp “học tập” cho hàng ngàn viên chức chính phủ và sĩ quan quân lực VNCH. Lam Sơn nguyên là một Trung tâm huấn luyện lính. “Học viên” được sắp xếp ở trong những căn nhà trống, mỗi nhà một số. Tôi đến trễ, hầu như đã hết nhà trống, họnhét tôi vào nhà số10 gồm sĩ quan và binh sĩ Dù bị bắt tại đèo Phượng Hoàng.

Trại Lam sơn do quân đội Bắc việt quản lý. Qua 9 bài căn bản họgiảng giải chiến lược chiến tranh qua từng gia đoạn từ khởi đầu chống Pháp cho đến chiến thắng cuối cùng và “chính sách khoan hồng” của chính phủ cọng sản.

Sau hai tháng ở trại Lam Sơn tôi được chuyển về nhà lao dân sự Nha Trang giam chung với thường phạm. Mục đích của cọng sản là đồng hóa chúng tôi với tội phạm xã hội. Sau đó họ đưa tôi lên giam tại trại Đồng Găng nằm sâu trong vùng rừng núi tỉnh Khánh Hòa. Đồng Găng là chiến khu cọng sản dùng để ẩn náu và tung các cuộc tấn công trong tỉnh. Khi tôi đến tại đó có khoảng 400 tù nhân sống chật chội trong những nhà trống, và tù nhân đang bận rộn đốn tre, đan tranh để làm thêm nhà ở. Giám trại là Thiếu tá Yết, một sĩ quan công an Bắc việt và một sĩ quan thuộc Mặt Trận Giải phóng phụ tá.

Ở đây tù nhân được gọi là phạm nhân chứ không dùng từ cải tạo nữa, cứ 2 người chia nhau một chiếc giường tre chỉ vừa đủ đặt lưng. Ban đêm sương xuống nhanh và mang theo cái lạnh của núi rừng. Mỗi trại được đốt một bếp củi với những khúc cây lớn để sưởi ấm và rọi sáng để lính canh giờ nào cũng có thể thấy chúng tôi. Bữa ăn hằng ngày chỉ có cơm và một chút thức ăn thường là rau trong nước loãng có tí muối .

Ở trại Đồng Găng tôi nhớ một người tù, Ngô Viết Xiêm, đại úy cảnh sát em ruột của kiến trúc sư nổi tiếng Ngô Viết Thụ. Ông Thụ là kiến trúc sư vẽ họa đồ xây cất trường võ bị Đà Lạt. Xiêm giỏi về máy móc và làm trưởng xưởng sửa xe của trại.  Đại úy Xiêm được lính canh tù nể vì ông là người bảo trì sửa chữa xe gắn máy cho họ chạy tốt. Ngoài việc đánh đấm lính cọng sản hoàn toàn mù tịt về máy móc. Một hôm Thiếu Tá Yết chỉ định tôi làm Phó trưởng toán kỹ thuật (trưởng toán là một người tù đến trại trước tôi) xem chọn các sĩ quan tù  nhân có tay nghề lập các ban chế tạo dụng cụ hữu ích cho trại. Tôi lập xưởng rèn, xưởng may, xưởng thiết, xưởng gò và một lò than sản xuất than đá do sáng kiến của một đại úy công binh. Các sĩ quân quân đội VNCH chứng tỏ rất có khả năng, làm gì cũng được. Chúng tôi thiết lập được một nhà máy điện nhỏ chạy bằng động cơ nổ có thể thắp sáng chừng 50 bóng đèn 100 watts. Phòng làm việc của Thiếu Tá Yết được trang bị một đèn neon và một hệ thống âm thanh để mỗi buổi chiều ông có thể nói chuyện với tù nhân. Thiếu tá Yết rất hài lòng với các phương tiện mới giữa rừng Đồng Găng .

Ngày 2 tháng 9 năm 1975, trại Đồng Găng chuẩn bị mừng lễ Độc lập đánh dấu ngày 2/9/1945. Ông Yết ra lệnh chúng tôi làm sân khấu và biểu diễn văn nghệ .Ông dự tính mời các giới chức cao cấp quân, dân, chính từ Nha Trang đến để chứng kiến ánh sáng đèn điện giữa rừng Đồng Găng. Một trục trặc nhỏ. Trước giờ buổi lễ bắt đầu, cái máy nổ chạy bằng xăng kéo máy phát điện làm reo không chịu nổ. Ông Yết thường ngày ăn nói nhẹ nhàng, gọi tôi đến văn phòng và nghiêm khắc bảo tôi “anh làm sao tôi không cần biết, nhưng đến giờ làm lễmà không có điện thì tôi cùm anh”. Cùm là một hình phạt dành cho những tù nhân khó trị. Tôi đã có dịp chứng kiến người bị cùm. Khi bịcùm, trong vài ngày cái cùm sắt cắt thịt cườm chân vào tận xương. Và thế cùm không cho người bị cùm cử động dễ dàng nên cơ thể dần dần tê cứng. Khi được tháo cùm, người tù phải ngồi tại chỗ tập cửđộng hằng giờ may ra mới bước đi được. Tôi biết ông Yết không dọa tôi. Ông nghi tôi muốn phá sự thành công của buổi lễ. Tôi không có ý phá, nhưng tôi không khỏi nghi ngờ ông thượng sĩ an ninh, một chuyên viên điện khí của Không quân, người giúp tôi đắc lực nhất trong việc thiết đặt nhà máy điện. Thỉnh thoảng ông vẫn thắc mắc riêng với tôi, tại sao mình phải tự nguyện làm việc này. Tôi không nói với ông ta được gì nhiều chỉ nhắc ông ta câu chuyên viên đại tá người Anh trong cuốn phim “Cầu sông Kwai”. Người sĩ quan Anh đâu muốn phục vụ cho quân Nhật mà chỉ muốn cho quân Nhật biết người Anh không tầm thường, và bày việc đế qua thì giờ buồn tủi của người thất trận. Phút chót, hú hồn máy chạy và buổi lễ thành công dưới ánh đèn điện và âm thanh giữa rừng thẳm.

Nhờ  sự vận động của Hồ Ngọc Nhuận, lúc này là thành phần của Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, ông Cao Đăng Chiếm, một viên chức cao cấp của Mặt Trận Giải phóng miền Nam ký giấy phóng thích tôi và yêu cầu công an Nha Trang gởi tôi vào Sài gòn theo học một lớp dành cho trí thức “tiến bộ” của miền Nam. Tuy đảng Cọng sảnViệt Nam nắm quyền lực trong tay, Hà nội vẫn giữ một bề ngoài miền Nam do Mặt Trận Giải Phóng chiến thắng và quản lý.

Ra khỏi trại cuối tháng 9 tôi vào Sài gòn. Khóa học được tổ chức tại Trung tâm Việt Mỹ cũ trên đường Mạc Đỉnh Chi. Có hơn 100 học viện, tôi nhớ vài tên tuổi quen thuộc như  Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba, cựu tổng trưởng bộ Xã Hội Trần Ngọc Liễng, đặc biệt là dân biểu Đinh Văn Đệ (có lẽ được giao phó công tác theo dõi chúng tôi tại lớp học). Giảng viên gồm các thành phần cọng sản gốc miền Nam có chức vụ trong Mặt Trận hay Chính phủ Lâm thời  Cộng hoà miền Nam Việt Nam như ông Nguyễn Hộ. Có một lần ông Phạm Hùng, ủy viên Bộ chính trị đến thăm lớp học. Ban giám đốc không nói ai chỉ cho biết có cán bộ cao cấp đến thăm. Sau này tình cờ thấy hình đâu đó tôi mới biết cán bộ cao cấp hôm nào là ông Phạm Hùng, ủy viên Bộ chính trị.  Ông ta nói nhiều điều về tầm chiến thắng của đảng Cọng sản, nhưng tôi chỉ còn nhớ một điều,  “các anh có thắc mắc điều gì đừng ngại cứ mạnh dạn hỏi. Thuyết Mác Xít – Lê ni nít là chìa khóa của mọi sự việc nên cán bộ được trang bị bởi thuyết Mác-lê sẽ giải thích thỏa đáng cho các anh”. Lẽ dĩ nhiên chúng tôi không ai hỏi gì. Chúng tôi biết thắc mắc nhiều sẽ được hiểu là chất vấn kẻ chiến thắng và chỉ mang họa vào thân.

Sau một tháng học tập tôi được cấp giấy trở về Nha Trang với gia đình. Tôi tìm cách hội nhập vào xã hội mới. Tôi xin đi dạy học hay một công việc chuyên môn tại Ty Xây Dựng thành phố. Tôi là một kỹsư cơ khí của Hải quân, và từng dạy học với tư cách tư nhân tại trường Trung học Võ Tánh Nha Trang và phụ trách vài môn lý thuyết tại trường Khoa Học Đại Học Huế. Nơi nào cũng chỉ hứa suông .

Rời Việt Nam

Năm 1976, sau nhiều nỗ lức tham gia Liên hiệp quốc như hai nước Việt Nam riêng biệt (để có hai phiếu tại Liên hiệp quốc) bất thành, Đảng Cọng sản Việt Nam quyết định thống nhất đất nước. Ngày 25/4/1976 Hà nội tổ chức bầu cử quốc hội toàn quốc. Lúc này hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa nhập một thành tỉnh Phú Khánh. Chính quyền Phú Khánh yêu cầu cựu dân biểu Nguyễn Công Hoan đại diện cho Phú Khánh ra tranh cử (gọi là tranh cử nhưng với hệthống bầu cử của cọng sản ai được đảng chọn đương nhiên đắc cử). Sau ngày cọng sản chiếm miền Nam, Hoan thấy nhân dân Phú Yên chán chế độ mới nên Hoan không muốn nhận lời mời. Tôi nói với Hoan lời mời của chính quyền Phú Khánh là một cái lệnh, từ chối sẽđược xem là một thái độ chống chế độ và chắc sẽ không yên thân. Suy nghĩ lại Hoan nhận lời và trở thành dân biểu của nước Việt Nam thống nhất .

Quốc hội mới họp ngày 2/7/1976 thông qua Nghịquyết đổi tên nước là “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”. Sau khoá họp thứ nhất Hoan cho tôi biết dường như đảng cọng sản có dự tính thành lập một vùng Đông Á do Hà nội lãnh đạo như mẫu Đại Đông Á của Nhật Bản trong đại chiến 2. Tại quốc hội Đảng phát cho mỗi đại biểu một bản đồ Đông Á bao gồm nhiều nước không có ranh giới giữa nhau. Nhưng hai ngày sau Đảng cho thu lại mà không giải thích. Hoan ghi nhận các đại biểu gốc Mặt Trận Giải Phóng có vẻ không vui, và bà Nguyễn Thị Bình Bộ trưởng Ngoại giao của Chính phủ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, người từng tham dự cuộc hội đàm Paris có chiều tư lự.

Tháng 9 năm 1976, nhân có vụ Trung úy Vikto Belenko của Liên bang Xô viết lái chiếc máy bay Mig-25 qua Nhật tị nạn tạo thành tin sốt dẻo trên thế giới, tôi bàn với Hoan tổ chức trốn ra nước ngoài. Hoan với tư cách là đại biểu của Quốc hội một nước cọng sản sẽ tạo sự chú ý của dư luận thế giới về sự bất mãn của nhân dân Việt Nam đối với chế độ mới.



Hoan lo việc thuyền bè, tôi lo tính đường đi. Ông già vợ của Hoan là một ngư dân khá giả ở Xóm Cồn, một mõm đất nơi cảng đánh cá Nha Trang doi ra biển, và với tư cách dân biểu sự lui tới của Hoan sẽ không bị nghi ngờ. Tôi nghiên cứu đường đi bằng cách dùng bản đồ Biển Đông trong bộ Bách khoa Từ điển Americana. Tôi dự phóng hai đường đi. Một về hướng Đông bắc đi Manila, Phi luật Tân; một về hướng Tây nam trực chỉ Singapore. Tôi chọn đường Singapore bởi hai lý do. Thứ nhất là ngắn hơn đường đi Manila. Thứ hai chạy hướng Singapore thuyền chúng tôi sẽ nằm giữa một thủy đạo quốc tế quan trọng của tàu chở dầu từ Trung đông qua bắc Thái bình Dương cung cấp dầu cho Nhật Bản. Gặp trở ngại chúng tôi có nhiều cơ may được giúp đỡ. Hoan và tôi đồng ý khi đi sẽ gọi Thung, dân biểu Khánh Hòa cùng đi. Tôi hỏi ý Thung và Thung đồng ý  sằn sàng.

Escaped boat by 34 refugees taken on March 31, 1077

Chúng tôi rời Nha Trang đêm 28/3/1977 từ Xóm Cồn trên một thuyền đánh cá nhỏ chở tất cả 34 người, trong đó có chừng 7 phụ nữ và một trẻ em còn bồng trên tay. Ngày đầu biển êm, hôm sau hơi có sóng. Trên đường tàu bè khá nhiều, ban đêm những chấm đèn tàu làm cho chúng tôi không thấy cô đơn giữa trời nước mênh mông. Tôi biết với tốc độ và xăng nhớt mang theo thuyền chúng tôi khó vượt 1.300km để đến Singapore, nên trên đường đi tôi làm mọi cách để các chiếc tàu lớn chú ý và vớt chúng tôi . Nhưng không tàu nào mảy may chú ý đến sự hiện diện của chiếc thuyền mỏng manh của chúng tôi. Qua đài BBC tôi biết rằng, các thuyền trưởng tàu buôn thường gặp phiền phức với chủ tàu khi vớt người vượt biên vì phải thay đổi chương trình di chuyển - chẳng hạn để đổ người tị nạn lên đất liền - nên họ thường làm ngơ dù luật thương thuyền buộc phải cứu nạn nhân trên biển .

Để tạo sự chú ý đôi khi tôi cho thuyền chạy chận đường các tàu buôn. Các tàu này thường tránh rồi tiếp tục đường đi của họ. Nghĩ lại hành động của chúng tôi thật điên rồ.

Qua ngày thứ ba, thuyền chết máy. Mấy người phụ trách máy tàu sửa chữa không được. Gió bắt đầu lên và thuyền chúng tôi sóng đánh lắc dữ dội. Mọi người trên tàu say sóng nằm rẹp hết.

Chiều ngày thứ ba, biển động mạnh, bầu trời xám ngắt báo hiệu bão. Thực phẩm chỉ còn gạo sấy đểtrộn với nước nấu sôi khi ăn. Nước chỉ còn đủ cho mấy người phụnữ và chú bé 2 tuổi. Tôi không biết chúng tôi đang ở tọa độ nào, chỉ đoán chưa xa bờbiển Nha Trang lắm. Hy vọng đến Singapore trở thành xa vời, chúng tôi bàn nhau – nếu sửa được máy - trở về Nha Trang  rồi tính sau. Nhưng vô phương, máy tàu thiếu nhớt bể không phương sửa chửa. Đêm đó chúng tôi dùng bất cứ gì cháy được đốt lửa trên boong thuyền để  kêu cứu.

6 giờ chiều hôm sau, 3 tháng Ba, một chiếc tàu chở dầu khổng lồ, nhìn xa như một trái núi mang quốc kỳ Nhật Bản đến sát chúng tôi. Tàu ngừng cách chúng tôi chừng 300 mét sợ đến quá gần sóng tàu lật thuyền chúng tôi. Tôi không biết thuyền trưởng đang tính toán gì, chỉ thấy mấy cặp ống nhòm từ đài chỉ huy đang quan sát chúng tôi. Điều tôi sợ nhất là tàu bỏ đi. Nghĩ vậy tôi lấy một quyết định sinh tử nhảy xuống biển bơi qua tàu.  Tôi muốn nói với họ nếu họ không cứu,  chúng tôi gồm một số phụ nữ và trẻ em sẽ bỏ mình trên biển. Chúng tôi không còn nước, không còn thức ăn và máy tàu thì bể .

Bơi đến gần tàu, trước mắt tôi là một thành tàu thẳng đứng, sau này được biết là chiếc Ryuko Maru, một trong những chiếc tàu chở dầu lớn nhất của Nhật. Tàu này có một sân thượng bằng phẳng, chỉ cần thay đổi đôi chút là có thể làm sân bay. Người Nhật sau Thế chiến 2 được Hoa Kỳ bảo vệ, nhưng lúc nào cũng  chuẩn bị sẵn sàng để tự vệ. Hàng không dân sự và hàng hải thương thuyền Nhật huấn luyện sĩ quan theo chương trình quân sự để khi cần có thể chuyển thành sĩ quan Không quân và Hải quân..

Thủy thủ đoàn thả một chiếc thang dây cho tôi. Leo đến sàn tàu, vừa lạnh vừa mệt tôi ngả lăn trên sàn tàu. Một thủy thủ mang đến phủ lên tôi một cái chăn ấm và để tôi nằm nghỉ tại chỗ.

Thấy tôi hơi khỏe một sĩ quan trẻ y phục trắng đến hỏi chuyện tôi. Sau này tôi biết ông ta là thuyền phó. Sau khi biết chúng tôi là đoàn người  tị nạn không chịu được chế độ cọng sản nên đi tìm tự do và hiện đang rơi vào tình cảnh vô vọng. Thuyền phó nói ông sẽ cho người sửa máy, cung cấp thực phẩm và chỉ hướng cho chúng tôi đến một nơi an toàn. Tôi ngồi trên boong tàu chờ kết quả. Sau này tôi biết các người thợ máy Nhật cho biết máy cháy không sửa được, trên tàu Nhật không có máy thay thế và thuyền trưởng đánh điện về hãng tàu xin ý kiến. Và lệnh cứu chúng tôi được chấp thuận đưa chúng tôi về cảng Yokkaichi gần nhất. Từ nơi vớt chúng tôi đến Yokkaichi mất 6 ngày biển.

Lên tàu thủy thủ đoàn cho chúng tôi ở một căn phòng phía bên phải của thương thuyền và cho chúng tôi chăn mền và bữa cơm tối đầu tiên, có mấy lon bia hiệu Sapporo, một thứ bia bình dân của Nhật. Chúng tôi biết chúng tôi đã sống sót và vượt qua được đoạn đầu của hành trình tị nạn. Nhật Bản là một quốc gia dân chủ, giàu có và nổi tiếng về lòng tốt .

Ngày hôm sau, thuyền phó bắt đầu lập danh sách tị nạn để báo cáo cho Cơ quan Tị nạn Liên hiệp quốc (UNHCR  - United Nations High Commisonner for Refugeees). Thung, Hoan và tôi trao đổi ý kiến có nên để Hoan khai thật là dân biểu của Hà nội không.  Nhật đã thiết lập bang giao với Việt Nam và Nhật có thể trả Hoan về Việt Nam để tránh rắc rối ngoại giao với Hà Nội. Chiếc Ryuko Maru đang chạy ngoài bờ biển Việt Nam, tạt vào Hải phòng để trả Hoan là việc quá đơn giản. Chúng tôi đồng ý tạm giấu lai lịch của Hoan cho đến khi đến Nhật.

Năm ngày sau tàu đến Yokkaichi. Khi viên chức UNHCR và Bộ Di trú lên tàu làm việc, chúng tôi biết đã đến lúc tiết lộ lai lịch của Hoan. Người phiên dịch đi theo cơ quan Di trú là anh Trần Văn Thắng, sinh viên miền Nam học ở Nhật kẹt lại làm việc cho cơ quan Caritas thuộc Giáo hội Thiên chúa La Mã giúp người tị nạn. Khi Thắng nói cho phái đoàn biết lại lịch Hoan họ có vẻ sửng sốt không tin. Nhưng sau khi chụp hình thẻ dân biểu của Hoan điện về Bộ Ngoại giao Nhật ở Tokyo xác nhận đúng, họ không cho báo chí lên tàu tiếp xúc với chúng tôi.

Đêm hôm đó giới chức cảng Yokkaichi  cho chúng tôi rời tàu bằng một lối riêng đến một đoàn xe buýt chờ sẵn đưa chúng tôi về trại tị nạn ở làng Kominato, thuộc tỉnh Chiba cách Tokyo chừng 110 km. Khoảng nửa đêm chúng tôi đến trại. Trại là một trường tiểu học của Giáo hội Phật giáo Rissho Kosei-Kai nằm bên cạnh một ngôi chùa nhỏ được biến cải thành trại tị nạn. Vào thời gian đó có chừng 300 người Việt tị nạn ở Nhật dưới sự bảo trợ  của UNHCR và Caritas, một hội thiện nguyện thuộc Giáo hội Thiên chúa giáo La mã có cơ sở toàn thế giới . Chúng tôi là nhóm tị nạn đầu tiên do Phật giáo Nhật phụ trách.

Nhật Bản không có quy chế nhận người tị nạn định cư trong nước, chỉ giúp UNHCR nhận tạm chúng tôi chờ làm thủ tục định cư tại một nước khác. Vị trụ trì của chùa có nhiệm vụ giúp đỡ chúng tôi chỗ ăn chỗ ngủ.

Tin có một dân biểu của một nước cọng sản có mặt trong số người tị nạn mới tới không được tiết lộ cho báo chí. Nhưng anh em thông dịch viên thuộc Tổ chức Người Việt Tự do (TC/NVTD) đã tiết lộ cho báo chí biết. Tôi thấy có nhiều phóng viên từ Tokyo đến săn tin. Hai sinh viên thay nhau làm thông dịch viên cho chúng tôi là Trần Văn Thắng và Huỳnh Lương Thiện. Sau này cả hai đều sang định cư ở Hoa Kỳ. Thắng là giám đốc một công ty du lịch, và Thiện hiện là chủ nhiệm báo  ở San Francisco.

Do một sự tình cờ tôi tiếp xúc  được với báo chí quốc tế. Một hôm tôi đang đứng gần chiếc điện thoại trong trại và nghe reo. Tôi nhấc lên và đầu giây là một nhà báo của hãng tin CBS. Qua một trao đổi ngắn tôi xác nhận tôi là một trong những người tị nạn vừa mới đến và trong nhóm có ông Nguyễn Công Hoan, dân biểu của Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Ngay sau khi đến trại, ông Misei, đại điện của Cao ủy Tị nạn Liên hiệp quốc tại Nhật đến trại làm thủ tục định cư chúng tôi.  Ông Misei là một công dân Nhật. Phần chúng tôi, chúng tôi dự tính, nhân ngày 30 tháng Tư  sắp tới, đánh dấu hai năm ngày cọng sản chiếm miền Nam, tổ chức một cuộc họp báo để nói cho thế giới biết tình trạng nhân quyền thê thảm tại Việt Nam dưới chế độ cọng sản .

TC/NVTD giúp chúng tôi thuê chỗ họp báo tại một khách sạn địa phương và thông báo cho báo chí quốc tế biết. Hoan, Thung và tôi lo viết bản thông cáo báo chí. Hoan chủ tọa buổi họp báo và trả lời các câu hỏi, tôi phiên dịch .

Cân nhắc ảnh hưởng của cuộc họp báo đối với quan hệ Nhật- Việt, chính phủ Nhật quyết định ngăn cản cuộc họp báo và nhờ ông Misei lo việc này. Một tuần lễ trước ngày họp báo ông Misei gặp tôi tại văn phòng chùa Kominato. Ông nói rằng cuộc họp báo sẽ  làm chính phủ Nhật lúng tung đối với Việt Nam và chúng tôi có thể bị gởi về Việt Nam, đó là chưa nói gia đình chúng tôi ở Việt Nam sẽ bị trả thù. Tôi nói khi ra đi một mình chúng tôi chấp nhận mọi tình huống, chính phủ Nhật đối đãi thế nào thì chúng tôi chịu vậy. Tôi biết chính phủ Nhật không thể trả chúng tôi về mà không bị dư luận quốc tế lên án.

Ông Misei xoay qua chuyện người tị nạn và nói rằng cuộc họp báo sẽ làm cho chính phủ Nhật từ nay về sau không nhận người tị nạn nữa, như vậy là thiệt thòi cho đồng bào các anh. Tôi trả lời ông Misei rằng nếu có ai nói cho thế giới biết tình trạng bi đát của đồng bào tôi dưới chế độ cọng sản thì họ có thể chấp nhận bất cứ sự trả thù nào.Tôi nghĩ ông Mesei chỉ dọa, vì Nhật Bản là một nước dân chủ tiên tiến không thể hành động cấm cửa người tị nạn nếu đã trôi dạt đến cửa nhà mình.

Sau cùng ông Misei đưa một đề nghị, được hiểu là một sự mua chuộc. Ông nói, các anh có điều cần nói với thế giới thì nên nói ở Hoa Kỳ sẽ có tiếng vang hơn là nói ở đây. Chính phủ Nhật sẽ trả chi phí để các anh ghi vào video cassette (lúc đó chưa có dĩa CD) để các anh phổ biến khi đến Hoa Kỳ. Ông dè dặt đưa ra hai con số: mỗi cassette một mỹ kim và thực hiện một triệu cassette. Tôi nói với ông Misei, tình hình đàn áp tại Việt Nam như một nồi nước đang sôi không thể chờ đợi.

Trong lúc ông Misei áp lực chúng tôi, TC/NVTD vẫn tiến hành các chuẩn bị họp báo. Ngày họp báo sẽ là ngày 30/4/1977 tại một khách sạn ở Kominato.

Ngày 29/4. một sĩ quan cảnh sát địa phương gặp tôi yêu cầu làm đơn xin họp báo với lý do cần chính thức xin phép để cảnh sát Nhật bảo vệ an ninh cho buổi họp báo.

Ngày 30 nhiều phóng viên quốc tế từ Tokyo đến dự cuộc họp báo, trong đó có ký giả Henry Kammp, phóng viên tại Nhật Bản của tờ New York Times. Sự xuất hiện công khai của Hoan và lời tố cáo chính sách đàn áp, vi phạm nhân quyền, và cuộc sống đen tối tại Việt Nam đã tạo ra một xúc động lớn. Sau cuộc họp báo, ký giả Kammp thuê riêng một phòng trong khách sạn để phỏng vấn thêm chúng tôi. Ngoài ký giả Henry Kammp có thêm Huỳnh Lương Thiện và một nữ ký giả trẻ tuổi lai gốc Việt thư ký riêng của Kammp nói lưu loát 4 ngôn ngữ, Anh, Pháp, Việt và Nhật ngữ  tham dự .

Buổi họp báo quốc tế tại Chiba, Nhật Bản, 30-4-1977

Báo chí và các đài truyền hình tại Hoa Kỳ đã loan tải rộng rãi nội dung cuộc họp báo của chúng tôi, ngay các tờ báo địa phương. Đây là lần đầu tiên dân chúng Hoa Kỳ biết tình trạng Việt Nam sau khi bức màn đêm 29/4/1975 rủ xuống thành phố Sài gòn.

Bài báo của ký giả Henry Kammp trên tờ New York Times nói về nạn người vượt biển bỏ nước ra đi và nhiều người đã bỏ mình vì bão táp đã thúc đẩy tổng thống Jimmy Carter xin quốc hội ngân khoản giúp người tị nạn. Quốc hội Hoa Kỳ muốn nghe thêm về tình trạng vi phạm nhân quyền tại Việt Nam, và bà Lê Thị Anh, một người Việt Nam ở Hoa Thịnh Đốn có liên lạc với quốc hội đã sắp xếp mời Hoan qua Hoa Kỳ trước .

Sau cuộc họp báo, giáo hội Rossei Koseikai đưa tôi về một trại tị nạn khác của người Việt ở miền Tây Nhật Bản để giúp Giáo hội tổ chức đời sống cho người tị nạn tại đó. Bốn tháng sau, tôi và Thung về Tokyo ở với anh em NVTD  chờ ngày đi định cư tại Hoa Kỳ. Hằng tuần tôi và Thung đến văn phòng trung ương của Giáo hội để lảnh tiền trợ cấp của Liên hiệp quốc.

Tháng 10, 1977 tôi có giấy tờ đi định cư tại Boston. Người bảo lãnh tôi là ông Raymond Crombie, một công chức quận Quincy, bang Massachusetts từng làm việc trong ngành chiến tranh chính trị của quân đội Mỹ tại Việt Nam. Ông nói trôi chảy tiếng Việt. Ở Quincy chừng một tháng tôi về Maryland tạm trú nhà Nguyễn Đình Điều một người bạn thời trung học. Điều nguyên là sĩ quan Hải quân VNCH và khi miền Nam sụp đổ đang theo học tại trường Cao đẳng Hải quân Hoa Kỳ ở Monterey. Ông được cấp quy chế tị nạn I-94.

       Ở Maryland tôi kiếm việc làm để có tiền gởi vợ tôi nuôi con, 5 đứa từ 7 đến 15 tuổi. Rất may vào tháng 2/1978, Thái Doãn Ngà một bạn thời trung học đang ở California  điện thoại thăm và giới thiệu tôi với ông giám đốc sở Ngà đang làm. Ông ta đang kiếm người cho chương trình CETA (Comprehensive Employment and Training Act), một chương trình của chính phủ Liên bang tạo công ăn việc làm và đào tào chuyên viên. Sau cuộc phỏng vấn ngắn ngủi ông “tuyên bố” nhận tôi vào chương trình CETA, học kế toán. Ngà đang làm việc cho ông trong chương trình này với tư cách trưởng phòng kế toán. Ngà rời Việt Nam mấy ngày trước khi Saigòn sụp đổ và đến Mỹ đi học kế toán ngay. Vốn là một giáo sư Toán đệ nhị cấp ông thăng tiến nhanh chóng trong ngành kế toán. Ngà mua vé máy bay cho tôi. Hôm sau tôi ra phi trường Dulles, Washington D.C. lấy vé bay đi Los Angeles. Đường ra phi trường còn đầy tuyết. Đến Los Angeles Ngà đón, tôi thấy Ngà chỉ mặc một chiếc sơ mi mỏng dài tay. Trời California có nắng và không khí mát rượi báo hiệu mùa Đông sắp tàn, Xuân sắp tới. Hai ngày sau tôi ở tạm nhà Ngà đi làm. Sự việc thay đổi nhanh chóng như một giấc mơ. Bây giờ tôi có việc làm, có chỗ tạm trú, có lương hằng tháng. Ngoài chi phí để sống tôi còn dư một chút tiền gởi về cho vợ tôi.  Và thì giờ nghĩ đến mục đích của việc bỏ nước ra.

 Cùng với 10 người bạn tôi tiếp xúc qua thư từ, điện thoại từ ngày còn ở Nhật, chúng tôi đồng ý thành lập một tổ chức chính trị gọi là “Tổ chức Phục hưng Việt Nam (TC/PHVN) làm khí cụ đấu tranh chống chính sách độc tài độc đảng của đảng Cọng sản tại Việt Nam. Buổi họp – chúng tôi sẽ gọi là đại hội - thông qua Cương lĩnh được tổ chức vào tháng 12 năm 1978 tại thành phố Los Angeles. Đại hội thứ hai tổ chức một năm sau (1979) và sau đó hai năm triệu tập một lần Tại đại hội thông qua Cương lĩnh tôi được bầu làm chủ tịch sáng lập của TC/PHVN. Chín thành viên tham dự đều là thành viên sáng lập.

Tôi giữ chức chủ tịch TC/PHVN trong 9 năm cho đến đại hội thứ 7 năm 1989. Sau đó tôi viết bình luận về các vấn đề chính trị thế giới, đặc biệt chú trọng đến các chuyển biến liên quan đến Việt Nam và công cuộc đấu tranh phục hưng đất nước (5).

Các chương trình Việt ngữ của đài Tiếng nói Hoa Kỳ (Voice of America – VOA), đài BBC, đài Á châu Tự do (Radio Free Asia – RFA) thường phỏng vấn tôi trong 20 năm qua. Quan tâm nhất của tôi hiện nay là Trung quốc đang đe dọa sự vẹn toàn lãnh thổ của Việt Nam, nhất là kế hoạch chiếm Biển Đông và sự gặm nhắm biên giới phía bắc Việt Nam .

Tôi về thăm Việt Nam 2 lần, lần thứ nhất tháng Ba năm 1999, lần thứ hai tháng Tư năm 2001. Sau đó hai lần tôi xin chiếu khán về Việt Nam ( 2003 & 2015) đều bị chính quyền Việt Nam từ khước không cấp. Lần thứ nhất lấy lý do sự có mặt tôi làm mất an ninh đất nước, lần thứ hai không giải thích. Một nữ thư ký của tòa đại sứ Việt Nam tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn điện thoại báo rất tiếc  không cấp chiếu khác cho tôi được.

Hoa Kỳ trở lại tây Thái bình Dương

Người Việt Nam và người Mỹ cần rút kinh nghiệm bài học thất  bại tại miền Nam Việt Nam, nhất là lúc này Hoa Kỳ đang có chính sách trở lại Tây Thái Bình Dương. Biển Đông sẽ là nơi tranh chấp giữa Hoa Kỳ và Trung quốc trong nhiều thập niên tới. Biển Đông tiếp giáp bờ phiá Đông của Việt Nam, qua bao nhiêu thế kỷ là con đường biển quốc tế nối liền Ấn độ dương với tây và bắc Thái Bình Dương. Các nước lớn trên thế giới không quan tâm đến sự quan trọng của Biển Đông, chừng nào tàu thuyền nước nào cũng được tự do qua lại. Nhưng từ thập niên 1950 có dấu hiệu dưới lòng Biển Đông có dầu thô và khí đốt và thế giới chú ý đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm giữa Biển Đông. Ai làm chủ hai quần đảo này sẽ làm chủ một con đường giao thông huyết mạch, và tài nguyên dưới đáy trong vòng 200 hải lý chung quanh.

Sau khi ký hiệp định Paris năm 1973 Hoa Kỳ chuẩn bị rút quân, và do nhu cầu địa lý chính trị, đầu năm 1974 đã khuyến khích Trung quốc (thời gian đó là đồng minh chiến lược của Hoa Kỳ trong cuộc đối đầu tay ba Hoa Kỳ- Nga xô viết-Trung quốc, trong khi Việt Nam là đồng minh của Liên xô) chiếm quần đảo Hoàng Sa. Năm 1975 sau khi Hà Nội chiếm miền Nam, Biển Đông chưa trở thành cái ao nhà của Liên bang xô viết và Hà Nội nhờ Trung quốc đóng chốt tại quần đảo Hoàng Sa. Đầu thập niên 1990 Liên xô sụp đổ, Việt Nam trở lại níu Trung quốc để duy trì chế độ. Nhưng khi Trung quốc có kế hoạch chiếm toàn bộ Biển Đông để mở cửa raThái Bình Dương công khai tranh chấp thế siêu cường với Hoa Kỳ thì đụng chạm đến quyền lợi của Việt Nam, và cuộc tranh chấp âm thầm giữa Trung quốc và Việt Nam nảy mầm.

Trong thế tranh chấp này Hoa Kỳ là lực lượng đối trọng với Trung quốc của Việt Nam. Nhưng Hoa Kỳ vừa bị Việt Nam đánh bại chưa đủ phấn khởi để đánh bạn với Việt Nam. Dù nói sẽ trở lại tây Thái bình dương Hoa Kỳ còn đứng trước nhiều quyết định chiến lược cũng như chiến thuật khó khăn. Trung quốc mở mặt trận tranh chấp với Hoa Kỳ khắp nơi trên thế giới, ngay cả kinh tế Hoa Kỳ cũng không tránh khỏi áp lực của Trung quốc. Việt Nam luôn luôn dùng lời lẽ ôn hòa thân hữu với Trung quốc hơn với Hoa Kỳ, nhưng không phải đã thần phục Trung quốc như  dư luận của người Việt ở hải ngọai nghĩ. Việt Nam ở thế khó khăn và rất ít sự lựa chọn: vừa chơi trò thân hữu với Trung quốc vừa chờ đợi thái độ của Hoa Kỳ ./.

Trần Văn Sơn
Bút hiệu Trần Bình Nam

(1)       Để viết “Lời nhân chứng” này tôi đã tham khảo với các cựu dân biểu sau: Trần Ngọc Châu (Woodland Hills, California), Hồ Ngọc Nhuận (Sài gòn),  Phan Thiệp (San Jose, California), Lý Trường Trân (Garden Grove, California), Đinh xuân Dũng (San Jose, California), và Trần Cao Đễ (Westminster, California), và luật sư Trần Tử Huyền (San Francisco, California), con trai ông Trần Văn Tuyên .

(2)       Mười tám người  ký vào bản Tuyên Ngôn Caravelle gồm các nhân vật từng làm việc cho chính phủ Bảo Đại thời gian Pháp trở lại Việt Nam, và từng tham gia chính quyền sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm (1955-63) sụp đổ gồm, các ông Trần Văn Văn, Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương, Nguyễn Lưu Viên, Huỳnh Kim Hữu, Phan Huy quát, Trần Văn Lý, Nguyễn Tiến Hỹ, Trần Văn Đỗ, Lê Ngọc Chấn, Lê Quang Luật, Lương Trọng Tường, Nguyễn Tăng Nguyên , Phạm Hữu Chương, Trần Văn Tuyên, Tạ Chương Phùng, Trần Lê Chất và Trần Văn Vui .

(3)       Xem Hồ Văn Kỳ Thoại “Naval Battle of the Paracels” trang 153, tuyển tập “Voices from the Second Republic of South Vietnam (1967-1975)” – do giáo sư  K.W. Taylor , Cornell Southeast Asia Program Publications  xuất bản ngày 30/4/2015

(4)       Liên quan đến cuộc nói chuyện với Bắc Kinh cuối năm 1973, Henry Kissinger  viết trong cuốn Years of Upheaval trang 684: “Bây giờ thì ai cũng biết rằng, qua chuyến đi của tôi, tôi và thủ tướng Chu Ân lai và các phụ tá đã trao đổi chi tiết về tình hình thế giới. Chúng tôi không công khai ký kết gì nhưng hoàn toàn đồng ý với nhau về tình hình mới và vì tế nhị đối với sự nhạy cảm của Liên xô chúng tôi cũng không công bố gì cả.

(5)       Các bài bình luận của tôi đều được đăng trên mạngwww.tranbinhnam.com  Có 478 bài, viết từ tháng 4/1998 đến tháng 7/2013. Các bài bình luận viết trước đó được in trong 4 Tuyển Tập Bình Luận Chính Trị. Tập 1 (1991-1994 – Mõ Làng San Francisco xuất bản 1995). Tập 2 (1995-1996 –Mõ Làng San Francisco xuất bản, 1997), Tập 3 (1997-1999 (Mõ Làng San Francisco xuất bản, 2000), Tập 4 (1999-2002 – TC/PHVN xuất bản 2002).  Sau ngày sinh nhật thứ 80, 17/7/2013 tôi không viết Bình Luận Chính Trị nữa. Thỉnh thoảng tôi viết về các vấn đề nhân sinh hay dịch các bài báo có tính hữu ích công cọng và đăng trên mạng tranbinhnam, Mục: “Chuyện ngắn; Chuyện không chính trị; Tài liệu dịch”.

(*) www.tranbinhnam.com  > Bình luận > số 479

(**) www.tranbinhnam.com > Bình luận > số 379







No comments:

Post a Comment

View My Stats