Monday 29 February 2016

TÁM MƯỜI NĂM LÀM NHÂN CHỨNG CHO MỘT GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ VIỆT NAM – Phần 1/2 (TRẦN BÌNH NAM)





Trần Bình Nam

(Phần 1/2)

Tôi sinh ngày 17 tháng 7 năm 1933. Đến ngày 17 tháng 7 năm 2013 tôi được 80 tuổi chẵn, tôi quyết định thôi không bàn về thế sựnữa và để thì giờ luận bàn về các vấn đề liên quan đến nhân sinh (*).

Tám mươi năm, một quảng đường dài và tùy theo hoàn cảnh của từng cá nhân và biến chuyển của xã hội có thể chỉ là một phút thoáng qua như một cái chớp mắt, nhưng cũng có thể là một cuộc sóng gió của một đời người .

Ai là người Việt Nam sinh ra và đã sống trong khoảng thời gian 80 năm đó đều phải trải qua những sóng gió lịch sử trên đất nước Việt Nam như tôi. Tôi sinh ra khi người Pháp bắt đầu củng cố chế độthuộc địa tại Đông Dương. Lớn lên được giáo dục nửa Tây nửa ta, trong khi toàn quốc đang kinh qua cuộc kháng chiến đánh đuổi người Pháp. Người Pháp thua trận rút về. Việt Nam chia đôi. Miền Bắc cho phe Cọng, miền Nam cho người quốc gia. Người Mỹ đến giúp người quốc gia chận đứng ý đồ xích hóa miền Nam của cọng sản. Chiến tranh dai dẳng kết thúc năm 1975 với phe cộng toàn thắng. Hằng trăm ngàn người từ miền Nam bỏ nước ra đi tìm tự do gây ra một làn sóng tị nạn lớn chưa từng có trong lịch sử Việt Nam.

Là một trong những thuyền nhân rời bỏ Việt Nam trong màn chót của bi kịch Việt Nam, tám mươi năm qua tôi đã là một nhân chứng bất đắc dĩ cho thảm kịch Việt Nam .

Những gì tôi viết sau đây là lời một nhân chứng của một tấn thảm kịch mà trong đó những người thuộc thế hệ tôi từng chia sẻ. Lời chứng có thể vui hay buồn, có thể hợp nhĩ với lớp người này và không hợp nhĩ với lớp người kia tùy theo chỗ đứng của mỗi người, nhưng tôi bảo đảm một điều là tôi làm chứng cho sự thật ít nhất từchỗ đứng của tôi.

** Trần Bình Nam **

***

Thiếu thời:

Dòng dõi họ Trần tôi xuất phát từ tỉnh Sơn Nam, Bắc Việt (nay là Nam Định, hướng đông nam thành phố Hà Nội 74km). Gia phả ghi rằng trong thập niên 1530s cố tổ tôi chống họ Mạc theo ông Nguyễn Kim vào Thanh Hóa, và năm 1558 theo Nguyễn Hoàng (con Nguyễn Kim) đi sâu hơn vào miền Nam.  Cố tổ tôi là sĩ quan cấp nhỏ của Chúa Nguyễn, được Chúa Nguyễn cấp ruộng đất tại làng Thành Trung (cách Huế 30km) thuộc huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Thành Trung trở thành chánh quán của họ Trần Văn. Vào thế kỷ thứ19, con cháu họ Trần đa số trở thành nông dân sống với ruộng đất.

Thập niên 1910, người Pháp mở trường Bá Công ở Huế (Bá Công làtrăm nghề) để đào tạo cán sự trung cấp cho các ngành điện lực, điện thoại, điện báo, hỏa xa và hành chánh. Ông nội tôi xin cho Ba tôi vào học trường Bá Công. Ở Huế Ba tôi gặp Mẹ tôi và hai người xây tổấm trên một khoảnh đất trong vườn nhà của ông ngoại tôi ở Phường Đúc. Ông ngoại tôi thuộc dòng quận công Lê Chất, một trong những viên tướng đã giúp vua Gia Long đánh bại nhà Tây Sơn thiết lập nên triều đại nhà Nguyễn vào đầu thế kỷ 19.

Tôi là con út trong gia đình, sinh ngày 17 tháng 7 năm 1933, có hai anh và hai chị. Ba tôi cho con trai đi học. Hai chị tôi ở nhà giúp Mẹbuôn bán và bếp núc theo truyền thống các gia đình Việt Nam thời đó. Hai chị tôi chỉ biết đọc chữ quốc ngữ .

 Anh cả tôi, Trần Văn Bách bị lính Pháp bắn chết năm 1946 lúc 18 tuổi tại Bến Cát, Thủ Dầu Một khi Pháp theo chân quân Anh trở lại Việt Nam sau một thời gian bị Nhật đảo chánh.
Thời gian “toàn quốc kháng chiến” bắt đầu từ cuối năm 1946, gia đình tôi tản cư về Thành Trung. Đầu năm 1947 sau khi quân Pháp tái chiếm Huế, ba mẹ tôi hồi cư trở về Phường Đúc. Ba tôi làm nghềxây cất, Mẹ tôi buôn bán với chị áp tôi. Chị đầu đã đi lấy chồng. Tôi được vào học lớp nhất trường tiểu học Trần Quốc Toản .

Năm 1948 tôi thi đậu kỳ thi tuyển vào học trường Trung học Khải Định. Chương trình trung học gồm 7 năm  và muốn tốt nghiệp trung học học sinh phải qua 3 kỳ thi. Kỳ thi trung học sau 4 năm. Hai năm sau thi Tú tài I và năm cuối thi Tú Tài II.

Năm 1950 anh thứ nhì tôi, Trần Thanh Dương đi kháng chiến chống Pháp. Lúc đầu ra Vinh thuộc tỉnh Nghệ An học trung học, sau đó vào khu 5 thuộc tỉnh Bình Định. Sau khi ký hiệp định Genève, anh không ở trong thành phần tập kết ra Bắc, trở về Huế mang theo vợ và 4 con. Chị đầu tôi chết vì bệnh ung thư năm 1980. Hiện nay tôi còn một ông anh và một bà chị đều trên 80 tuổi. Anh tôi sống ở Nha Trang, chị tôi sống ở Huế .

Trong hai năm 1954-55, quân đội Pháp rút dần ra khỏi Việt Nam, người Mỹ đến giúp củng cố chế độ Ngô Đình Diệm. Ông Diệm đối mặt với nhiều khó khăn. Các giáo phái Hòa Hảo, Cao Đài với sự tiếp tay của các tướng Nguyễn Văn Hinh, Nguyễn Vỹ thân Pháp hoạt động gây bất ổn tại Sài Gòn. Tuy vậy ông Diệm, với sự giúp đỡ của người Mỹ  đãổn định tình hình và định cư được khoảng một triệu người dân miền Bắc, đa số là tín đồ Thiên chúa giáo trốn chạy cọng sản. Ông Diệm tổchức trưng cầu dân ý truất phế Bảo Đại, quốc trưởng bù nhìn do Pháp dựng nên và thành lập nước Việt Nam Cộng Hòa (VNCH).

Năm 1954, sau khi đổ Tú tài I tại Huế, tôi vào Sài gòn theo học trường Cao đẳng Vô Tuyến Điện, đồng thời tự luyện thi Tú Tài II đểhoàn tất chương trình trung học.

Thời gian đó, thanh niên đến tuổi đều phải nhập ngũ nên học sinh lớp cuối trung học và đại học ai cũng tìm một đường để đi. Tôi thi đỗkỳ thi tuyển của Hải quân VNCH tuyển mộ sinh viên sang học tại trường Hải quân Pháp. Chương trình này do người Pháp viện trợ. Cuộc tuyển mộ năm 1955 là cuộc tuyển mộ cuối cùng. Tôi theo học khóa đào tạo kỹ sư Hải quân. Chương trình học 3 năm. Hai năm đầu học tại trường Sĩ Quan Hải quân ở Brest, trong tỉnh Finistère, bên bờĐại Tây Dương. Năm thứ ba các sinh viên, lúc này đã lên Thiếu úy, sẽ được đi thực tập một năm trên chiến hạm Jeanne d’Arc chạy vòng quanh thế giới để các tân sĩ quan có cơ hội tiếp xúc với các quốc gia khác.

Khóa tôi,  học xong năm thứ hai cuối năm 1957 vào lúc quan hệ giữa chính quyền VNCH và Pháp trở nên căng thẳng, Hải quân Pháp gởi trả chúng tôi về Sài gòn.

Tôi được bổ nhiệm đến Hải Vân Hạm Hát Giang (HQ 400). Vài tháng sau chuyển qua Hộ Tống Hạm Đống Đa (HQ 03). HQ 03 sắp sửa đi Subic Bay, một căn cứ sửa chữa tàu bè của Hạm đội 7 Hải quân Hoa Kỳ để đại tu bổ.

Tháng 6 năm 1958, tàu còn ở Subic Bay, tôi được lệnh thuyên chuyển đến Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân tại Nha Trang (TTHL/HQNT). Trung tâm huấn luyện này do Hải quân Pháp xây cất năm 1952  để đào tạo binh sĩ Hải quân gồm sĩ quan và thủy thủ các ngành chuyên nghiệp để làm việc với Hải quân Pháp, và vừa được chính thức chuyển giao cho Hải quân Việt Nam. Trường SQHQ là một trong những trường thuộc TTHL/HQNT.  Tháng 10 /1958 tôi đến đơn vị mới. Lúc đó trường đang huấn luyện khóa 8 SQHQ. Việt ngữđược dùng làm chuyển ngữ  thay vì dùng chữ Pháp như các khóa trước. Cuốn “Danh từ Khoa học” Pháp ngữ - Việt ngữ của giáo sưHoàng Xuân Hãn đã giúp chúng tôi nhiều trong việc biên soạn tài liệu huấn luyện. Nhưng các môn học Hải quân cần nhiều danh từ kỹthuật hơn nên chúng tôi hết sức chật vật đánh đu với chữ nghĩa chuyên môn.

Tôi phục vụ Hải quân 16 năm và làm việc liên tục tại   TTHL/HQNT 13 năm, dưới quyền của 8 trong 9 vị Chỉ huy trưởng của Trung tâm từ ngày thành lập cho đến khi kết thúc chiến tranh (**). Tôi đến Nha Trang với cấp Thiếu úy và giải ngũ ở cấp Trung Tá năm 1971 sau khi đắc cử dân biểu đại diện thành phố Nha Trang tại Quốc hội VNCH khóa  2.

Tôi kết hôn với Nguyễn Thị Phương Thảo năm 1959 và lúc giải ngũ tôi có 5 người con: 2 trai, 3 gái tất cả đều sinh ra và lớn lên tại Nha Trang.

Wife : Nguyễn Thị Phương Thảo  1935 - 2007

Tại Quốc hội

Bản Hiến pháp Đệ nhị Cộng hòa công bố ngày 18/3/1967 ấn định tổ chức bầu cử Tổng thống và Thượng nghị viện, Hạ nghị viện vào cuối năm. Hai tướng Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ ra ứng cử trong một liên danh tổng thống - phó tổng thống và đắc cử nhiệm kỳ 1967-1971. Ông Kỳ chịu đứng phó cho ông Thiệu với lời hứa của ông Thiệu giao Quốc hội cho Kỳ kiểm soát. Kỳ định dùng Quốc hội xây dựng thế chính trị cho mình, nhưng sau  đó Thiệu đã khéo léo lấy hết quyền của Kỳ. Vào cuối nhiệm kỳ 1967-1971 Thiệu nắm chắc hành pháp trong tay và đàn em của Thiệu  trong Quốc hội cũng lấn áp ảnh hưởng của Kỳ.
Tại Quốc hội tôi gia nhập khối đối lập Dân Tộc Xã Hội (DTXH) . Khối DTXH gồm hai nhóm chính trị: Dân Tộc và Xã Hội. Nhóm  Xã Hội thành lập trong pháp nhiệm 1967-1971 gồm các đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ) do dân biểu Phan Thiệp cầm đầu và một sốdân biểu độc lập có khuynh hướng Phật giáo và một vài dân biểu khác trong vùng Sài gòn, Gia Định như bác sĩ Hồ Văn Minh, nhà báo Hồ Ngọc Nhuận … Nhóm Xã Hội chống khuynh hướng độc tài của tổng thống Thiệu .

Nhóm Dân Tộc gồm các dân biểu được giáo hội Phật giáo ủng hộ. Giáo hội Phật giáo tẩy chay cuộc bầu cử quốc hội năm 1967, nhưng quyết định tham dự cuộc bầu cử năm 1971 và giúp 19 dân biểu đa số  gốc miền Trung vào quốc hội, trong đó có tôi đắc cử tại thị xã Nha Trang. Hai dân biểu uy tín nhất là Lê Đình Duyên và Lý Trường Trân.

Hai nhóm Xã Hội và Dân Tộc là nòng cốt của khối đối lập DTXH gồm 29 dân biểu. Trong khối còn có các dân biểu thuộc nhóm tướng Dương Văn Minh như Hồ Ngọc Nhuận, Hồ Văn Minh, Nguyễn Hữu Chung, Lý Quý Chung và 3 dân biểu độc lập: Trần Văn Tuyên ở Sài gòn, Đinh Xuân Dũng ở Phan thiết và Trần Cao Đễ ở Vũng Tàu .

       Lúc đầu, giáo hội Phật Giáo định ủng hộ Lê Đình Duyên làm trưởng khối. Duyên là con trai của bác sĩ Lê Đình Thám, người chấn hưng phong trào Phật giáo tại miền Trung trong thập niên 1930. Các nhà lãnh đạo Phật giáo như Thượng tọa Thích Trí Quang, Thích Thiện Minh và hấu hết các nhà lãnh đạo Phật giáo đương thời đều do chương trình chấn hưng của bác sĩ Thám đào tạo .

Nhưng sau cùng các vị lãnh đạo Phật giáo ủng hộ luật sư Trần Văn Tuyên  làm trưởng khối. Tuyên sinh năm 1913 tại tỉnh Tuyên Quang, Bắc Việt, phía bắc Hà Nội 128 km. Ông gia nhập  VNQDĐ năm 16 tuổi,và sau khi tốt nghiệp cử nhân luật tại Hà Nội ông được bổ nhiệm tri huyện tại tỉnh Tuyên Quang. Nhưng ông từ chức sớm về Hà Nội dạy học tại trường trung học tư thục Thăng Long. Ông Võ Nguyên Giáp đang dạy Sử tại đó và hai người quen biết nhau. Nhưng hai người đi theo hai con đường chính trị khác nhau và trở thành địch thủ nhau cho đến năm1975, Giáp trở thành kẻ chiến thắng, Tuyên chết trong tù. Tuyên là một trong những nhân vật ký tên vào bản Tuyên ngôn Caravelle năm 1960 (2) kêu gọi tổng thống Ngô Đình Diệm cải tổ và bị ông Diệm cầm tù.

Sau khi Diệm bị lật đổ, ông Tuyên trở thành Phó thủ tướng cho Thủtướng Phan Huy Quát. Nhưng chỉ trong 4 tháng (tháng 2 đến tháng 6- 1965), Quát không chịu nổi áp lực của quân nhân từ chức trao quyền cho các ông tướng. Tuyên trở về hành nghề luật sư, sau đó được bầu làm thủ lãnh Luật sư đoàn. Ông ra ứng cử dân biểu nhiệm kỳ 1971-1975 và đắc cử tại Saigon – Gia Định đại diện hai Quận 1 & 3.

Quyết định ủng hộ ông Tuyên làm trưởng khối DTXH là một quyết định chính trị khôn khéo của giáo hội Phật giáo. Tuyên đã gíúp giữcho khối đối lập không tan rả trước nhiều lực xâu xé. Trước hết, tổng thống Thiệu không muốn làm việc với đối lập mà ông cho là thân Cộng; thứ hai là nỗ lực của cọng sản độn nhập vào để thao túng; và sau cùng Hoa Kỳ không có một chương trình giúp xây dựng dân chủvì mục tiêu của Hoa Kỳ vào thời gian đó là chấm dứt chiến tranh và rút quân.

Trong nhiệm kỳ 1967-71 Thiệu  gạt bỏ ảnh hưởng chính trị của Kỳ. Trong nhiệm kỳ 2 (1971-75) Thiệu chọn ông Trần Văn Hương đứng phó. Hương là một giáo sư trung học, nguyên hội trưởng Hội Hồng Thập Tự Việt Nam và có thời làm Đô trưởng Sài gòn. Ông Hương có uy tín với nhóm Liên trường, gồm các cựu học sinh các trường Trung học lớn ở  Nam bộ. Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1971,  liên danh Thiệu – Hương  ra tranh cử một mình vì vào phút chót cả haiứng cử viên Dương văn Minh và Nguyễn Cao Kỳ đều rút tên. Tuy nhiên với sự ủng hộ của Hoa Kỳ, ông Thiệu vẫn theo đường lối cứng rắn.

       Lập trường của khối DTXH đối với cuộc thương thuyết tại Paris là đạt được một thỏa ước chính trị dựa trên nguyên tắc dân tộc tự quyết để nhân dân miền Nam tự chọn lấy chế độ chính trị của mình. Nhưng Tuyên biết sự việc không đơn giản như vậy. Ông nghi ngờ chương trình thương thuyết của tổng thổng Nixon và bộ trưởng Ngoại giao Henry Kissinger. Năm 1972 ông Ronald Reagan có công việc riêng tạt qua Sài gòn đến thăm Tuyên để đáp lễ chuyến thăm của Tuyên năm 1965 tại Sacramento. Năm 1965 Tuyên là Phó thủ tướng đi công cán và ông Reagan đang làm thống đốc bang California. Trong một buổi họp Khối Tuyên cho biết ông Reagan hỏi theo ý ông thì nên chấm dứt cuộc chiến Việt Nam bằng cách nào. Qua câu chuyện với ông Reagan Tuyên có cảm tưởng Hoa Kỳ sẽ đi đến một thỏa ước chấm dứt chiến tranh bất lợi cho VNCH. Khối DTXH ủng hộ lập trường của tổng thống Thiệu là không chấp nhận một thỏa ước không có điều khoản buộc quân đội Bắc việt phải rút về miền Bắc cùng một lúc với quân đội Hoa Kỳ và đồng minh.

Tuy nhiên dưới áp lực cắt viện trợ đi đôi với lời hứa của tổng thống Nixon sẽ can thiệp quân sự mạnh mẽ - nếu Hà nội vi phạm thỏa ước tung quân đánh miền Nam - Thiệu  miễn cưỡng đồng ý ký Hiệp định Paris ngày 27/1/1973. Hiệp định không bắt buộc quân đội Bắc Việt rút quân.

Trước Tết Nguyên Đán Quý Sửu, nhằm ngày 2/2/1973 khối DTXH tuyệt thực trước thềm quốc hội phản đối Hoa Kỳ ký kết hiệp định Paris. Tuyên nói Hiệp định này sẽ làm miền Nam mất vào tay cọng sản. Về mặt thực tế, còn nước còn tát, Tuyên thuyết phục hai bên thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định, cho rằng đó là cách duy nhất để cứu miền Nam. Do đó khối DTXH ủng hộ và đứng ra thành lập Lực lượng Thứ ba tham gia Hội đồng Hòa hợp Hòa giải Dân tộc ba thành phầnquy định bởi Hiệp định và có nhiệm vụ tổ chức bầu cử. Tuy nhiên, hai bên tiếp tục vi phạm hiệp định bằng cách lấn đất giành dân và Hội đồng Hòa Hợp Hòa giải Dân tộc chưa bao giờ được hình thành.

Tuyên từng tham gia cuộc thương thuyết tại Genève chấm dứt chiến tranh Pháp- Việt chia đôi Việt Nam năm 1954. Ông biết cọng sản sẽkhông ngừng tay chừng nào họ chưa chiếm được miền Nam, và muốn tồn tại không có phương cách nào khác hơn là xây dựng một miền Nam dân chủ có một nền kinh tế tự lập vững mạnh.

Tuyên nghĩ nếu Nam Hàn có thể đứng vững trước tham vọng thôn tính của cọng sản Bắn Hàn tại sao miền Nam Việt Nam lại không? Hơn nữa VNCH còn nhận được nhiều viện trợ của Hoa Kỳ hơn Nam Hàn. Nhưng ông cũng biết có một khác biệt quan trọng. Hoa Kỳ muốn rời Nam Việt Nam, trong khi họ muốn ở lại Nam Hàn. Còn nữa, Nam Việt Nam không có người lãnh đạo vững vàng như ông Pak Chung Hee. Tổng thống Thiệu và các tướng lãnh của ông đều xuất thân từ lò đào tạo quân sự của người Pháp mục đích để phục vụ nỗ lực Pháp trở lại Việt Nam chứ không phải để tranh đấu cho nền độc lập của đất nước.

Trong khi đó khối DTXH gồm 3 nhóm đồng sàng dị mộng. Nhóm thân Phật giáo chống Thiệu, nhóm Quốc Dân Đảng lo xây dựng lực lượng và thanh thế cho đảng, nhóm thân tướng Dương Văn Minh có chương trình ủng hộ ông Minh trở lại nắm quyền. Nhờ uy tín của Tuyên Khối DTXH mới không tan rã. Ngoài ra Tuyên còn liên minh với một thành phần Công giáo do linh mục Trần Hữu Thanh cầm đầu để chống tham nhũng và đòi nới lỏng chế độ kiểm duyệt báo chí.

Tuyên biết tình thế rất khó khăn. Ông trăn trở tìm gỉải pháp. Ông nghĩ  đến quan hệ quốc tế; ông nghĩ đến việc ủng hộ tướng Minh thay Thiệu … Thế địa lý chính trị vào thời gian đó cho thấy miền Nam có thể sống còn vì Trung quốc không muốn một Việt Nam thống nhất. Cái lo của Trung quốc là sự hiện diện của quân đội Mỹ ở biên giới phía nam thì sau hiệp định Paris Mỹ đã rút hết.

Nhưng con đường ủng hộ tướng Minh để chấm dứt chiến tranh trong hòa bình là một con đường ảo tưởng. Sau khi ký hiệp định Paris, Hoa Kỳ chỉ muốn yên ổn rút quân không bị quân đội VNCH ngăn cản. Và giải pháp Dương Văn Minh hình như là một “âm mưu” bất thành văn giữa Hà Nội và Hoa Kỳ do tòa đại sứ Hoa Kỳ tại Sài gòn đạo diễn .

Đường lối ủng hộ tướng Minh giải thích tại sao vào tháng 2 năm 1975 có một điện tín từ khối DTXH đánh đi từ Sài gòn gởi cho quốc hội Mỹyêu cầu đừng chấp thuận $300 triệu mỹ kim viện trợ cho VNCH. Sựthật là đầu năm 1975, tổng thống Ford yêu cầu quốc hội giải tỏa ngân khoản đó, nhưng quốc hội Hoa Kỳ không muốn viện trợ nữa và câu giờ bằng cách cử một phái đoàn dân biểu đi Sài gòn để xem xét tình hình. Nhóm này gồm bà dân biểu Bella Abzug và Paul McClosky, hai dân biểu chống chiến tranh mạnh mẽ nhất tại quốc hội . Đến Saigòn, bà Abzug tiếp xúc với Hồ Ngọc Nhuận, - một dân biểu có cảm tình với Mặt Trận Giải Phóng miền Nam và là người tích cựcủng hộ giải pháp Dương Văn Minh thay Thiệu – và nói với Nhuận rằng trong mọi trường hợp quốc hội Hoa Kỳ cũng sẽ không giải tỏa ngân khoản này. Nhuận xem đây là cơ hội tốt épThiệu hợp tác với Minh đểtìm một giải pháp chung, nên sau khi thảo luận với một số dân biểu thân tướng Minh họp tại tư thất tướng Minh, Nhuận thảo một điện văn và thuyết phục một số dân biểu khối DTXH ký vào gởi cho quốc hội Hoa Kỳ. Nhìn lại nếu Hoa Kỳ viện trợ thêm 300 triệu mỹ kim vũ khí vào lúc muộn màng đó cũng không cứu được miền Nam nếu không muốn nói chỉ làm cho cuộc chiến kéo dài thêm vài tuần lễ hay vài tháng và thêm tổn thất nhân mạng cho cả hai bên.

Hà nội mở mặt trận đánh qua biên giới phía bắc năm 1972 chiếm tỉnh Quảng Trị và uy hiếp thành phố Huế, đồng thời đánh vào cao nguyên miền Trung và tạo áp lực vào thủ đô bằng mặt trận Bình Dương phía bắc Sài gòn. Quân đội VNCH chận được cuộc tiến quân của Bắc Việt  trên cả ba mặt trận, và tổng thốngThiệu đã nhân tình hình căng thẳng ép Quốc hội thông qua Luật Ủy quyền cho phép Tổng thống cai trị bằng sắc luật trong một thời gian giới hạn. Với LuậtỦy quyền, tổng thống Thiệu được tự do hành động không còn lo ngại tiếng nói của đối lập.

Năm 1974 Thiệu tu chính Hiến pháp để ông có thể ra ứng cử nhiệm kỳ thứ 3 (1075-79). Lập luận của Thiệu là tình hình đang khẩn trương, “không ai thay ngựa giữa dòng”. Cộng quân chiếm đất gìành dân khắp nơi, trong khi Hoa Kỳ tiếp tục cắt giảm viện trợ, ngay cả căn bản “một đổi một” theo hiệp định Paris cũng  không được tôn trọng. Khối DTXH chống Luật Ủy quyền và tu chính Hiến Pháp. Nhưng tin Trung quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của VNCH ngày 19/1 đã làm cho mọi tiếng nói chống đối trở nên mờ nhạt.

Câu chuyện Trung quốc chiếm Hoàng Sa năm 1974 vào thời điểm đó rất lờ mờ (3). Quần đảo Hoàng Sa nằm ngoài khơi khoảng 380 km cách Đà Nẵng và được một đơn vị địa phương quân VNCH trấn giữ. Tổng thống Thiệu không thông báo gì cho quốc hội biết tình hình căng thẳng ngoài hải đảo. Quốc hội biết khi tin tức quốc tế loan tải Trung quốc đã chiếm Hoàng Sa sau một trận hải chiến với Hải quân VNVH . Tổng thống Thiệu là người đích thân ra lệnh nổ súng bảo vệHoàng Sa mà không thông báo cho tòa đại sứ Hoa Kỳ biết như một thông lệ  khi ông có những quyết định quan trọng.

Biến cố Hoàng sa diễn ra trong khi hạm đội 7 của Hoa Kỳ có mặt quanh đó, nhưng không can thiệp, ngay cả khi bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam  yêu cầu cứu thủy thủ chiến hạm HQ 10 bị đánh chìm đang trôi dạt trên biển, Hoa Kỳ cũng làm ngơ. Hoa Kỳ có thể biết kế hoạch đánh chiếm Hoàng Sa của Trung quốc và đắc ý với kế hoạch này. Hoa Kỳ biết Hà nội sẽ chiếm miền Nam, nên nếu Hoàng Sa nằm trong tay Trung quốc còn hơn nằm trong tay Hà Nội, vì Nga – một đồng minh của miền Bắc- có thể xử dụng để từ Biển Đông dòm ngó eo biển Malacca dẫn vào Thái Bình Dương. Có nhiều chỉ dẫn cho thấy hình như có một thỏa thuận ngầm giữa Hoa Kỳ và Trung quốc để Trung quốc chiếm Hoàng Sa trước khi Sài gòn sụp đổ (4) .

Ngày 27/4/1975 đối lập rơi vào một trường hợp khó xử khi lưỡng viện quốc hội thảo luận một văn bản cho phép  tổng thống Trần Văn Hương (vừa được Thiệu từ chức trao quyền)  giao quyền tổng thống cho tướng Dương Văn Minh. Bản văn trên nguyên tắc vi phạm Hiến pháp vì không có điều khoản nào cho phép một sự trao quyền nhưvậy, nhưng quốc hội không có sự chọn lựa nào khác. Năm Sư đoàn quân cọng sản với xe tăng và trọng pháo đang vây hãm Sài gòn và cho biết họ chỉ nói chuyện với tướng Minh về gỉải pháp thành lập chính phủ liên hiệp để chấm dứt chiến tranh. Trước giờ biểu quyết, dân biểu Trần Cao Đễ nói với Tuyên rằng quốc hội đang vi phạm Hiến pháp. Tuyên trả lời: “Chúng ta hy sinh Hiến pháp để cứu nước”. Nhìn lại, quyết nghị nhường quyền chỉ là một sự “câu giờ” do đại sứ Pháp Merillon và đại sứ Hoa Kỳ Martin đạo diễn để tòa đại sứ Hoa Kỳ có thì giờ rút đi an toàn.

Trong nhiệm kỳ 1967-71 tại quốc hội xem như không có đối lập, ngoại trừ hai dân biểu Trần Ngọc Châu và Phan Thiệp trong nhóm Xã Hội. Châu là một dân biểu độc lập đại diện tỉnh Kiến Hòa, nơi ông hai lần làm tỉnh trưởng, lần đầu dưới thời tổng thống Ngô Đình Diệm, lần thứ hai sau khi Diệm bị lật đổ. Châu bất đồng ý kiến với cố vấn Hoa Kỳ về  cách thức điều hành chương trình “bình định nông thôn” và ra ứng cử dân biểu để có tiếng nói đối với các vấn đề quốc gia. Châu không minh thị chống Thiệu và chống Kỳ và được ông chủ tịch quốc hội Nguyễn Bá Lương, người của Kỳ, ủng hộ vào chức vụ Tổng Thư Ký quốc hội.

Châu là bạn quân ngũ với Thiệu, nhưng làm việc chặt chẽ với tòa đại sứ Hoa Kỳ, nên Thiệu nghi Châu tạo thanh thế riêng để chống mình. Sai lầm lớn của Châu là tiếp xúc với ông anh ruột Trần Ngọc Hiền, một điệp viên cao cấp của Hà nội mà không báo cáo cho Thiệu biết. Châu chỉ báo cáo cho tòa đại sứ Hoa Kỳ để che lưng. Khi Hiền bị bắt sự việc vỡ lở, Hoa Kỳ không xác nhận Châu có cho tòa đại sứ biết và Thiệu có cớ bắt Châu đưa ra tòa án quân sự xử 20 năm tù. Lúc đó Thiệu đã quét hết tay chân của Kỳ trong quân đội và trong bộ máy hành chánh. Sau khi bỏ tù Châu, ông Thiệu có thế nắm luôn quốc hội .

Cuộc bầu cử dân biểu nhiệm kỳ hai, 1971-75, tổ chức tương đối dân chủ. Ngoài việc nắm hết phiếu của miền cao nguyên và đồng bằng sông Cửu Long, Thiệu để cho các ứng cử viên các tỉnh miền Trung và vùng Sàigòn – Gia Định tự do tranh cử. Phật giáo và VNQDĐ thắng lớn tại các tỉnh miền Trung; nhóm Liên trường ủng hộ tướng Minh và một số thân Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam thắng tại vùng thủ đô. Sau bầu cử nhóm các dân biểu này trở thành nòng cốt đối lập .

Nhiệm kỳ 2, tại quốc hội có hai khối Dân Chủ và Cộng Hòa thân chính, có khối DTXH đối lập, có nhóm Quốc gia trung lập.  Đối lập tựdo phát biểu  ý kiến trước diễn đàn Quốc hội, nhưng đối lập không có phiếu đa số để thông qua một bộ luật nào. Phiếu đa số nằm trong tay các dân biểu thân chính và được dùng để thông qua các bộ luật ông Thiệu cần. Ông Thiệu không chịu làm việc với đối lập. Ông cho đối lập là vô tích sự bị thao túng bởi các nhóm chống chiến tranh và thân cộng. Ông không hy vọng gì vào sự lãnh đạo của Tuyên.

Tiếng nói của đối lập do đó không có ảnh hưởng gì. Trong khi đó Hoa Kỳ có ảnh hưởng đến toàn bộ sinh hoạt của miền Nam từ xã hội, kinh tế đến quân sự. Nhưng tòa đại sứ Hoa Kỳ cũng xem đối lập như một món hàng trang trí, một thứ bình phong bênh vực Thiệu trước sự tốcáo của báo chí là Hoa Kỳ dung dưỡng ông Thiệu độc tài. Thời Đệ nhịCộng Hòa là thời gian Hoa Kỳ quá bận tâm vào việc chấm dứt chiến tranh.

Tòa đại sứ Hoa Kỳ quan hệ với đối lập qua việc tiếp xúc với Tuyên. Ông có tên trong danh sách khách mời tham dự các sinh hoạt có tính chính trị và quan hệ xã hội (PR) của tòa đại sứ và cũng là khách của các viên chức quan trọng tại tòa đại sứ Hoa Kỳ. Tuy nhiên trong các buổi họp hằng tuần của Khối, ông ít khi nói đến các cuộc tiếp xúc này. Có lẽ vì chẳng có gì để nói.

Yếu tố chính của sinh hoạt dân chủ què quặt vì người Việt chưa có truyền thống sinh hoạt dân chủ. Cho đến thời điểm đó Việt Nam chưa từng có kinh nghiệm dân chủ.  Không kể thời phong kiến, thời gian chiến tranh chống Pháp giành độc lập (1946-54), một bên là Cọng sản, một bên là Việt Nam tự do thân Pháp có cựu hoàng Bảo Đại làm quốc trưởng với một ủy viên toàn quyền người Pháp quyết định mọi việc. Dưới Đệ Nhất Cộng Hòa, Việt Nam có một Hiến pháp dân chủnhưng chỉ để xem chơi không bao giờ được vận dụng. Ông Diệm không dung túng bất cứ ý kiến đối lập nào trên báo chí hay tại quốc hội. Hiến Pháp 1967 dân chủ hơn nhưng do điều kiện chiến tranh chưa bao giờ được áp dụng một cách nghiêm chỉnh.

Nhìn lại tôi có cảm tưởng ông Tuyên có thông tin nhiều phía để đoán biết tương lai vô vọng của miền Nam. Kinh tế èo ọp. Ngân sách cho quân đội gần một triệu người gồm Bộ binh, Không quân, Hải quân gồm trang bị và lương bổng đều được Hoa Kỳ viện trợ. Bàn tay của cơquan Trung ương Tình báo Hoa Kỳ (CIA) vươn tới tất cả các cơ cấu quốc gia từ quân đội, hành chánh đến quốc hội.Theo tài liệu “The CIA And the Generals” của cơ quan CIA giải mật ngày 19/2/2009, có ít nhất 20 Dân biểu và Thượng nghị sĩ đối lập lẫn thân chính quyền có quan hệ với CIA. Và chương trình của Hoa Kỳ là đạt được một thỏa ước tại Paris, lấy lại tù binh và rút khỏi miền Nam một cách an toàn.

Trong bối cảnh chính trị đó ông Tuyên đã thành công giữ cho đối lập không bể. Ông biết chiến tranh Việt Nam là một cuộc chiến nhiệm chức giữa Hoa Kỳ và liên minh lỏng lẻo Nga- Tàu. Và như một quy luật, chiến tranh nhiệm chức có thể giải quyết giữa các siêu cường và nếu may mắn nhân dân miền Nam có thể tránh được ách cọng sản.

Kinh nghiệm chính trị cho ông biết muốn chống cọng sản cần có dân chủ nên suốt cuộc đời ông là đấu tranh xây dựng dân chủ. Đó là lý do ông đứng về phía đối lập, chống Diệm, chống Thiệu và sau cùng nghi ngờ chính sách của Hoa Kỳ tại Việt Nam.

Ông Tuyên thỉnh thoảng nói đến một “Liên Minh Quốc tế vì Dân chủ”. Ông cho biết lúc làm Phó thủ tướng cho thủ tướng Quát khi du hành qua Phi châu ông đã nêu ý kiến “liên minh” với các nhà lãnh đạo Phi châu như  Đại Tá Houari Boumedieene của Algeria, tổng thống Habib Bourguiba của Tunisia,  tổng thống Gamal Ađel Nasser của Ai Câp. Các vị ấy tỏ ý tán thành và hứa sẽ cùng làm việc với chính phủ Quát để thiết lập một liên minh như vậy. Rất tiếc chính phủ Quát không tồn tại lâu và Tuyên trở về hành nghề luật sư .

Cho đến phút chót ông Tuyên vẫn giữ tư cách một người yêu nước, một nhà chính trị và một người lãnh đạo. Ông không bỏ đất nước ra đi khi cọng sản vào Sài gòn. Một ngày trước đó, ông từ chối đề nghịcủa Joe Bennett, tham vấn chính trị tòa đại sứ Hoa Kỳ cung cấp phương tiện đưa ông rời khỏi nước.  Con trai của ông Tuyên là Trần Tử Huyền (California, Hoa Kỳ) cho biết  sau khi cọng sản chiếm Sài gòn tướng Võ Nguyên Giáp gởi một sĩ quan cấp tá đến thăm và hứa sẽ vận động với Ủy ban Quân quản Sàigòn – Gia Định không buộc ông ra trình diện học tập. Tuy vậy, ông vẫn ra trình diện để - theo lời ông - chia sẻ số phận với đồng bạn và đồng chí của ông.

Ủy ban Quân quản đưa ông Tuyên đến trại tập trung Long Thành, không xa Sài gòn cùng với khoảng 3.000 viên chức cao cấp của chính phủ VNCH. Sau 9 bài gỉảng căn bản, cọng sản phát giấy mực yêu cầu mọi người viết bản tự thú nói “tội lỗi” của mình đối với nhân dân.
Ông Tuyên viết trong bản tự thú : “Tôi không pham tội gì đối với nhân dân. Các ông có thể liệt tôi vào thành phần chống chủ nghĩa cọng sản, chống đế quốc và chống độc tài” . Mùa Thu năm 1976, cọng sản chuyển ông ra một trại tù tại tỉnh Hà Tây. Ngày 27 tháng 10 ông chết trong một hoàn cảnh rất đáng nghi ngờ. Có lẽ cọng sản đã quyết định số phận của ông sau lời khai ở Long Thành.  Nằm xuống luật sư Trần Văn Tuyên đã hiến cả cuộc đời cho đất nước .

Đêm 29 tháng 4 năm 1975 là một đêm dài chấm dứt sự can thiệp của Hoa Kỳ tại Đông nam Á. Một thất bại thê thảm! Nếu quyết định của Hoa Kỳ can thiệp giúp miền Nam ngăn chận cuộc xâm lăng của cọng sản và xây dựng một nước dân chủ là đúng về mặt chiến lược, thì Hoa Kỳ đã thất bại vì lãnh đạo chiến tranh yếu kém về cả hai mặt quân sựvà chính trị.
Ông bộ trưởng quốc phòng McNamara lãnh đạo cuộc chiến tranh chống du kích bằng điện toán và “đếm xác chết” là hỏng. Hoa Kỳ không có một chiến lược chiến tranh vì không biết Trung quốc sẽphản ứng thế nào. Hoa Kỳ không muốn chạm trán với Trung quốc trong một cuộc chiến trên đất liền như tại Triều Tiên một lần nữa .

Sau khi Hoa Kỳ giúp các tướng lật đổ ông Ngô Đình Diệm và đổ quân vào Việt Nam, Hoa Kỳ tin rằng sức mạnh quân sự của mình sẽ làm cho Bắc Việt nản chí và Nam Việt Nam sẽ có hòa bình để xây dựng. Rất tiếc lãnh đạo Hoa Kỳ đã bó tay các ông tướng không cho trải quân đóng kín biên giới phía Bắc dọc theo vĩ tuyến 17 từ bờ biển tỉnh Quảng Trị qua Lào đến tận sông Cửu Long để cắt đường của Hà Nội đưa quân và tiếp liệu vào miền Nam. Trong cuộc gặp tổng thổng Johnson tại Guam ngày 20/3/1967, Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ đã đưa ra đề nghị này (Vietnam War: Day by Day của John S. Bowman, trang102) nhưng Hoa Kỳ không dám phiêu lưu. Nhìn lại nếu đã chận đường tiếp vận của Bắc việt một cách rốt ráo Nam Việt Nam có thể đã sống còn. Trung lập hóa Lào dưới mắt chính quyền Kennedy tưởng là đắc sách đã đưa đến thất bại.

Một lý do khác không kém phần quan trọng đưa đến thất bại là vì thiếu kinh nghiệm dân chủ, không có Xã hội Dân sự và không có người lãnh đạo có tài. Sách lược chống cọng sản của đối lập đặt tiền đềvào chính sách thay Thiệu là một sai lầm, chỉ làm cho Thiệu yếu đi trong khi chẳng làm cho các thành phần chống Cộng đoàn kết với nhau. Mặt khác cọng sản đã rất thành công trong chính sách xâm nhập vào các cơ cấu của miền Nam: Vũ Ngọc  Nhạ, Huỳnh Văn Trọng vào Phủ tổng thống, Phạm Ngọc Ẩn trong giới truyền thông, Phạm Ngọc Thảo trong quân đội, và Lý Quý Chung, Nguyễn Văn Hàm … trong quốc hội .

Xem tiếp :  
(Phần 2/2)





No comments:

Post a Comment

View My Stats