Cách nay 48 năm, truyền thống Tết của Dân tộc Việt
Nam đã bị người Cộng sản nhuộm máu đỏ khắp lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa với cuộc
tấn công quân sự từ đêm Giao thừa (31/1/1968), sau đó biến thành chiến dịch
quân sự kéo dài đến hết năm 1968.
Người Cộng sản gọi đó là “cuộc tiến công nổi
dậy và vận động quần chúng nổi dậy chiếm chính quyền”, nhưng không hề có cuộc
nổi dậy nào của người dân miền Nam. Cũng không có bất cứ thị trấn hay thành phố
nào của miền Nam bị quân Cộng sản chiếm đóng vĩnh viễn.
Quan trọng hơn, không có nhóm dân Việt Nam Cộng hòa
(VNCH) nào đã bỏ đất, bỏ nhà để chạy về phía Cộng sản mỗi khi quân Cộng sản
tràn đến.
Thương vong đôi bên, kể cả của Quân đồng Đồng minh của
VNCH gồm Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Thái Lan, Úc, New Zealand, đã nằm yên trong quá khứ.
Những con số không thể kiểm chứng chính xác cũng đã mục nát trong lòng đất.
Nhưng mỗi khi Tết đến, không người dân nào của VNCH
lại không nhớ đến nỗi kinh hoàng của các vụ lính Cộng sản thảm sát và chôn tập
thể người dân Huế, diễn ra từ sáng sớm ngày 31/01/1968. Sau đó tiếp tục kéo dài
trong 26 ngày giao tranh giành quyền làm chủ Huế với Quân đội VNCH và Hoa Kỳ.
Cho đến năm 2012, qua 12 Tập phim “Mậu Thân 1968”
của Đạo diễn (Bà) Lê Phong Lan, quá khứ tội ác chiến tranh ở Huế của người Cộng
sản đã được che đậy cẩu thả để đạt mục tiêu duy nhất là: đổ tội cho phía VNCH
và Hoa Kỳ đã gây ra phần lớn chết chóc cho dân lành.
Nhưng bộ phim được gọi là lịch sử lệch lạc này dù,
khởi đầu do Lan bỏ tiền ra thực hiện, nhưng sau khi hoàn tất lại được Đài Truyền
Hình Việt Nam mua chiếu độc quyền nhằm bạch hóa trách nhiệm cho quân Cộng sản
là chính.
Vì vậy báo đài của Nhà nước đã nhanh chóng kết luận: “Cái
gọi là "cuộc thảm sát đẫm máu” chỉ là đòn tâm lý chiến mà Mỹ dựng lên, thực
tế Huế đã bị bom Mỹ phá hủy làm nhiều thường dân chết cùng với quân giải phóng
và lính Mỹ.”
Sự
thật còn đó
Chuyên Mậu Thân 1968, trong nhiều năm được xếp vào
loại “nhạy cảm” đối với nhân dân miền Bắc và phe Cộng sản trong Nam, thường gọi
quen thuộc là Việt Cộng (Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam).
Nhưng tại sao lại cho là “nhạy cảm”? Mời Độc giả đọc
lại những gì tôi (Phạm Trần) viết Tháng
01 năm 2013:
“Lê Phong Lan nói: “Vì sao mọi người phía ta tránh
nhắc đến Mậu Thân, đó là vì sự tổn thất của quân đội nhân dân Việt Nam ở sự kiện
này quá nhiều. Tâm sự với tôi khi trả lời phỏng vấn, nhiều chỉ huy các sư đoàn
dạn dày chiến trận còn khóc nức lên vì thương lính. Đó là lý do duy nhất”.
Quả nhiên về phương diện quân sự thì cả quân miền Bắc
và du kích trong Nam đã thiệt hại rất nặng. Theo các ước tính quân sự thì trong
cuộc tấn công Mậu Thân, CSVN đã vận động từ 323,000 đến 595,000 quân chính quy
và địa phương trong Nam để thực hiện kế hoạch chống lại khoảng 1 triệu 200 quân
VNCH và Hoa Kỳ với dự kiến chiếm đóng nhiều vùng lãnh thổ của VNCH.
Tuy nhiên kế hoạch hồ hởi của Hà Nội đã bị quân và
dân VNCH được sự yểm trợ của quân đội Hoa Kỳ đánh bại. Khoảng từ 85,000 đến
100,000 quân Cộng sản bị loai khỏi vòng chiến, so với thiệt hại của đồng minh
có trên 6,000 tử thương, ngót 30,000 bị thương và trên 1,000 quân bị mất tích.
Thương vong thường dân, tính riêng tại Huế cũng đã
có từ 5,000 đến 6,000 người chết và mất tích, đa số bị quân Cộng sản thảm sát bằng
nhiều hình thức, kể cả chôn sống hay đập đầu cho chết vì muốn tiết kiệm đạn để
chiến đấu.
Nhưng phía Cộng sản đã liên tiếp phủ nhận trách nhiệm
và đổ lỗi cho bom đạn của Mỹ và quân đội Việt Nam Cộng hòa gây ra.
Vì vậy, theo tường thuật của báo chí Việt Nam thì bà
Lê Phong Lan cho rằng: “Thấy trên mạng có quá nhiều thông tin sai lệch về sự kiện
lịch sử này, tới nỗi các thế hệ sinh sau 1975 không còn biết đâu là thông tin
sai, đâu là thông tin đúng vì vậy lại càng quyết tâm để làm phim.”
Báo Công an TP HCM ngày 25-01-013 cho biết: “Để hoàn
tất bộ phim có đề tài khó này, đạo diễn đã gặp, phỏng vấn tại VN và Mỹ đến 200
nhân chứng cả ba phía Quân đội nhân dân VN, quân đội Mỹ và những người trong bộ
máy chính quyền Việt Nam Cộng hòa để tìm ra sự thật. Ra mắt đúng vào dịp kỷ niệm
45 năm cuộc tổng tấn công Mậu Thân.”
Rồi bà Lê Phong Lan còn lý giải thêm rằng: “12 tập
phim, tôi chỉ muốn tập trung đi tìm câu trả lời cho câu hỏi tại sao Mỹ - một cường
quốc, lại can dự vào công việc của một nước nhỏ bé bằng cách phân tích bối cảnh,
tình hình, lật lại hồ sơ tư liệu, tìm hiểu ý nghĩa thật sự của Mậu Thân 1968.”
(Đài Truyền hình Việt Nam)
“Tôi đã gặp những nhà báo Mỹ, những người lính bên
kia chiến tuyến, họ đã nói, tất cả những thông tin về vụ thảm sát năm 1968 tại
Huế chỉ là sự vu cáo của Mỹ và chính quyền Việt Nam cộng hòa đổ lên đầu Quân Giải
phóng miền Nam Việt Nam.
Để khỏa lấp cho sự thất bại nặng nề, phía Mỹ và Việt
Nam cộng hòa đã phát động những tin đồn nhảm gây nhiễu loạn như một cuộc chiến
tranh tâm lý, và nó đã kéo dài trong một thời gian. Nhưng sự thật là sự thật.
Chiến dịch Mậu Thân trải qua thời gian càng khẳng định là bản anh hùng ca vĩ đại
của quân dân Việt Nam.”
Vẫn theo người đạo diễn này thì: “Nhiều câu chuyện lịch
sử ít người biết được lật lại. Một trong số đó là sự kiện 26 ngày đêm tại Huế từng
bị cho là "cuộc thảm sát đẫm máu” được mô tả trong cuốn sách Dải khăn sô
cho Huế của nhà văn chế độ cũ - Nhã Ca.”
Báo Dân Việt (23-01-2013) trích lời bà này viết rằng:
“Chị nói, nhiều người đã dựa vào cuốn sách “Vành khăn xô cho Huế” của tác giả
Nhã Ca để dựng nên những chuyện vô cùng sai lệch về Mậu Thân 1968, làm oan uổng
cho rất nhiều người. (Chú thích: Tên đúng là “Giải Khăn Sô Cho Huế”-Phạm Trần)
Trong cuốn sách đó, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường bị
vu oan là dẫn đầu một cánh quân đi thảm sát các nhân viên công quyền và người
dân Huế, thực tế, trong thời điểm ấy, ông Tường vẫn ở trên chiến khu. Nhà
nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân cũng chịu một nỗi oan tương tự, ông chỉ dẫn đầu một
toán học sinh, sinh viên nhưng Nhã Ca cũng viết ông dẫn quân đi thảm sát. Tất cả
các nhân chứng mà đạo diễn Phong Lan gặp, trong đó có nguyên Tổng Bí thư Lê Khả
Phiêu đã khẳng định không có một vụ thảm sát nào. Các nhà báo quốc tế yêu cầu
được tiếp cận với những hố chôn người tập thể như cáo buộc của chính quyền Việt
Nam cộng hòa nhưng họ cũng bị từ chối. Một nhân chứng đạo diễn Phong Lan đã gặp
và phỏng vấn là nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cho biết, quân đội Bắc Việt Nam vô cùng
nghiêm túc, kỷ luật, không hề có chuyện thảm sát.”
Tuy nhiên cũng chính Hoàng Phủ Ngọc Tường lại nói với
Nhà văn Thụy Khuê trong cuộc phỏng vấn cho chương trình tiếng Việt đài Phát
thanh Quốc tế Pháp (Radio France International, RFI) ngày 12/07/1977 rằng:
“Trong cuốn Giải Khăn Sô Cho Huế, của Nhã Ca in sau biến cố Mậu Thân, tác giả
cũng nói rằng: Phủ (tức là tôi), không về Huế, và nếu có về thì chắc cũng không
giết người. Tôi thành thật cảm ơn chị Nhã Ca đã dành cho tôi điều nhìn nhận
khách quan rất quan trọng này, dù trong cảnh tượng máu lửa hỗn quan hỗn quân của
Huế Mậu Thân.
Đã không có mặt ở Huế thì làm sao tôi -Hoàng Phủ Ngọc
Tường- lại có thể làm cái việc ghê gớm gọi là "đồ tể" Mậu Thân ở Huế
được?”
Như vậy thì bà đạo diễn Lê Phong Lan có nói và làm
phim đúng không?
Cũng trong cuộc phỏng vấn này, Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc
Tường, thành viên của Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc Dân Chủ Và Hòa Bình Thành
Phố Huế đi theo Cộng sản trong vụ Mậu Thân, còn đối đáp như sau :
Thụy Khuê: Nhìn từ phía những dữ kiện lịch sử mà anh
nắm bắt được, diễn biến Mậu Thân đã xảy ra trong một trình tự như thế nào?
HPNT: Huế Mậu Thân đã xảy ra cách đây gần 30 năm.
Sách vở, tài liệu đã được công bố từ nhiều phía của cuộc chiến, khá đầy đủ, có
thể làm cơ sở cho những phân tích khoa học để giải phẫu một cuộc chiến mà thật
ra, không thể đơn giản tách riêng ra trong biến cố Mậu Thân. Điều quan trọng
còn lại tôi xin ngỏ bầy ở đây, với tư cách là một đứa con của Huế, đã ra đi và
trở về, ấy là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những tang tóc
thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải gánh chịu, do hành động giết oan của
quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân. Đó là một sai lầm không thể nào biện
bác được, nhìn từ lương tâm dân tộc, và nhìn trên quan điểm chiến tranh cách mạng.
Nhưng tôi tin rằng đây là một sai lầm có tính cục bộ,
từ phía những người lãnh đạo cuộc tấn công Mậu Thân ở Huế, chứ không phải một
chính sách toàn cục của cách mạng. Bởi vì tình trạng giết chóc bừa bãi như vậy,
đã không xẩy ra ở những địa phương khác trong Mậu Thân, ngay cả trên một địa
bàn rộng lớn với tình trạng xen kẽ giữa những lực lượng đối địch rất phức tạp
như ở Sài Gòn thời ấy.
Thụy Khuê: Vậy, theo anh, ai trách nhiệm những thảm
sát ở Huế?
HPNT: “Tôi không đủ thẩm quyền để phán xét bất cứ cá
nhân nào. Xin trích dẫn theo trí nhớ một ý tưởng trong hồi ký của chính ông Lê
Minh, tư lệnh chiến dịch Huế Mậu Thân: Dù bởi lý do nào đi nữa, thì trách nhiệm
vẫn thuộc về những người lãnh đạo mặt trận Mậu Thân, trước hết là trách nhiệm của
tôi. Qua bài hồi ký tâm huyết này, đã được công bố trên tạp chí Sông Hương, Huế,
và sau đó, nếu tôi không nhớ lầm, đã được dịch và in toàn bộ trên báo Mỹ
Newsweek, tác giả, Lê Minh (lúc đó đã nghỉ hưu), còn nhắc nhở rằng, điều quan
trọng có thể làm, và phải làm bây giờ, là những người lãnh đạo kế nhiệm ở Huế,
phải thi hành chính sách minh oan cho những gia đình nạn nhân Mậu Thân, trả lại
công bằng trong sáng và những quyền công dân chính đáng cho thân nhân của họ.”
Những
tiếng nói khác
Ông Đinh Lâm Thanh, trong Bài thuyết trình trong dịp
tưởng Niệm 40 năm biến cố Mậu Thân tổ chức tại Paris ngày 02.03.2008, nói: “Tại
Huế, CS lùng bắt thành phần quân-cán-chính, tập trung dân để tổ chức đấu tố, bắn
giết, chôn sống tại chỗ một số và dẫn những người còn lại theo làm tù dân - tôi
nói tù dân, vì tù là những người dân vô tội - trước rút lui tháo chạy trước sức
tấn công mãnh liệt của QLVNCH và Đồng Minh.
Nếu tính nạn nhân tại Huế, ngoài số quân nhân, cảnh
sát, nhân viên cán bộ hành chánh về nghỉ Tết cũng như những người sống tại địa
phương làm việc cho chính quyền Sài Gòn bị Cộng sản bắn ngay tại chỗ là 1.892
người. Ngoài ra người ta còn tìm được 2326 tử thi thường dân trong 22 hố chôn tập
thể tại những địa điểm như Trường Gia Hội, Chùa Theravada, Bãi Dâu, Cồn Hến, Tiểu
Chủng viện, Quận tả ngạn, Phía đông Huế, Lăng Tự Đức, Lăng Đồng Khánh, Cầu An
Ninh, Cửa Đông Ba, Trường An, Ninh Hạ, Trường Vân Chí, Chợ Thông, Chùa Từ
Quang, Chùa Từ Đàm, Lăng Gia Long, Đồng Di, Vịnh Thái, Phú Lương, Phú Xuân, Thượng
Hòa, Thủy Thanh, Vĩnh Hưng và Khe Đá Mài.
Mỗi hố chôn tập thể từ 5, 7 người đến trên 400 nạn
nhân như ở Khe Đá Mài. Những nạn nhân nầy bị thảm sát một cách dã man như: Cột
chùm nạn nhân lại với nhau và đốt cháy bằng xăng, bắt ngồi trên mìn rồi cho nổ
tan xác, chặt đầu, bắn vào ót, đập chết bằng bá súng, đóng cọc từ dưới bàn tọa
lên đến cổ, trói tay chân thành từng chùm rồi xô xuống hố chôn sống. Nạn nhân
là thường dân vô tội tuổi từ 15 trở lên, gồm có sinh viên học sinh, 6 linh mục
là các cha Bửu Đồng, Hoàng Ngọc Bang, Lê Văn Hộ, cha Guy và cha Urbain (dòng
Thiên An), và cha Cressonnier (Hội Thừa sai Paris), 5 thầy dòng gồm 3 sư huynh
dòng Thánh Tâm là thầy Hec-Man, thầy Mai Thịnh và thầy Bá Long, 2 sư huynh dòng
Lasan là thầy Agribert và thầy Sylvestre. Hai thầy dòng Lasan bị bắt và bị chôn
sống chung một hố với linh mục Bửu Đồng tại Sư Lỗ, quận Phú Thứ. Ngoài ra Cộng
sản còn giết các giáo sư đại học người nước ngoài trong lúc họ đang dạy ở đại học
Y khoa Huế và thân nhân họ hàng của những người phục vụ dưới chế độ VNCH. Người
ta ước lượng tại thành phố Huế có gần 5.000 người bị Cộng sản giết trong vòng mấy
tuần lễ.
Những người lớn tuổi còn sống tại Huế là những nhân
chứng sống. Trong đó có hai thanh niên nguyên là học sinh trung học, nay đã 56
tuổi, trả lời phỏng vấn của các nhà báo ngoại quốc. Người thứ nhất tên Tuấn
cùng với những học sinh khác đã bị CSBV bắt đào lỗ chôn sống 5 người tại Gia Hội
ngay trong ngày đầu tiên khi CS vừa chiếm Huế. Học sinh thứ hai, xin giấu tên, ở
Phủ Cam bị bắt đi theo đoàn tù dân đưa chôn sống ở Khe Đá Mài. Cả hai học sinh
nầy nhờ một phép nhiệm mầu nào đó họ đã thoát được và sống sót đến ngày hôm
nay.” (Khối 8406Tự do Dân chủ cho Việt Nam, 01-2009)
Hai Linh mục Phan Văn Lợi và Nguyễn Hữu Giải hiện
còn sống ở Việt Nam kể lại như sau:
“…tại núi Ba Tầng (núi Bân), phía Nam thành phố Huế.
Ngôi mộ này lưu giữ hơn 400 bộ hài cốt chủ yếu bốc từ Khe Đá Mài nhưng đã bị
chính quyền cộng sản phá đổ trụ bia và để cho hoang phế suốt 32 năm trời…
“Trong toàn bộ biến cố Tết Mậu Thân, có lẽ những gì
xảy ra tại Huế là đau thương và đánh động hơn cả, có lẽ cuộc thảm sát tại Khe
Đá Mài là rùng rợn, dã man và thê thảm nhất. Tiếc thay, theo sự am hiểu của
chúng tôi, hình như người ta chỉ biết đến kết cục của nó là hàng trăm bộ hài cốt
dồn lại một đống dưới khe sau khi thịt thối rữa bị nước cuốn đi lâu ngày, từ đó
suy diễn ra sự việc hơn là biết rõ diễn tiến của toàn bộ sự việc kể từ lúc nạn
nhân bắt đầu bị dẫn đi đến chỗ hành quyết”. (Đối Thoại online, 17-01-2008)
Hai linh mục Lợi và Giải cho biết họ họ gặp một nhân
chứng sống lúc bấy giờ ông ta mới 17 tuổi cũng bị bắt theo đoàn người bị đưa đi
giết ở Khe Đá Mài nhưng may mắn lợi dụng lúc đêm tối nên ông đã trốn thoát và
hiện còn sống ở trong nước đã kể lại:
“Hồi ấy, tôi mới 17 tuổi, đang là học sinh trung học
đệ nhị cấp. Vì tình hình bất an, gia đình tôi đã từ quê chạy về thành phố, cư
ngụ tại giáo xứ Phủ Cam, thôn Phước Quả, xã Thủy Phước, tỉnh Thừa Thiên (nay gọi
là phường Phước Vĩnh, thành phố Huế) từ mấy năm trước... Khuya mùng Một rạng
mùng Hai Tết, tôi nghe tiếng súng nổ khắp nơi và được tin Việt Cộng đã chiếm
nhiều nơi trong thành phố Huế... Cả gia đình tôi cũng như nhiều giáo dân ở Phủ
Cam đều chạy đến ẩn núp trong nhà thờ để tránh bom đạn. Lính Nghĩa quân của xã
và một số quân nhân về phép chiến đấu bên ngoài để bảo vệ đồng bào. Sau mấy
ngày, không có tiếp viện nên chiều mùng 5 Tết (3 tháng 2 / 1968) phải rút chạy...
Khuya mùng 5 Tết, Việt Cộng tràn vào nhà thờ bắt những người từ 15 tuổi đến
ngoài 50 tuổi bất kể là học sinh hay thường dân... và tuyên bố ‘cho đi học tập
trong vòng 3 ngày sẽ trở về’ trong đó có tôi... Sáng hôm sau, chúng tôi bị dẫn
đi theo đường xe lửa từ Phủ Cam ra Bến Ngự và đến chùa Từ Đàm... Tại đây tôi thấy
Việt Cộng rất đông vừa du kích địa phương vừa bộ đội miền Bắc... Ngôi nhà 5
gian thì 4 gian đã đầy người bị bắt từ mấy ngày trước, còn một gian để giam giữ
những người mới bị bắt... Tôi gặp những người quen như ông Tín (thợ chụp ảnh),
ông Hồ (thợ hớt tóc), anh Trị (con ông Ngọc người đánh đàn trong nhà thờ), ông
Hoàng (Đông y sĩ ở Chợ Xép), hai người con trai ông Thắng (làm nghề nấu rượu
nuôi heo), hai người con trai ông Vang (nhạc sĩ thổi kèn đồng), anh Thịnh (con
ông Năm), hai anh em Bình và Minh (con ông Thục), anh Minh (16 tuổi, con ông
Danh nhân viên Công Ty Thủy Điện Huế) đều là học sinh... Chúng tôi ngồi tại
chùa Từ Đàm suốt cả một ngày từ sáng tới tối không được ăn uống gì cả... Họ đưa
cho chúng tôi mỗi người một tờ giấy để viết bản ‘khai lý lịch’ tên, nghề nghiệp,
tên cha mẹ, sinh quán ở đâu... Ai khai gian sẽ bị đem ra bắn... Tôi thấy một số
người bị trói vào gốc cây bồ đề và bị đem ra bắn chôn ngay trong sân chùa,
trong đó có anh Hoàng Sự (Cảnh Sát) mà tôi biết tên. Họ cho một vài người về nhắn
với gia đình tiếp thế lương thực và quần áo, thuốc men cho những người đang bị
giam giữ... Khi trời sẩm tối, họ bắt chúng tôi ra ngồi xếp hàng giữa sân chùa.
Một anh cán bộ tuyên bố:
- Anh em yên tâm, Cách Mạng sẽ đưa anh em đi học tập
trong 3 ngày rồi sẽ cho về với gia đình! Bây giờ chúng ta lên đường!.
Rồi họ dùng dây điện thoại trói tay chúng tôi ra
phía sau lưng từng người một, rồi dùng dây kẽm gai nối 20 người làm một toán.
Tôi đếm được trên 25 toán như thế (tất cả 500 người). Một người địa phương đi
nhìn mặt anh em chúng tôi và nói với nhau:
- Không thấy Trọng Hê và Phú Rỗ trong số giáo dân Phủ
Cam ở đây.
(Anh Trọng con ông Hê và anh Phú là hai thanh niên ở
Phủ Cam có võ nghệ mà giới du đãng ở Huế biết tiếng. Hai anh đã chạy theo lính
Nghĩa Quân xã rút lui khi Việt Cộng vào nhà thờ! Những người bị bắt đến đây đều
là dân lành vô tội).
Họ dẫn chúng tôi đi vào đường bên trái Đàn Nam Giao,
vòng qua Dòng Thiên An, đến lăng Khải Định, vòng phía sau trụ sở Quận Nam Hòa,
ra đến bờ sông Tả Trạch (Thượng nguồn sông Hương)... Đến bờ sông, Việt Cộng cho
chặt cây lồ ô (nứa) làm bè để tất cả đoàn người vượt qua sông (khu vực lăng Gia
Long), thuộc vùng núi Đình Môn, Kim Ngọc (vùng núi tranh). Từ đó, chúng tôi bắt
đầu đi sâu vào rừng, ban đêm, trời lạnh lắm, khi lên đồi, lúc xuống lũng, lúc lội
qua khe... Khoảng 30 bộ đội miền Bắc dẫn chúng tôi đi, họ dùng đèn pin hay đuốc
để soi đường, chúng tôi đi trong rừng tre nứa và cây cổ thụ dày đặc... Khoảng nửa
đêm, chúng tôi được dừng lại để nghỉ và mỗi người nhận được một vắt cơm. Chúng
tôi đoán đã đi được trên 10 cây số rồi! Chúng tôi ngồi gục đầu dưới cơn mưa, cố
gắng ngủ một chút để lấy sức còn phải đi tiếp... Bỗng như có linh tính báo trước,
người tôi run lên bần bật... Tôi nghe hai tên bộ đội nói nhỏ với nhau:
- Trong vòng 15-20 phút nữa sẽ thủ tiêu hết bọn nầy!
Tôi liền ghé miệng vào tai thằng bạn bị trói ngay
trước mặt:
- Tụi mình ráng mở dây trốn đi! Mười lăm phút nữa là
bị bắn chết hết đó!
Trời mưa, dây điện trơn trợt, lát sau, chúng tôi mở
được giây nhưng vẫn ngồi yên sợ chúng biết. Tôi nói nhỏ:
- Hễ tao vỗ nhẹ sau lưng là tụi mình chạy nghe!
Bọn Việt Cộng đánh thức chúng tôi dậy, một tên nói lớn
cho mọi người nghe:
- Chúng ta sắp đến trại học tập rồi. Ai có vàng, tiền,
đồng hồ, bật lửa... thì đem nộp, không được giữ trong người... Học tập xong sẽ
được trả lại...”
Thế là bọn chúng lột sạch và cho tất cả vào mấy cái
ba lô vải. Tên bộ đội đứng gần chúng tôi còn mang trên vai cả chục cái radio mà
chúng đã cướp được của dân ở thành phố... Một tay mang súng, một tay mang các
thứ vừa cướp được, hắn đi chậm lại cách xa mấy tên kia một quãng... Chúng tôi bắt
đầu xuống dốc, nghe tiếng nước chảy róc rách... Tôi vỗ nhẹ vai thằng bạn và cả
hai chúng tôi vung tay và nhanh nhẹn phóng ra khỏi hàng. Tôi đá mạnh và tên bộ
đội mang nhiều radio... Hắn ngã nhào! Hai chúng tôi lao vào rừng...
Trời tối, rừng già chúng không giám đuổi theo... Khi
nghe tiếng đoàn người đi khá xa, chúng tôi mới bò ra khỏi chỗ ẩn núp và đi ngược
trở lại... Chừng 15-20 phút sau, chúng tôi bỗng nghe từ phía dưới vọng lên tiếng
súng AK, rồi lựu đạn nổ vang rền... Một góc rừng rực sáng! Chen vào đó tiếng
khóc la khủng khiếp... không hiểu sao lúc đó, tai tôi nghe rất rõ ràng... Lúc
đó khoảng 12-12 giờ 30 khuya... đầu ngày 8 Tết (6/2/1968). Về sau tôi mới biết
chỗ đó là Khe Đá Mài...” (Bài thuyết trình của cựu Dân biểu VNCH Nguyễn Lý Tưởng
tại cuộc hội thảo về chiến tranh Việt Nam tổ chức tại Việt Nam Center (Lubbock,
Texas) từ ngày 13 đến 15/3/2008)
Đối
diện sự thật
Ông Võ Văn Bằng, Trưởng Ban Cải táng Nạn nhân Cộng sản
Tết Mậu Thân nói với đài Á Châu Tự Do (RFA) năm 2008: “Các hố cách khoảng nhau.
Một hố vào khoảng 10 đến 20 người. Trong các hố, người thì đứng, nào là nằm,
nào là ngồi, lộn xộn. Các thi hài khi đào lên, thịt xương đã rã ra. Trên thi
hài còn thấy những dây lạc trói lại, cả dây điện thoại nữa, trói thành chùm với
nhau. Có lẽ, họ bị xô vào hố thành từng chùm. Một số người đầu bị vỡ hoặc bị lủng.
Lủng là do bắn, vỡ là do cuốc xẻng…”
Vẫn theo RFA thì Nhà báo Vũ Ánh, nguyên phóng viên mặt
trận hệ thống Truyền thanh quốc gia VNCH, đã có mặt tại Huế từ ngày 5 đến 29 Mậu
Thân và đi theo nhiều nhóm tìm hầm chôn tập thể kể lại cảm giác của ông: “Vùng
nhiều nhất là quận Phú Thứ và Dạ Lê Thượng có nhiều hầm chôn xác tập thể. Cảm
giác của tôi lúc ấy rất lạ, như là bị tê liệt khi nhìn các hình ảnh đó…
“Ngay ở hầm Phú Thứ, chắc khoảng gần 1.000 người.
Khui lên, đầu của họ phía sau sọ bị bể hết. Những thi hài bị nối nhau bằng dây
điện thoại. Có những người không có vết thương, chứng tỏ bị chôn sống”. (RFA
online ngày 1-2-2008)
Trong bài nói chuyện tại buổi 40 năm Tưởng niệm Tết
Mậu Thân, Việt Báo Gallery, thứ Bảy 29-3-2008, Nhà văn Nhã Ca tác giả “Giải
Khăn Sô Cho Huế” nói:
“Bốn mươi năm trước đây, đúng vào giờ trưa mùng Hai
Tết, tại Cửa Đông Ba Huế, chỉ mấy tiếng đồng hồ sau khi đột nhập, cộng sản khai
diễn cuộc tàn sát. Toán nạn nhân đầu tiên gồm 5 thường dân-không hề có người
lính Cộng Hòa nào. Tất cả bị trói, bắt đứng quay lưng vào tường thành. Dân
chúng đứng coi. Súng AK nổ. Từng người gục chết. Sau cuộc hành hình, thân nhân
những người bị bắn nhào ra muốn ôm xác. Họ bị đánh, bị đá, bị đuổi. Xác người bị
phơi ngày phơi đêm. Nắng. Máu. Ròi bọ…
“Và cuộc tàn sát tiếp tục. Không bằng súng đạn mà bằng
cách chôn sống. Những nạn nhân bị cột trói bằng dây điện dính chùm xếp hàng bên
hố. Một vài người bị đập đầu. Cả dây người đang sống bị đạp xuống hố đè lên
nhau. Cái đầu nào ngóc lên bị đập bằng cuốc. Cứ thế mà chôn hàng ngàn người. Bạn
tôi, chị Tâm Túy cũng đã bị chôn sống. Khi xác đào lên, thấy hai tay chị vói
lên như đang cố cào bới đất. Móng tay, móng chân mọc dài hơn. Tóc mọc dài hơn…Bạn
tôi bị chôn sống khi còn đầy sức sống..”
“Huế Tết Mậu Thân. Hàng ngàn người đã bị chôn sống
như thế”. (Việt Báo ngày 31-3-2008)
Cư sĩ Trí Lực, người đã chôn cất những xác chết nằm
lại sau biến cố Mậu Thân kể lại với RFA về nỗi kinh hoàng của ông:
“Hai mươi sáu ngày sau, sau khi Cố đô Huế bình định
trở lại thì tôi tận mắt chứng kiến những hầm chôn tập thể được khai quật lên từ
vùng Bãi Dâu Gia Hội, những người xấu số đã bị trói quật lại sau lưng và có những
mảnh xương sọ bị vỡ nát. Cảnh kinh hoàng là cộng sản đã chon sống bao nhiêu người
dân vô tội.
“Nhà văn Đinh Lâm Thanh, hiện sống ở Pháp, cũng là
chứng nhân của biến cố Mậu Thân kể:
“Gia đình của tôi vùng Phủ Cam là một, vùng An Vân
Thượng là hai, Gia Hội là ba. Bà con xa bà con gần của bên họ ngoại của tôi gồm
cả thảy 12 người. Trong 12 người đó, có người bị chôn sống, có người bị bắn tại
chỗ, có người bị chặt đầu, có người bị mổ bụng”. (RFA online ngày 7-2-2012)
Ông Nguyễn Lý Tưởng, cựu Dân biểu khu vực Thừa Thiên
Huế kể lại trong“cuộc hội thảo về chiến tranh Việt Nam tổ chức tại Việt Nam
Center (Lubbock, Texas) từ ngày 13 đến 15/3/2008”: “Mồ chôn tập thể: Các nạn
nhân bị thảm sát tại Huế và Thừa Thiên được tìm thấy tại trường tiểu học Gia Hội,
chùa Therevada, Bãi dâu, Cồn Hến, Tiểu Chủng Viện, khu vực phía Tây Huế gần
lăng Tự Đức và lăng Đồng Khánh, cầu An Ninh Thượng, cửa Đông Ba, trường An Ninh
Hạ, trường Văn Chí, Chợ Thông, Lang Xá Cồn, gần lăng Gia Long, gần chùa Tường
Vân, Đông Gi (Di), Vinh Thái, Thủy Thanh, Lương Viện, Phù Lương, Phú Xuân (Phú
Thứ), Thượng Hòa, Vinh Hưng, Khe Đá Mài... tất cả 23 địa điểm tại tổng cộng
2326 xác chết (sọ người). Còn khoảng trên 3,000 nạn nhân thuộc tỉnh Thừa Thiên
và Huế đã được thân nhân xác nhận là chết hoặc bị bắt đi thủ tiêu, mất tích...
không biết họ đã bị giết chết và chôn xác ở đâu?!
Dã man nhất là tại Khe Đá Mài (thuộc vùng núi Đình
Môn, Kim Ngọc, quận Nam Hòa, tỉnh Thừa Thiên) Việt Cộng đã dùng súng trung
liên, đại liên, lựu đạn và mìn giết tập thể các nạn nhân, vất xác xuống dưới
khe, lâu ngày thịt thối rữa bị nước cuốn đi, chỉ còn 428 sọ người, xương người
dồn lại một đống. Người ta đã dựa vào các dấu vết còn lại của nạn nhân như áo
len, tượng ảnh, giấy căn cước bọc nhựa (ID)... để biết được thân nhân của mình
đã chết ở trong đống sọ và xương lẫn lộn đó. Đa số những nạn nhân nầy là giáo
dân bị bắt ở nhà thờ Phủ Cam vào đêm mùng 5 Tết (3 tháng 2/1968) Người ta cũng
tìm thấy vết tích của hai ông Lê Hữu Bôi (chủ tịch sinh viên Phật tử năm 1963)
và Lê Hữu Bá (sĩ quan Quân Cảnh) tại Khe Đá Mài. Các em học sinh như Bùi Kha
(16 tuổi), Phan Minh (16 tuổi), Nguyễn Duyệt (17 tuổi) và nhiều bạn trẻ khác
thuộc giáo xứ Phủ Cam cũng bị VC giết hại tại đây...”
Lê
Phong Lan nói thật không?
Trái với những lời kể này, Bà Lê Phong Lan cho biết
bà đã phỏng vấn ông Lê Khả Phiêu - người chỉ huy một trung đội trong sự kiện Mậu
Thân 1968 tại Huế; lãnh đạo Thanh niên phật tử tranh đấu ở Huế theo Cộng sản
nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân; nhà báo Mỹ Stanley Karnow, cựu phóng viên tờ
Washington Post Don Lux; GS sử học Larry Berman, và cả những người lính từ hai
phía.
Bà nói: “Những dẫn chứng lịch sử cho thấy thông tin
bị làm méo mó. Vào thời điểm đó, một số hãng thông tấn nước ngoài và các nhà
báo độc lập đã tìm hiểu và xác định không tìm thấy hố chôn người tập thể như
phía Việt Nam Cộng hòa đưa ra. Câu chuyện của những nhân chứng có thẩm quyền đã
làm sáng rõ: cái gọi là "cuộc thảm sát đẫm máu” chỉ là đòn tâm lý chiến mà
Mỹ dựng lên, thực tế Huế đã bị bom Mỹ phá hủy làm nhiều thường dân chết cùng với
quân giải phóng và lính Mỹ.”
Nhưng, “ông Trương
Như Tảng (cựu Bộ trưởng Tư pháp Cộng hòa miền
Nam Việt Nam, về sau ly khai chính phủ và vượt biên sang sống lưu vong ở
Pháp), thì trong cuộc chiếm đóng Huế, một số lớn người đã bị xử tử vì thuộc
thành phần phục vụ cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa (viên chức, cảnh sát, sĩ
quan, chính trị gia, địa phương quân...) nhưng cũng có người bị giết mặc dù không
tham gia chiến trận. Ông dẫn lời một người bạn rằng do kỷ luật kém ở một số đơn
vị, một số thường dân cũng nhân dịp hỗn loạn để trả thù nhau nên đã có những vụ
giết hại vô cớ. Một bản báo cáo của Mặt trận Dân tộc Giải phóng bắt được ngày 25 tháng 4 năm 1968 ghi nhận, họ đã "diệt
1.892 nhân viên hành chánh, 38 cảnh sát, 790 tên ác ôn, sáu đại úy, 1 trung úy,
20 thiếu úy và nhiều sĩ quan trừ bị…" trong cuộc chiếm đóng Huế.” (Tài liệu
trích theo Hồi ký của ông Trương Như Tảng trên Internet)
Ngoài ra, báo cáo chính thức sau Mậu Thân ở Huế còn
cho biết: “Một vụ thảm sát gây phẫn nộ dư luận quốc tế là vụ giết 4 bác sĩ người
Đức sang giảng dạy và làm việc tại trường Đại Học Y Khoa Huế. Trong bài viết
“The Vietcong Massacre at Hue,” xuất bản năm 1976, một bác sĩ có tên Elje
Vannema, kể rằng ông bà bác sĩ Horst Gunther Krainick và hai bác sĩ Raymund
Discher cùng Alterkoster đã bị giết trong tháng Hai năm 1968 tại chùa Tường Vân
hoặc một vùng đất nhiều cây cối cách chùa chừng nửa dặm, nơi người ta tìm thấy
thi hài của các nạn nhân. Bác sĩ người Pháp, có tên Le Hir khám nghiệm tử thi
các nạn nhân cho biết có dấu vết đạn xuyên qua đầu và ót.”
Như vậy thì Đạo diễn Lê Phong Lan đã biết gì về Mậu
Thân ở Huê?
Bài báo năm 2013 của tôi kết luận: “Chẳng nhẽ
những người sống sót và nhân chứng đã bịa đặt ra chuyện thảm sát để vu oan cho
quân Cộng sản hay bà Lê Phong Lan đã cố tình làm phim để chạy tội cho quân Cộng
sản?
Dù cho thế nào thì cũng sẽ có ngày vụ giết thường
dân vô tội ở Huế trong vụ Mậu Thân 1968 sẽ được bạch hóa vì lịch sử và những nạn
nhân, hay con cháu của những người bị lính Cộng sản tàn sát ở Huế vẫn còn đó.
Ngay cả những oan hồn do họng súng, dao găm, búa rìu hay dây nhợ cột vào thân nối
nhau bị đẩy xuống hố vẫn còn vất vưởng ở khắp thành phố Huế và vùng phụ cận.
Từ bao nhiêu năm qua, người dân ở Huế đã cố quên đi
nỗi đau buồn khi mỗi dịp Xuân về, nhưng năm nay thì bà Lê Phong Lan thay vì đem
đến cho họ món quà Tết thì bà lại cố tình lấy dao cắt vào thớ thịt của mỗi người
bằng bộ phim “Mậu Thân 1968” để nhắc cho dân Cố Đô biết rằng máu vẫn chưa khô
trên thành phố Huế."(hết trích)
Và Tết Bính Thân năm nay (2016) , tôi vẫn hình dung
được máu của những người dân vô tội xứ Huế sẽ lại hiện lên. Bởi vì, trong khi sự
thật vẫn đang ở trước mắt thì các sách giáo khoa Lịch Sử của Bộ Giáo dục Việt
Nam, cho đến bây giờ, vẫn không dám nói đến thảm sát ở Cố Đô. -/-
(Tết Bính Thân)
No comments:
Post a Comment